Website: Email : Tel : 0918.775.368
LI M U
i vi Vit Nam chuyn dch c cu khụng ch l mt xu hng m
cũn l mt yờu cu tt yu. Trong nhng nm va qua ó cú rt nhiu nghiờn
cu tỡm ra con ng i thớch hp nht. Tuy nhiờn iu ú cũn rt nhiu
bn cói.
ti: "Mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành từ nay đến 2020" nhm nghiờn cu mi quan h gia chuyn
dch c cu kinh t vi tng trng. Tỡm ra xu hng vn ng ca nn kinh
t v t ú hng vo mc tiờu phỏt trin ca quc gia t nay n nm 2020.
Trong quỏ trỡnh nghiờn cu do iu kin khỏch quan v ch quan vẫn còn
nhiều thiếu sót mong đợc sự góp ý của thầy cô và các bạn.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
1. M T S KHÁI NI M C B N.Ộ Ố Ệ Ơ Ả Mét sè kh¸i niÖm c¬ b¶n
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là
sự tăng lên hay gia tăng về quy mố sản lượng của nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định (thường là một năm). Hay nói một cách khác cụ thể hơn, tăng
trưởng kinh tế là do tăng thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân đầu người.
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng
giữa các thời kỳ. Có hai cách so sánh tuyệt đối và tương đối.
- Mức tăng tuyệt đối:
∆
y
= Y
n
– Y
0
Trong đó: Y
n
là sản lượng của năm n, còn Y
0
là sản lượng của năm so
sánh (năm gốc).
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối phản ánh mức độ tăng quy mô sản lượng.
- Mức tăng trưởng tương đối hay là tốc độ tăng trưởng (g
y
)
g
y =
Y
n
/Y
o
hay (Y
n
– Y
o
)/Y
o
Trong kinh tế vĩ mô, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng
trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của
các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế
nữa quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa
học công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.2. Phát triển kinh tế.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (tăng tiến) về mọi mặt
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng
thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã
hội. Phát tiển kinh tế là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh
tế, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Phát triển kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng lên của tổng thu nhập nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân đầu người..
Thứ hai, sự thay đổi (tiến bộ) về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành.
Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế quốc gia.
Thứ ba, sự tiến bộ về mặt xã hôi. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển
kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, khẳ năng tiếp cận tới
các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân chí giáo dục của quảng đại quần
chúng nhân dân,…làm cho con người ngày càng có cuộc sống tốt hơn.
Nếu nền kinh tế chỉ nhìn theo khía cạnh tăng trưởng thì chưa đủ, để nhìn
toàn diện phải nhìn trên phương diện phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là
lượng thì phát triển kinh tế phải là cả lượng và chất. Như vậy, đánh giá về
phát triển kinh tế phải dựa trên đánh giá của các khía cạnh: Đánh giá sự thay
đổi về lượng, đánh giá về sự biến đổi trong cơ cấu của nền kinh tế, đánh giá
về sự thay đổi trong các vấn đề xã hội.
Ngày nay khi nói đến phát triển người ta thường nhắc đến khái niệm
phát triển bền vững, nghĩa là “phải có tính liên tục, mãi mãi hoặc các lợi ích
của nó phải được duy trì không hạn định”.
1.3. Khái niệm về cơ cấu ngành của một nền kinh tế.
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Cơ cấu ngành của một nền kinh
tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ
tương đối ổn định giữa chúng.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có nhiều cách phân loại ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch
cơ cấu ngành. Song cho đến nay chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành
kinh tế: Phân ngành kinh tế theo hệ thống sản xuất vật chất (MPS) và phân
ngành theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).
Theo hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân thành hai
khu vực: Sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật
chất và khôn sản xuất vật chất được phân thành các ngành cấp I như: Công
nghiệp, Nông nghiệp... Các ngành cấp I lại được phân thành các ngành cấp II,
chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như: điện
năng, nhiên liệu.... Đặc biệt trong các ngành công nghiệp người ta còn phân ra
thành nhóm A và nhóm B.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành 3
nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ba ngành
gộp này bao gồm 20 ngành cấp I như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản,
khai mỏ khai khoáng,... Các ngành cấp I lại được phân nhỏ thành các ngành
cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức dộ gộp hay chi tiết
hóa đến chừng nào đó mà có được tập hợp các ngành tương ứng.
Với một cách phân ngành hợp lý và một giá trị đại lượng được chọn
thống nhất có thể xác định được các chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt cơ
cấu ngành, đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế.
Loại chỉ tiêu định lượng thứ nhất này được sử dụng để nghiên cứu liên quan
đến phát triển cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chỉ tiêu định lượng thứ hai có
thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế,
đó chính là các hệ số trong bảng cân đối liên ngành (của hệ MPS) hay bản
Vào – Ra (I/O) (của hệ thống SNA).
Như vậy theo định nghĩa cơ cấu ngành đưa ra xét về mặt định lượng, ít
ra phải có hai loại chỉ tiêu trên đây mới cho ta sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ
cấu ngành của một nền kinh tế.
1.4. Khái niệm về điều chỉnh cơ cấu ngành.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế
dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi quan hệ
tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đấy.
Theo định nghĩa này, điều chỉnh cơ cấu ngành chỉ diễn ra sau một
khoảng thời gian nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển của các
ngành phải dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của
chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này là kết quả của quá
trình:
Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là
có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế.
Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến
thay đổi cơ cấu. Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả
của sự phát triển không đồng đều của các ngành sau mỗi giai đoạn.
Chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế
thường dùng là nhịp độ tăng trưởng ngành:
Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Sự thay đổi
này trước hết biểu thị bằng số ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại
của ngành này với các ngành khác qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho
các ngành hay nhận từ các ngành đó.
Sự tăng trưởng của các ngàn dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi
nền kinh tế. Cho nên, chuyển dich cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá
trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền
kinh tế. Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ : sự chuyển dich cơ cấu ngành diễn ra
theo xu hướng nào, tốc độ nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì?
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể.
Việc tìm ra một xu hướng hay giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành của
Việt Nam không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được mà là sự phát
hiện những đặc thù của đất nước, của môi trường trong nước và thế giới hiện
nay để làm thích ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam.
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành trong lý thuyết nhị nguyên.
5