Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế và khung khổ chính sách thương mại việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.71 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM SỸ AN

MỐI QUAN HỆ GIỮA THƢƠNG MẠI VÀ
TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
VÀ KHUNG KHỔ CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI
VIỆT NAM

Chuyên ngành:
Mã số:

Kinh tế phát triển
62.31.01.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI1 – 2016


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Tập thể hướng dẫn khoa học: 1. TS. Bùi Trƣờng Giang
2. TS. Võ Trí Thành

Phản biện 1: PGS.TS. Lê Quốc Hội
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Nam


Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Bá Ngọc

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2016

Có thể tìm hiểu Luận án tại
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội.

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ năm 2001 đến nay, Việt Nam đã thực hiện nhiều cam kết đa
phương, song phương và khu vực. Năm 2016 sẽ đánh dấu bước ngoặt
trong quá trình hội nhập của Việt Nam khi nước ta tham gia khá nhiều
hiệp định thương mại như TPP, RCEP, AEC, EVFTA.
15 năm qua, nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày một sâu và
với tốc độ ngày càng nhanh vào nền kinh tế quốc tế thông qua các kênh
hội nhập rất đa dạng và với các cấp độ, tầng nấc khác nhau. Độ mở cửa
lớn sẽ làm cho tăng trưởng của nước ta phụ thuộc nhiều hơn vào hoạt
động thương mại. Do đó, nếu không tìm hiểu kỹ tác động của thương
mại quốc tế đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, thiết kế chính
sách thương mại trong tương lai có thể trở nên kém hiệu quả, không
những không thúc đẩy tăng trưởng bền vững, dịch chuyển cơ cấu nền
kinh tế theo hướng hiện đại mà còn làm cản trở tăng trưởng của nền
kinh tế.
Thương mại quốc tế hay ngoại thương có thể tác động tích cực

đến tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như mở rộng hoạt động sản
xuất trong nước, tăng hiệu ứng kinh tế theo quy mô, tăng chuyển giao
công nghệ, tăng lượng vốn. Nhưng đồng thời ngoại thương cũng có thể
truyền tải những rủi ro và cú sốc từ bên ngoài vào nền kinh tế trong
nước nhanh hơn và với mức độ nghiêm trọng hơn. Nhìn từ hai khía
cạnh này, việc xem xét tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế
để từ đó nắm được các kênh truyền dẫn những tác động tích cực và các
kênh truyền dẫn những tác động tiêu cực sẽ góp phần thiết kế chính
sách thương mại trong thời gian tới khi mà Việt Nam tham gia ở các
cấp độ sâu hơn, rộng hơn và đa dạng hơn vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa thương mại quốc tế và tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Đồng thời luận án sẽ phân tích các kênh
1


tác động từ thương mại đến tăng trưởng của nền kinh tế trong giai đoạn
2001-2014 để từ đó đề xuất chính sách thương mại.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa thương
mại và tăng trưởng kinh tế, và khung khổ chính sách thương mại của
Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:
* Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung xem xét tác động của
thương mại hàng hóa quốc tế và các kênh tác động đến tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam.
* Phạm vi thời gian: khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm
2014 và những hàm ý hoàn thiện chính sách thương mại đến năm 2025.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng kết hợp cả phương pháp
phân tích định tính và phương pháp phân tích định lượng.
+ Phương pháp phân tích định tính, gồm có: phương pháp thống
kê, mô tả, phương pháp so sánh, phân tích diễn dịch, phân tích quy nạp.
+ Phương pháp định lượng chủ yếu sử dụng phương pháp hạch
toán khung khổ tăng trưởng.
5. Những đóng góp của luận án
Có bốn vấn đề chính mà luận án đóng góp:
+ Luận án tổng thuật lý thuyết về mối quan hệ giữa thương mại
và tăng trưởng.
+ Luận án phân tích thực trạng tăng trưởng, chính sách thương
mại và diễn biến thương mại của Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2014.
+ Luận án phân tích kênh truyền dẫn tác động của thương mại
đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2014.
+ Sau khi phân tích tác động của thương mại đến tăng trưởng
kinh tế, nắm rõ được vấn đề của chính sách thương mại và cấu trúc
thương mại trong nước, cuối cùng, luận án sẽ đưa ra những đề xuất cho
chính sách thương mại và các chính sách kinh tế có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
2


Đề tài hệ thống hóa cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa
thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế, cụ thể, đề tài hệ thống
hóa các kênh truyền dẫn tác động từ thương mại đến tăng trưởng;
khảo sát các kênh truyền dẫn cho trường hợp của Việt Nam giai
đoạn 2001-2014 để từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nhằm tăng
cường tác động tích cực của thương mại đến tăng trưởng trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế thời gian sắp tới.

7. Kết cấu luận án
Chương 1 sẽ tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước liên quan đến đề tài, chỉ ra khoảng trống trong nghiên cứu.
Chương 2 sẽ tổng hợp cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa
thương mại với tăng trưởng để làm cơ sở cho việc mô tả và phân tích
tác động của thương mại đến tăng trưởng ở chương tiếp theo.
Chương 3 mô tả tăng trưởng và thương mại của Việt Nam giai
đoạn 2001-2014. Đồng thời, chương này cũng phân tích tác động của
thương mại đến tăng trưởng kinh tế và những kênh tác động.
Chương 4 sẽ nêu ra hệ quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện
chính sách thương mại giai đoạn đến năm 2025 từ các phân tích ở trên.

3


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu quốc tế
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng
kinh tế nói chung và tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế
nói riêng hiện có rất nhiều.
Các nghiên cứu của Thirlwall (1994, 2000, 2002) cho rằng xuất
khẩu tác động mạnh đến tăng trưởng vì xuất khẩu không chỉ tác động
trực tiếp đến tổng cầu mà nó còn tác động gián tiếp thông qua những
thành phần khác của tổng cầu. Nhập khẩu phần lớn được tài trợ bởi xuất
khẩu, và tiêu dùng, đầu tư cũng được hỗ trợ phần nào bởi xuất khẩu.
Bên cạnh đó, những loại công nghệ (máy móc, trang thiết bị) không thể
sản xuất trong nước nhưng lại đóng vai trò lớn trong hoạt động sản xuất
chỉ có thể có được thông qua nhập khẩu. Hay nguyên vật liệu nhập khẩu
cũng là một đầu vào rất quan trọng cho hoạt động sản xuất.

Các nghiên cứu cho một nhóm nước:
Dollar (2002) phân tích tác động của thể thế và thương mại đến
tăng trưởng. Tác giả kết luận rằng những quốc gia có thể chế tốt hơn và
thương mại nhiều hơn có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn.
Dollar và Kraay (2004) đã kết luận rằng những quốc gia đi sau
nhưng mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế sẽ hội tụ tới nhóm
các nước giàu nhanh hơn so với những quốc gia đi sau nhưng không mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nghiên cứu cho riêng từng quốc gia:
Herath (2009) xem xét tác động của tự do hoá thương mại đến
tăng trưởng kinh tế tại Sri Lanka cho giai đoạn 1960-2007. Kết luận tác
giả đưa ra là tự do hoá thương mại có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế của Sri Lanka.
Sun và Heshmati (2010) phân tích hoạt động thương mại của
Trung Quốc và tác động của nó tới tăng trưởng kinh tế của nước này.
Nghiên cứu đưa đến kết luận rằng tham gia thương mại quốc tế ngày
4


một sâu rộng của Trung Quốc đã làm cho nền kinh tế của nước này thu
được cả lợi ích tĩnh và động.
Marelli và Signorelli (2011) phân tích tác động của thương mại
và độ mở nền kinh tế đến tăng trưởng kinh tế của cả Ấn Độ và Trung
Quốc. Kết quả cho thấy độ mở của nền kinh tế và thương mại có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của hai nước này.
Nghiên cứu về các kênh tác động cũng tương đối nhiều như các
nghiên cứu của Coe và cộng sự (1997), Edwards (1998), Bhagwati
(1988), Waczirg (1997), Bigsten và cộng sự (2000), Kraay (1999),
Hallward-Driemeier và cộng sự (2000), Frankel và Romer (1999).
1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc

Cho đến nay, mối quan hệ giữa cán cân thương mại và tăng
trưởng kinh tế chưa được khám phá đầy đủ và hệ thống ở Việt Nam.
Những bài nghiên cứu thường tìm nguồn gốc tăng trưởng kinh tế dưới
dạng hàm sản xuất (mặt cung) như Trần Võ Hùng Sơn và Châu Văn
Thành (1998), Lê Đăng Doanh và cộng sự (2002), Chu Quang Khởi
(2003), Trần Thọ Đạt và cộng sự (2004).
Phạm Sỹ An (2005) xem xét tính ràng buộc của thương mại
(tăng trưởng xuất khẩu và độ co giãn của nhập khẩu đối với thu nhập)
đến tăng trưởng của một nền kinh tế. Phạm Sỹ An (2006) phân tích mô
hình mở rộng hơn về tác động của thương mại đến tăng trưởng, đồng
thời cũng nghiên cứu trường hợp cụ thể Việt Nam trong giai đoạn 19912004. Các nghiên cứu riêng về thương mại thì có khá nhiều như
Oostendorp và Quang (2010) phân tích tác động của tự do hoá thương
mại đến lợi tức giáo dục của Việt Nam, hay Trang, Tâm và Nam (2011)
xem xét những nhân tố quyết định đến xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam.
Nói tóm lại, kết quả phân tích từ các công trình nghiên cứu ngoài
nước là nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho luận án. Còn các công trình
nghiên cứu trong nước ở các khía cạnh riêng rẽ như tăng trưởng hay
thương mại có tương đối nhiều, nhưng phân tích một cách hệ thống tác
động từ thương mại đến tăng trưởng cũng như các kênh truyền tải tác
5


động thì còn thiếu sót. Vì vậy, luận án được hy vọng sẽ là công trình
nghiên cứu bổ sung cho các công trình nghiên cứu hiện nay và làm sáng
tỏ hơn nhiều câu hỏi nghiên cứu, nhiều vấn đề được đặt ra trong giai đoạn
sắp tới.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƢỞNG, THƢƠNG MẠI VÀ
QUAN HỆ GIỮA THƢƠNG MẠI VỚI TĂNG TRƢỞNG

2.1. Khái niệm về tăng trƣởng, thƣơng mại và chính sách thƣơng
mại
Khái niệm về tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh tế là sự gia
tăng tổng sản lượng giữa hai thời điểm t và t – 1.
Khái niệm về thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế là trao đổi
hàng hóa hay dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Để đánh giá mức độ
mở cửa thương mại của một nước có thể sử dụng nhiều cách đo khác
nhau như tỷ lệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu với GDP
hay qua nhiều cách thức đo lường khác.
Khái niệm về chính sách thương mại và một số công cụ của chính
sách thương mại: chính sách thương mại là các biện pháp nhằm hạn chế
hay thúc đẩy thương mại. Chính sách thương mại có rất nhiều mục đích
như tăng doanh thu cho ngân sách, bảo hộ ngành công nghiệp trong
nước, thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách thương mại có những công cụ
chủ yếu sau: Thuế quan; trợ cấp xuất khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; hạn
chế xuất khẩu tự nguyện (VER); yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa; và những
công cụ thương mại khác như tín dụng trợ cấp xuất khẩu, mua sắm
chính phủ, các rào cản hành chính.
2.2. Mối quan hệ giữa thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế
Mối quan hệ định tính giữa thương mại và tăng trưởng được mô
tả khá rõ qua công trình nghiên cứu kinh điển của Adam Smith (1776).
Adam Smith đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thương mại như
một kênh cho dòng hàng hóa từ sản xuất đến tiêu dùng. Tự do hóa
thương mại sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động sản
6


xuất và cải thiện quá trình phân chia lao động (chuyên môn hóa) và
năng suất của nền kinh tế. Như vậy, thương mại tác động đến tăng
trưởng thông qua phân chia lao động, chuyên môn hóa và do đó là năng

suất.
Tiếp đến, David Ricardo (1772-1823) phát triển lý thuyết về lợi
thế so sánh dựa trên các giả sử về cạnh tranh hoàn hảo và toàn dụng
nguồn lực. Lý thuyết này cho rằng các quốc gia có thể thu được lợi ích
thông qua chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa với chi phí cơ hội thấp
nhất và trao đổi hàng hóa thặng dư. Đây thực chất là lợi ích tĩnh từ quá
trình phân phối lại nguồn lực từ ngành này đến ngành khác khi chuyên
môn hóa gia tăng dựa trên lợi thế so sánh. Ngược lại với lợi ích tĩnh, lợi
ích động liên tục làm dịch chuyển toàn bộ đường biên khả năng sản
xuất của các quốc gia nếu thương mại dẫn đến đầu tư nhiều hơn và năng
suất tăng nhanh hơn dựa trên tính kinh tế theo quy mô, học qua làm và
thu nhận kiến thức mới từ nước ngoài mà cụ thể là thông qua đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Lợi ích động từ thương mại được lý thuyết thương mại hiện đại
và lý thuyết tăng trưởng “mới” chú trọng phân tích và đưa vào mô hình.
Lợi ích động thiết lập một mối liên kết quan trọng trong chuỗi nhân quả
giữa xuất khẩu và tăng trưởng.
Ranis (2007) thể hiện một số kênh thương mại có thể tác động
đến tăng trưởng của nền kinh tế thông qua lợi ích tĩnh và lợi ích động.
Lợi ích của thương mại là tìm đường đi cho các nguồn lực thặng dư hay
nhàn dỗi và tạo ra sự thay đổi công nghệ kiểu của Adam Smith hoặc
Schumpeter (1934) (thông qua chuyên môn hóa lao động, cạnh tranh, và
học hỏi).
Berg và Krueger (2003) liệt kê một danh sách các kênh cùng với
các nghiên cứu thực nghiệm kèm theo mà thương mại có thể tác động
đến tăng trưởng của nền kinh tế. Cơ chế thông qua đó phân phối nguồn
lực tĩnh tác động đến tăng trưởng ít rõ ràng hơn mặc dù một số các kênh
đã được chỉ ra, gồm có: a) hiệu quả đầu tư tăng, cụ thể đó là tầm quan
trọng của hàng hóa vốn nhập khẩu tại các nước đang phát triển; b) khả
7



năng mở rộng tại lợi tức không đổi theo quy mô cho một thời kỳ dài
hơn thông qua việc tiếp cận đến thị trường rộng lớn hơn (Ventura,
1997); c) lợi tức thực của vốn cao hơn trong những quốc gia khai thác
lợi thế so sánh là thặng dư lao động không kỹ năng; d) tỷ lệ tiết kiệm và
dòng vào của vốn nước ngoài cao hơn có lẽ được thu hút bởi (a)
và/hoặc (b); e) hiệu ứng tăng trưởng nội sinh có khả năng bắt nguồn từ
tăng trưởng ngắn hạn nhanh hơn nhằm phản ứng trước việc mở cửa
thương mại; f) nguyên tắc áp đặt vào chính phủ để thực hiện các cải
cách chính sách hỗ trợ tăng trưởng khác nếu có cơ chế thương mại mở;
g) giảm hoạt động tìm kiếm lợi tức (rent-seeking) tạo ra bởi những hạn
chế thương mại; h) thúc đẩy đổi mới và tinh thần nghiệp chủ bắt nguồn
từ cạnh tranh và tiếp cận đến thị trường rộng lớn hơn; và i) mở cửa đối
với những ý tưởng và đổi mới tạo ra từ mở cửa thương mại.
Một chủ đề trung tâm của lý thuyết tăng trưởng nội sinh là mở
cửa thúc đẩy tăng trưởng dài hạn theo một số cách thức (Berg và
Krueger, 2003). Các mô hình nhấn mạnh đến sự khuếch tán công nghệ
như động lực cho tăng trưởng dài hạn có thể được xây dựng để dự báo
rằng những quốc gia mở cửa lớn hơn sẽ có tốc độ tăng trưởng ở trạng
thái dừng cao hơn (Grossman và Helpman, 1991). Học thông qua làm
được nhấn mạnh trong Lucas (1988) và Young (1991). Các lập luận
trước đây cho rằng mở cửa thương mại cho phép chuyên môn hóa trong
những ngành công nghiệp với tính kinh tế theo quy mô và nhờ đó thúc
đẩy tăng trưởng dài hạn là tiền thân của loại lập luận này.
Nói tóm lại, qua nhiều cách thức khác nhau, thương mại có tác
động đến tăng trưởng của nền kinh tế từ mặt cung cũng như mặt cầu, từ
hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Các kênh tác động rất phong
phú và tầm quan trọng các kênh tác động sẽ khác nhau qua các quốc gia
khác nhau và có thể cũng khác nhau qua từng giai đoạn tại một nước.

2.3 Mô hình về mối quan hệ giữa thƣơng mại và tăng trƣởng
Mô hình về mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng được
lấy từ nghiên cứu của Edwards (1998). Mối quan hệ này thể hiện dưới 2
phương trình sau:
8


(1)
(2)
Trong đó,
là GDP,
là kho tri thức hay TFP,
là vốn và
là lao động. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tăng trưởng của vốn,
lao động và TFP.
̇ ⁄ là tốc độ tăng trưởng của TFP, là tốc độ đổi mới trong
nước,
là tốc độ một quốc gia có khả năng thu hẹp khoảng cách tri
thức với thế giới và chịu tác động của các chính sách thương mại,

kho kiến thức của thế giới, kho này được giả sử tăng trưởng tại tỷ lệ cao
hơn so với tốc độ đổi mới trong nước (
).
Theo Edwards (1998), có 2 nguồn dẫn đến tăng trưởng TFP, đó là
nguồn xuất phát từ bên trong nền kinh tế được thúc đẩy bởi đổi mới
(innovation) và vốn con người (giáo dục) và nguồn xuất phát từ quốc tế
được thúc đẩy bởi khả năng bắt chước hay hấp thụ công nghệ từ các
quốc gia đi đầu. Bắt chước phụ thuộc vào khả năng “đuổi bắt” („catchup‟) của nền kinh tế. Những quốc gia đang phát triển càng cách xa trình
độ công nghệ của các nước dẫn đầu bao nhiêu thì khả năng và tốc độ
đuổi bắt càng lớn bấy nhiêu. Và một quốc gia có độ mở cửa lớn hơn với

bên ngoài cũng sẽ có tốc độ đón nhận và hấp thụ công nghệ lớn hơn, vì
thế góp phần tăng năng suất nền kinh tế cao hơn so với các quốc gia có
độ mở cửa thấp hơn.
Như vậy, lý thuyết về mối quan hệ giữa thương mại và tăng
trưởng kinh tế cho thấy thương mại tác động đến tăng trưởng, mà cụ thể
là TFP thông qua quá trình “học từ làm” (learning-by-doing), bắt chước,
lan tỏa tri thức và truyền tải công nghệ. Các kênh truyền dẫn này cuối
cùng sẽ làm thu hẹp khoảng cách tri thức của một quốc gia đang phát
triển với thế giới.
2.4. Kinh nghiệm quốc tế và những bằng chứng về mối quan hệ và
kênh tác động giữa thƣơng mại và tăng trƣởng kinh tế
2.4.1. Kinh nghiệm Hàn Quốc:
Quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc bắt đầu bằng cuộc đảo
chính quân sự của tướng Park Chung Hee năm 1961. Park cầm quyền

̇⁄

9


trong 18 năm và đã triển khai nhiều chính sách công nghiệp và thương
mại để biến Hàn Quốc trở thành con Rồng của châu Á.
Chính sách thương mại của Hàn Quốc:
Một trong những cải cách quan trọng của Tổng thống Park là
chính sách thương mại. Park sẵn sàng bảo trợ cho các doanh nghiệp
nhưng với điều kiện các doanh nghiệp phải đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là
một tiêu chí rất minh bạch, rõ ràng.
Hong (1979) liệt kê 38 cải cách cụ thể trong chính sách thương
mại để thúc đẩy xuất khẩu vào đầu những năm 1960. Hàn Quốc loại bỏ
thuế nhập khẩu đầu vào và thuế đánh vào hàng hóa vốn (capital goods)

nhưng với điều kiện các hàng hóa nhập khẩu này được sử dụng để sản
xuất hàng hóa cho xuất khẩu. Hay nói cách khác, nhập khẩu không thể
được sử dụng để sản xuất các hàng hóa bán trong nước.Theo đánh giá
của Westphal và Kim (1977), đây là chính sách định hướng xuất khẩu
quan trọng, ít ra là cho đến tận năm 1975.
Ngoài việc loại bỏ thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa đầu vào
cho hoạt động sản xuất xuất khẩu, đầu những năm 1970 và liên tiếp
trong 2 thế kỷ sau đó, Hàn Quốc tiến hành giảm dần thuế nhập khẩu và
ở phạm vi lớn hơn, giảm từ 40% xuống còn 13%, đã gây sức ép cạnh
tranh lên các doanh nghiệp trong nước nhưng vẫn tạo cho họ khoảng
thời gian để điều chỉnh kế hoạch và chiến lược sản xuất – kinh doanh.
2.4.2. Kinh nghiệm Đài Loan (Trung Quốc):
Chính sách thương mại định hướng xuất khẩu:
Trước hết, Đài Loan thực hiện chính sách công nghiệp hóa hướng
xuất khẩu thông qua thực hiện đồng bộ các giải pháp như (i) Điều hành
tỷ giá hối đoái ổn định; (ii) Để thúc đẩy xuất khẩu, Đài Loan giảm hàng
rào thuế quan hoặc các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu khác thông qua hoàn
thuế; (iii) Thiết lập các khu chế biến xuất khẩu đầu tiên trên thế giới tại
Kaohsiung; (iv) Các doanh nghiệp được tự do xuất – nhập khẩu, khai
thác lợi thế so sánh quốc tế và tiếp cận đến thị trường thế giới rộng lớn
hơn nhiều. Tất nhiên, tại Đài Loan cũng tồn tại sự bảo hộ nhưng mức độ
bảo hộ được điều chỉnh giảm dần.
10


2.4.3. Kinh nghiệm Trung Quốc:
Chính sách thương mại hay chính sách mở cửa của Trung Quốc
đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ đầu đổi mới cũng như trong giai
đoạn tăng tốc thần kỳ của Trung Quốc trong mấy thập kỷ vừa qua.
Kể từ khi bắt đầu cởi trói nền kinh tế, các nhà lãnh đạo Trung

Quốc đã mở cửa và đưa Trung Quốc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Từ năm 1978 Trung Quốc khuyến khích thương mại tự do và từng bước
bãi bỏ các hạn chế thương mại. Chính phủ đã thay đổi chính sách
thương mại bằng việc giao cho chính quyền địa phương nhiều quyền
hơn trong thương mại quốc tế và cho phép các doanh nghiệp tư nhân
thực hiện thương mại quốc tế.
Vào năm 2001, Trung Quốc gia nhập WTO và nước này đã tận
dụng rất tốt cơ hội trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất
thế giới để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, chuyển dịch cấu trúc và đẩy
mạnh tăng trưởng nền kinh tế.
2.4.4. Bài học cho Việt Nam:
Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc, bài học rút ra như sau: Thứ nhất,
chính phủ có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước tuy nhiên với
điều kiện các doanh nghiệp phải đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ hai, các
chính sách thương mại thúc đẩy tăng trưởng đáng lưu ý của Hàn Quốc
gồm có: Bỏ thuế nhập khẩu đầu vào sử dụng để sản xuất các hàng hóa
cho xuất khẩu; sau khi sức cạnh tranh được cải thiện, chính phủ bắt đầu
giảm dần thuế nhập khẩu ở phạm vi lớn hơn. Giảm thuế nhập khẩu để
buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm
dần thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp có thời gian thay đổi chiến
lược và phương thức sản xuất – kinh doanh; Chính phủ thực hiện rất
nhiều các hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước nhưng đặt điều kiện
phải thúc đẩy xuất khẩu, lấy thị trường bên ngoài làm tiêu chuẩn để
đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và đồng thời để
đánh giá hiệu quả của sự hỗ trợ. Nói cách khác, Hàn Quốc hỗ trợ các
tập đoàn kinh tế cho định hướng xuất khẩu thay vì thay thế nhập khẩu.
11


Từ kinh nghiệm của Đài Loan (Trung Quốc), bài học rút ra cho

Việt Nam như sau: Thứ nhất, chính quyền Đài Loan lựa chọn khu vực
doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chủ đạo cho quá trình công nghiệp
hóa nền kinh tế; thực hiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư
nhân đổi mới, sáng tạo và phát triển. Song song với đó là mở cửa thị
trường, coi hoạt động xuất khẩu như đường ra cho các sản phẩm sản
xuất trong nước và coi thị trường bên ngoài là nơi tạo sức ép nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Hay nói cách
khác, Đài Loan đã lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa định hướng
xuất khẩu thay vì thay thế nhập khẩu. Thứ hai, một loạt các giải pháp
quan trọng khác hỗ trợ cho hoạt động sản xuất trong nước và cho xuất
khẩu được Đài Loan thực hiện như: Điều hành tỷ giá hối đoái ổn định;
Giảm hàng rào thuế quan xuất khẩu hoặc hỗ trợ xuất khẩu thông qua
hoàn thuế; Xây dựng khu chế biến xuất khẩu; Khuyến khích các doanh
nghiệp tự do xuất khẩu và nhập khẩu để khai thác lợi thế so sánh và
thúc đẩy tiếp cận đến thị trường thế giới; Giảm dần mức độ bảo hộ cho
các doanh nghiệp trong nước.
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, bài học rút ra cho Việt Nam
như sau: Thứ nhất, bên cạnh lực lượng lao động thiếu kỹ năng dồi dào
thì Trung Quốc có một lực lượng lớn lao động có kỹ năng và làm việc
thực sự chăm chỉ. Thứ hai, hàm lượng công nghệ trong các mặt hàng
xuất khẩu của Trung Quốc ngày càng tăng từ việc khuyến khích các
doanh nghiệp nước ngoài đặt các dây chuyền sản xuất linh kiện tại
Trung Quốc cho đến việc nâng cấp các doanh nghiệp công nghiệp của
Trung Quốc. Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc đầu tư mạnh vào cơ sở hạ
tầng và chất lượng nguồn nhân lực để giảm thiểu chi phí sản xuất cũng
như tạo cơ hội nâng cấp các sản phẩm công nghiệp của Trung Quốc
trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ tư, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định và thuận lợi. Tỷ lệ lạm phát thấp và đồng NDT của Trung Quốc
được định giá thấp so với đồng USD cũng đã khuyến khích hoạt động
sản xuất cho xuất khẩu thay vì nhập khẩu.

12


Chƣơng 3
TĂNG TRƢỞNG VÀ THƢƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
3.1. Tăng trƣởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2014
Kể từ năm 2001 cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
diễn ra và tác động đến nền kinh tế trong nước, tăng trưởng của nền
kinh tế ở mức cao, trung bình vào khoảng 7,74%/năm. Nhưng sau khi
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra và biến thành cuộc suy thoái
kinh tế toàn cầu, cộng với những vấn đề nội tại của nền kinh tế, tốc độ
tăng trưởng sụt giảm trung bình từ 7,74% giai đoạn 2001-2007 xuống
còn 5,85%/năm giai đoạn 2008-2014.
Trong giai đoạn 2001-2014, cơ cấu kinh tế nước ta dịch chuyển
theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp, và thủy sản (gọi
tắt là “nông nghiệp”) có xu hướng giảm, hiện chiếm khoảng 18% trong
tổng giá trị GDP. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng không có sự thay
đổi rõ rệt trong hơn 10 năm qua, hiện chiếm 38,5%. Tỷ trọng dịch vụ có
xu hướng tăng từ 38,6% năm 2001 lên đến 43,4% năm 2014.
Mặc dù về tổng thể cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích
cực nhưng nếu xét ở khía cạnh giá trị gia tăng của sự chuyển dịch thì
không có nhiều thay đổi. Hoạt động sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia
công, lắp ráp giá trị gia tăng thấp; còn trong lĩnh vực nông nghiệp là các
hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và xuất khẩu những sản phẩm nông
nghiệp thô có giá trị gia tăng thấp như cao su, gạo, tiêu, điều, cà phê,
thủy sản.
Các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng hoặc sẽ đóng vai trò quan trọng
cho kênh truyền dẫn tác động từ thương mại đến tăng trưởng như cơ sở
hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực công nghệ, và thể chế
kinh tế còn chậm cải thiện.

3.2. Chính sách thƣơng mại và thƣơng mại quốc tế giai đoạn 20012014
a. Chính sách thương mại:
Trong giai đoạn 2001-2014, nước ta tham gia nhiều hiệp định
thương mại song phương, đa phương và khu vực. Tham gia các Hiệp
13


định thương mại đòi hỏi có những thay đổi về biểu thuế, các hàng rào
định lượng, các hàng rào kỹ thuật, phạm vi và cách thức trợ cấp của
chính phủ,… . Vì vậy, mỗi mốc hội nhập kinh tế quốc tế phản ánh sự
thay đổi trong chính sách thương mại của nước ta. Tỷ lệ thuế giảm dần
qua những lần mở cửa thương mại, hạn ngạch cũng đã hạn chế sử dụng,
tín dụng trợ cấp xuất khẩu đóng vai trò nhất định trong thúc đẩy xuất
khẩu, yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa đã và đang được sử dụng nhưng đem lại
kết quả nhỏ bé trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, mua sắm
chính phủ được sử dụng nhưng mục tiêu hướng tới chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế không rõ ràng, các rào cản hành chính thì chưa được sử
dụng cho thúc đẩy cơ cấu kinh tế.
b. Thực trạng thương mại và cấu trúc thương mại của Việt Nam:
Trong giai đoạn 2001-2014, tỷ trọng thương mại so với quy mô
nền kinh tế có xu hướng tăng, điều này phần nào phản ánh nền kinh tế
nước ta đang ngày một mở cửa lớn hơn với bên ngoài. Tỷ trọng thương
mại/GDP năm 2001 là 103% thì đến năm 2014 tăng lên 169%, độ mở
của nền kinh tế nước ta cao hơn rất nhiều so với nhiều nước đang phát
triển và phát triển trên thế giới.
Cấu trúc thương mại nước ta phản ánh chính xác trình độ phát
triển của nền kinh tế và phản ánh đúng đặc điểm thường thấy của một
nền kinh tế đang phát triển, đó là chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng gia
công, lắp ráp, may mặc, đây là những mặt hàng nghiêng về sử dụng
công nghệ sản xuất thâm dụng lao động. Bên cạnh đó là xuất khẩu

khoáng sản và sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Đây đều
là những mặt hàng không đem lại tác động lan tỏa tích cực lớn về mặt
công nghệ cho nền kinh tế. Hơn nữa, các mặt hàng này có đặc điểm lợi
tức giảm dần theo quy mô. Đất đai có hạn và trữ lượng khoáng sản cũng
có hạn, vì vậy khai thác để gia tăng xuất khẩu đến một ngưỡng nào đó
sẽ dừng lại. Còn đối với các mặt hàng chế tác (gia công, lắp ráp) thì
nước ta đang tận dụng giá nhân công rẻ, tuy nhiên cùng với thời gian,
giá nhân công sẽ tăng dần và nếu năng lực của nền kinh tế không giúp
chuyển dịch hoạt động sản xuất từ trình độ thấp sang trình độ cao, nền
14


kinh tế sẽ đi đến điểm dừng của tăng trưởng mà theo ngôn từ của Giáo
sư Ohno là gặp phải bức tường thủy tinh hoặc rơi vào bẫy thu nhập
trung bình.
Theo đánh giá của Perkins (2002), “khi bắt đầu chuyển đổi sang
hệ thống dựa vào thị trường, một số phần trong đường lối phát triển
kinh tế của Đông Á đã không gây tranh cãi trong giới lãnh đạo của
Trung Quốc và Việt Nam, và những phần này được đưa vào ngay từ lúc
đầu của thời kỳ cải cách ở cả hai nước. Đứng đầu trong những thành
phần này là quan điểm hướng ngoại với sự chú trọng đặc biệt mạnh mẽ
đến tăng trưởng xuất khẩu. Xuất khẩu trong trường hợp của Trung
Quốc, cũng như của bốn con hổ Đông Á khác (Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapore và Đài Loan), cộng với Nhật Bản, chủ yếu là xuất khẩu hàng
chế tác chứ không phải khoáng sản hay nông sản. Còn trong trường hợp
của Việt Nam, mục tiêu là mở rộng xuất khẩu hàng chế tác, nhưng thực
tiễn trước mắt lại là mở rộng xuất khẩu phụ thuộc vào tăng trưởng xuất
khẩu nông sản và dầu mỏ. Tuy nhiên, trong dài hạn, Việt Nam sẽ phải
dựa nhiều hơn vào xuất khẩu hàng chế tác, với những lý do tương tự
như của Trung Quốc. Cả hai nước này đều có diện tích đất canh tác trên

đầu người 0,1 ha, và những nước có quỹ đất thuộc loại eo hẹp này
thường trở thành những nước nhập khẩu thuần lương thực và các nông
sản khác, chứ không phải là nước xuất khẩu thuần” (trang 312-313).
Ohno và Lê Hà Thanh (2015) nhận xét rằng “xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam chủ yếu do các tên tuổi lớn như Samsung, Canon, Intel,
Fujitsu và những thương hiệu lớn của nước ngoài khác cũng như các
nhà sản xuất hàng may mặc và da giầy trong và ngoài nước. Các ngành
này đều là các ngành thâm dụng lao động trong khi Việt Nam phụ thuộc
nhiều vào nguyên vật liệu, linh kiện công nghiệp và sản phẩm tiêu dùng
nhập khẩu. Việc xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng lao động và nhập
khẩu các nguyên liệu và sản phẩm công nghiệp gần như không thay đổi
nhiều trong hai thập kỷ qua”.

15


Về đối tượng tham gia xuất khẩu, hầu hết mọi loại hình doanh
nghiệp đều tham gia xuất khẩu hàng hóa, tuy nhiên, chủ thể nổi bật nhất
trong xuất khẩu hàng hóa là các doanh nghiệp FDI.
Hàm lượng FDI trong các mặt hàng xuất khẩu như điện thoại các
loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy ảnh,
máy quay phim và linh kiện; phương tiện vận tải và phụ tùng đều chiếm
trên 80%. Giày dép các loại xuất khẩu có hàm lượng FDI chiếm đến
gần 80% (Trần Đình Thiên, 2015b).
3.3. Quan hệ giữa thƣơng mại và tăng trƣởng
Mối quan hệ giữa tăng trưởng vốn và độ mở của nền kinh tế giai
đoạn 1987-2014 có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau. Điều này phản
ánh rằng quá trình mở cửa nền kinh tế đem lại cơ hội cho nền kinh tế,
tuy nhiên nước ta mới chỉ khai thác lợi thế so sánh tĩnh để tận dụng cơ
hội này.

Thương mại sẽ tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế thông
qua các kênh này nhưng nếu cơ cấu nền kinh tế và cấu trúc thương mại
không có sự thay đổi, thương mại sẽ không có tác động dài hạn đến nền
kinh tế, nhất là thông qua năng suất.
Mối quan hệ giữa độ mở của nền kinh tế và tăng trưởng TFP giai
đoạn 1987-2014 ngược chiều nhau. Lưu ý rằng, TFP không chỉ bao
gồm công nghệ theo nghĩa thuần túy kỹ thuật mà còn gồm cả môi
trường đầu tư – kinh doanh, thể chế, chất lượng giáo dục và chất lượng
của máy móc công nghệ. Thương mại có thể làm tăng nhập khẩu công
nghệ mới, tăng mức độ lan tỏa công nghệ từ các doanh nghiệp nước
ngoài đến các doanh nghiệp trong nước; tuy nhiên, quan trọng nhất kể
từ khi hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2001-2014 là Việt Nam tham
gia các hiệp định thương mại tự do và các hiệp định thương mại vùng.
Các hiệp định sẽ buộc Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa thị
trường, cải cách thể chế bên trong (để đáp ứng các yêu cầu trong các
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới).
Các kênh thƣơng mại tác động đến tăng trƣởng:
16


Hiệu quả đầu tư tăng và mở rộng lợi tức không đổi cho thời kỳ
dài hơn qua tiếp cận thị trường lớn.
Diễn biến TFP và ICOR giai đoạn 2001-2014 cho thấy tại những
thời điểm trước hoặc sau khi Việt Nam tham gia một dấu mốc hội nhập
quan trọng nào đấy, tăng trưởng TFP thường ở mức cao hoặc ICOR ở
mức thấp. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư và năng suất các nhân tố
tổng hợp của nền kinh tế tăng khi nền kinh tế mở cửa rộng hơn.
Như vậy, hiệu quả đầu tư tăng và mở rộng lợi tức không đổi cho
thời kỳ dài hơn qua việc tiếp cận thị trường lớn hơn (tiếp cận thị trường
Mỹ khi ký kết Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam – Hoa Kỳ

năm 2001, tiếp cận thị trường khổng lồ của thế giới qua sự kiện Việt
Nam gia nhập WTO, và tiếp cận dễ dàng hơn đến các thị trường lớn
như Mỹ, EU, Nhật Bản, ASEAN qua các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới như TPP, FTA giữa Việt Nam và EU, AEC, RCEP) sẽ làm
gia tăng đầu tư và vốn của nền kinh tế, từ đó tác động đến tăng trưởng
kinh tế.
Tỷ lệ tiết kiệm trong nước và/hoặc dòng vốn nước ngoài vào cao
hơn khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại song phương hay
đa phương trong giai đoạn 2001-2014.
Lợi tức thực của vốn cao hơn khi khai thác lợi thế so sánh là
lao động thặng dư: Với việc mở cửa thị trường thông qua các mốc hội
nhập quan trọng như BTA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2001, WTO
năm 2007, nền kinh tế nước ta thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thâm
dụng lao động (như dệt may, giày dép) cho thấy lợi tức thực của vốn tại
các ngành có lợi thế so sánh là lao động đã cao hơn khi thị trường được
mở rộng.
Hiệu ứng tăng trưởng nội sinh vì tăng trưởng nhanh do mở cửa
thương mại: Mở cửa thương mại làm tăng kỳ vọng của các nhà đầu tư
vào triển vọng của nền kinh tế, tăng kỳ vọng vào thu nhập tương lai và
do đó tăng đầu tư, sản xuất và tiêu dùng; từ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tăng lại làm kỳ vọng vào thu nhập dài hạn
tăng, kỳ vọng vào doanh thu tăng và sản xuất sẽ tăng. Hơn nữa, sản xuất
17


tăng kéo theo sự mở rộng của nền kinh tế, làm gia tăng đặc tính kinh tế
theo quy mô, và năng suất của nền kinh tế.Tuy nhiên, cũng như các
kênh truyền dẫn vừa nêu trên, ngay trước hoặc sau khi mở cửa (qua các
hiệp định thương mại song phương, đa phương, và khu vực), nền kinh
tế có thể tăng trưởng ở mức cao do kỳ vọng vào lợi nhuận và thu nhập

tương lai của doanh nghiệp cũng như của người dân; thế nhưng nếu
không có những cải cách thực sự trong môi trường kinh doanh và đầu tư
của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng sẽ suy giảm vì lợi nhuận và thu nhập
tương lai kỳ vọng sẽ giảm. Do đó, kênh truyền dẫn này chỉ đem lại lợi
ích ngắn hạn cho tăng trưởng của nền kinh tế.
Số liệu cho thấy trước và ngay thời điểm mở cửa nền kinh tế qua
một số mốc hội nhập quan trọng như Hiệp định Thương mại Song
phương Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2001, gia nhập WTO năm 2007 và
tham gia TPP, AEC năm 2015, tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn so
với khi chưa gia nhập. Điều này có nghĩa, mở cửa nền kinh tế làm cho
tăng trưởng cao hơn, điều này lại càng làm cho đầu tư và tiêu dùng gia
tăng, và tiếp tục làm cho tăng trưởng cao hơn.
Các chính sách hỗ trợ tăng trưởng từ thực hiện cam kết thương
mại: Với thay đổi thể chế để thực hiện các cam kết của hội nhập và để
quá trình hội nhập tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế có lẽ còn
rất hạn chế. Chẳng hạn, khi bắt đầu tham gia WTO, Việt Nam đã phải
thực hiện thay đổi rất mạnh mẽ hệ thống luật, bổ sung, hoàn thiện và bãi
bỏ các luật hay quy định không phù hợp với các cam kết WTO. Thế
nhưng, còn một khoảng cách rất lớn giữa xây dựng luật, thực hiện luật,
giám sát thực hiện luật và chế tài xử lý.
Giảm hoạt động tìm kiếm trục lợi (rent-seeking): Mở cửa nền
kinh tế sẽ làm giảm hoạt động tìm kiếm trục lợi, để nguồn lực trong nền
kinh tế phân bổ vào các hoạt động sản xuất thay vì vào các hoạt động
tìm kiếm trục lợi và do đó cũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Cạnh tranh và tiếp cận thị trường lớn hơn sẽ thúc đẩy sáng tạo
và tinh thần doanh nghiệp; đồng thời thương mại còn làm tăng ý tưởng
đổi mới sáng tạo do sự cọ sát với các đối thủ cạnh tranh và các đối tác
18



bên ngoài: Cạnh tranh có thể là kênh truyền dẫn quan trọng mà thương
mại quốc tế tác động đến năng suất của nền kinh tế, tuy nhiên, cấu trúc
thị trường của nhiều sản phẩm nước ta còn mang tính độc quyền hay nói
cách khác chưa mang tính cạnh tranh cao như thị trường điện, xăng dầu,
dược phẩm, tài chính. Hơn nữa, với việc tham gia hội nhập toàn cầu thì
cũng cần phải xác định sức ép cạnh tranh mãnh liệt hơn, nếu không hội
nhập toàn cầu sẽ chỉ đem lại kết quả nhỏ bé cho nền kinh tế.
Phân tán công nghệ và quá trình học thông qua làm: Có thể
thông qua kết nối với các công ty FDI để học tập và hấp thụ công nghệ.
Tuy nhiên, có hai nguyên nhân làm cho quá trình phân tán công nghệ từ
bên ngoài vào nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Thứ nhất là
nguồn nhân lực chất lượng để có thể học tập, hấp thụ và vận hành được
công nghệ nước ngoài và thứ hai là ngành công nghiệp hỗ trợ của nước
ta vừa thiếu lại vừa yếu, làm thiếu vắng bước trung gian để công nghệ
cao từ nước ngoài có thể được truyền tải vào doanh nghiệp trong nước
thông qua đối tác thương mại hoặc thông qua các công ty FDI.
Chuyên môn hóa trong những ngành công nghiệp có tính kinh tế
theo quy mô có thể được thực hiện bằng cách tạo dựng nên các khu
công nghiệp, khu chế xuất hay khu công nghệ cao.
Hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất tại nước ta đã diễn
ra từ lâu, tuy nhiên, các khu này mới chỉ tạo ra không gian cho các
doanh nghiệp định cư chứ chưa đóng vai trò hình thành nên các đặc
điểm để tạo nên tính kinh tế theo quy mô. Các khu công nghiệp, khu
chế xuất chưa có sự đồng nhất hay liên kết theo chuỗi các doanh nghiệp
trong một khu, ngược lại khu công nghiệp và khu chế xuất thường bao
gồm một nhóm đa dạng các doanh nghiệp không có sự tương đồng, liên
quan đến nhau. Các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất chỉ
mong muốn kêu gọi, thu hút nhằm lấp đầy (lấp đầy là một tiêu chí cho
sự thành công của khu công nghiệp) chứ chưa đặt ra vấn đề hình thành
đặc tính tính kinh tế theo quy mô hay độ lan tỏa về công nghệ.

Mở cửa nền kinh tế hay thương mại có mối quan hệ ngược chiều
với tăng trưởng TFP trong cả một giai đoạn dài là do chính sách công
19


nghiệp và chính sách thương mại đã không tương tác với nhau để
chuyển đổi nền kinh tế, cấu trúc sản xuất và cấu trúc thương mại. Trong
một thời gian dài, nền kinh tế chủ yếu khai thác lợi thế so sánh tĩnh để
tận dụng cơ hội từ hội nhập vì thế độ lan tỏa về công nghệ và tri thức
không lớn. Hơn nữa, các công ty FDI vào nền kinh tế và vận hành dòng
hàng hóa xuất khẩu nước ta lại không có mức độ lan tỏa về công nghệ
lớn (tỷ lệ các công ty FDI tại nước ta có R&D thấp, hợp tác về công
nghệ giữa các công ty FDI và các doanh nghiệp trong nước thấp). Hình
thành các khu công nghiệp – khu chế xuất cũng không đem lại đặc tính
kinh tế theo quy mô mà chỉ phát triển về mặt số lượng (các địa phương
chú trọng phát triển số lượng các khu công nghiệp tại địa phương mình
và từng khu công nghiệp chú trọng đến tiêu chí lấp đầy, nghĩa là số
lượng các doanh nghiệp trong từng khu công nghiệp). Thay đổi thể chế
theo các cam kết của hội nhập mang nặng tính hình thức mà chưa có
những thay đổi thực sự. Ngược lại, mở cửa nền kinh tế đem lại sự gia
tăng của vốn (vay nợ, mở rộng tín dụng) và tăng vốn chỉ tác động đến
tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, sau đó là các bất ổn kinh tế vĩ mô như
lạm phát, bong bóng giá tài sản liên tiếp tái diễn trong giai đoạn 20012014. Các bất ổn này tác động tiêu cực đến môi trường kinh tế vĩ mô,
đến năng suất và tăng trưởng của nền kinh tế.
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
THƢƠNG MẠI ĐẾN NĂM 2025
4.1. Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc tới năm 2025
Thứ nhất, giá dầu trên thị trường thế giới sẽ khó có khả năng
phục hồi trở lại như mức trước năm 2008.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là xu hướng chính của nền
kinh tế toàn cầu.
Thứ ba, Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng, tuy nhiên
giai đoạn kết thúc thời kỳ dân số vàng của nước ta là 2020-2025.
20


4.2. Một số dự báo, xu hƣớng tăng trƣởng và thƣơng mại tới năm
2025
Xét dưới khía cạnh quy mô nền kinh tế, Việt Nam đang đứng
thứ 55 thế giới với GDP đạt khoảng 186 tỷ USD. Theo dự báo của ngân
hàng đầu tư Goldman Sachs, “đến năm 2025, GDP sẽ tăng vượt bậc lên
mức 450 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ tiến lên vị trí 17 thế
giới”.
4.3. Quan điểm và định hƣớng chính sách thƣơng mại tới năm 2025
Thứ nhất, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản
và nông sản thô; tăng dần tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chế tác, công
nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ, các mặt hàng nông nghiệp tinh
chế.
Thứ hai, đa dạng hóa thương mại để tránh phụ thuộc nguồn
cung ứng đầu vào tại một thị trường hoặc tránh phụ thuộc vào số ít thị
trường.
Thứ ba, giảm dần các chính sách thương mại thiên về sử dụng
thuế quan và các giới hạn hạn ngạch, chuyển sang các biện pháp phi
thuế quan như thủ tục hành chính, các rào cản kỹ thuật tinh vi để phù
hợp với các cam kết trong các hiệp định, vừa đạt được các mục tiêu
tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cấu trúc thương mại.
4.4. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thƣơng mại nhằm thúc
đẩy tăng trƣởng của nền kinh tế
Các đề xuất chính sách được chia thành 3 nhóm: nhóm các giải

pháp chung, nhóm các giải pháp bổ trợ cho chính sách thương mại và
nhóm các giải pháp liên quan đến chính sách thương mại.
Để chính sách thương mại đạt hiệu quả cao nhất trong việc theo
đuổi mục tiêu đề ra là tăng số lượng và chất lượng của thương mại theo
hướng: bên cạnh thu được lợi ích tĩnh thì còn tăng cường năng lực thu
được lợi ích động để thương mại quốc tế đem lại tác động tích cực dài
hạn đến tăng trưởng kinh tế chứ không chỉ tận dụng lợi thế so sánh tĩnh
để thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn; các giải pháp chung và giải
21


pháp bổ trợ cần thực hiện song song, tổng thể và đồng bộ với chính
sách thương mại.
Giải pháp tổng thể gồm có: cải cách thể chế kinh tế trong nước
theo nguyên tắc thị trường và đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Các giải
pháp tổng thể này là tiền đề để thực hiện các giải pháp bổ trợ và triển
khai các công cụ của chính sách thương mại.
Giải pháp bổ trợ cho chính sách thương mại gồm có: Hoàn

thiện cơ sở hạ tầng; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao;
Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; Xây dựng các khu công
nghiệp có tính đồng bộ; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại.
Thực hiện các giải pháp bổ trợ trước hoặc ít nhất là song song
với chính sách thương mại sẽ làm cho chính sách thương mại đạt hiệu
quả cao nhất trong quá trình truyền tải tác động của thương mại quốc tế
đến tăng trưởng kinh tế. Chính sách thương mại gồm có:
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu:
(i)
Cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các ngành,

sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có đặc tính tính
kinh tế theo quy mô, và có hiệu ứng lan tỏa lớn đến
các ngành, sản phẩm và khu vực khác của nền kinh
tế;
(ii)
Các cơ quan chức năng và Hiệp hội ngành hàng cần
đồng hành với các doanh nghiệp xuất khẩu tham
gia các hội chợ triển lãm và giới thiệu sản phẩm ở
nước ngoài;
Chính sách nhập khẩu:
(i)
Nhập khẩu có chọn lọc các loại đầu vào chất lượng
để nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế nói chung và các ngành, doanh
nghiệp nói riêng;
(ii)
Xây dựng các công cụ bảo hộ tinh vi nhằm hỗ trợ
cho các mục tiêu sản xuất trong nước, hỗ trợ cho
22


quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại;
(iii)
Sử dụng tỷ lệ nội địa hóa để giúp phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp mũi
nhọn, tuy nhiên, biện pháp này cần đi kèm với các
giải pháp như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, hợp tác
chuyển giao công nghệ;

(iv)
Nâng cao vai trò mua sắm chính phủ trong việc hỗ
trợ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nước,
nâng cao năng lực xuất khẩu và giảm nhập khẩu.
Về những mặt được và chưa được của Luận án: Mặt được của
Luận án là đã hệ thống hóa được các kênh truyền dẫn tác động từ
thương mại quốc tế đến tăng trưởng kinh tế về mặt lý thuyết và thực
tiễn của Việt Nam; đưa ra hệ các giải pháp nhằm làm cho thương mại
quốc tế đem lại lợi ích động cho nền kinh tế chứ không chỉ lợi ích tĩnh.
Mặt chưa được của Luận án là chưa đo lường định lượng được
từng kênh tác động cho dù phân tích định tính đã đề cập đến độ lớn của
từng kênh tác động. Vì thế, các đề xuất giải pháp khó tránh khỏi còn
chung chung và chưa thực cụ thể. Bên cạnh đó, lĩnh vực thương mại
quốc tế và tăng trưởng kinh tế bao phủ một phạm vi nghiên cứu rất rộng
lớn như phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, phát triển cơ sở hạ tầng,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thiết kế các công cụ bảo hộ tinh
vi… ; đây lại là lĩnh vực nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu
khác, vì thế Luận án khi có những đề xuất liên quan thường không thật
cụ thể mà chỉ mang tính chung chung. Trong thời gian sắp tới, NCS sẽ
tiếp tục theo đuổi hướng nghiên cứu của Luận án để làm rõ những câu
hỏi mà Luận án chưa trả lời dứt khoát.

23


×