Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Giáo dục đại học thế giới và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.19 KB, 13 trang )

Câu hỏi 1: Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở
Đồng bằng Sông Cửu Long.
Bài làm
Một số đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Đồng
bằng Sông Cửu Long:
1/ Đổi mới quản lý giáo dục
Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục. Việc quản lý nhà nước
đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ do bộ Giáo dục và Đào tạo đảm nhận.
Thực hiện dần việc bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các cơ sở Giáo dục Đại học.
Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách giáo dục, xây dựng và chỉ
đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, điều tiết cơ
cấu và quy mô giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhân lực của
đất nước trong từng giai đoạn, triển khai hệ thống đảm bảo chất lượng, thực hiện
công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục.
Thực hiện công khai hóa về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục
đại học và tài chính của các cơ sở giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất
lượng và hiệu quả giáo dục.
Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo
dục đại học. Nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về đào tạo, tài chính nhân
sự, kiên quyết thúc đẩy thành lập hội đồng trường ở các trường giáo dục Đại học,
Cao đẳng để thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của đơn vị.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong các trường giáo dục Đại học, Cao
đẳng, nhằm tạo ra một cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và thuận lợi cho người
dân. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm “tin học hóa”
quản lý giáo dục ở các trường.
Xây dựng và triển khai đề án đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục nhằm
đảm bảo quyền lợi cho người học, huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực của nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô
giáo dục.
2/ Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Để tạo sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức phấn đấu trong đội ngũ nhà giáo,


tiến tới thực hiện chế độ hợp đồng thay cho biên chế trong quá trình tuyển dụng
và sử dụng các giáo viên, giảng viên và các viên chức khác.
Đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo sư phạm, từ mô hình đào tạo tới nội
dung và phương pháp đào tạo nhằm tạo đội ngũ giáo viên vững vàng về kiến thức
khoa học cơ bản và kỹ năng sư phạm. Phát triển các khoa sư phạm nghề tại các
trường đại học kỹ thuật để đào tạo sư phạm nghề cho số sinh viên có tốt nghiệp
các trường này nhằm cung cấp đủ giáo viên cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
1


Tổ chức các chương trình đa dạng nhằm nâng cao chuẩn trình độ đào tạo
cho độ ngũ nhà giáo.
Thực hiện đề án đào tạo giáo viên cho các trường Đại học, Cao đẳng: đào
tạo ở nước ngoài.
Tiếp tục xây dựng, ban hành và tổ chức đánh giá giáo viên theo chuẩn
nghề nghiệp, đánh giá theo chuẩn nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên giảng day
Đại học, Cao đẳng.
Tăng cường các khóa bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên
theo các chương trình tiên tiến, các chương trình hợp tác với nước ngoài để đáp
ứng được nhiệm vụ nhà giáo trong tình hình mới.
Có chính sách khuyến khích thực sự đối với đội ngũ nhà giáo thông qua
chế độ đãi ngộ xứng đáng.
Thu hút các nhà khoa học, các tri thức việt kiều tham gia giảng dạy và
nghiên cứu khoa học tại các trường Đại học, Cao đẳng.
Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng lực lượng
cán bộ quản lý tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành, xây dựng chương trình
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục, có chế
độ đãi ngộ xứng đáng với cán bộ quản lý.
3/ Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, kiểm
định và tự đánh giá cơ sở giáo dục

Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự
học cóa hướng dẫn và quản lý của giáo viên.
Xây dựng lại tài liệu đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học
tập cho sinh viên. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Xây dựng môi trường sư phạm bình đẳng, thúc đẩy sự nỗ lực phấn đấu và
nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý.
Xây dựng một số trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, công nhận trình độ của
người học, tạo điều kiện cho người lao động được học tập suốt đời và di chuyển
trong thị trường làm việc.
Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục.
4/ Xã hội hóa giáo dục
Thể chế hóa vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức,cá nhân và
gia đình trong việc giám sát và đánh giá giáo dục, phối hợp với nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
Xây dựng cơ chế học phí mới nhằm đảm bảo sự chia sẻ hợp lí giữa nhà
nước, người học và các thành phần xã hội. Đối với giáo dục mầm non và phổ
thông ở các trường công lập, ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu để
đảm bảo chi phí của quá trình đào tạo. Đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học ở
các trường công lập, người học có trách nhiệm chia sẻ một phần quan trọng chi
2


phí đào tạo. Các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập phải tuân thủ các quy định
về chất lượng của Nhà nước và tự quyết định mức học phí.
Khen thưởng, tôn vinh các nhà hảo tâm, doanh nghiệp có đóng góp xuất
sắc cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Khuyến khích và bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư cho giáo dục. Phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập để đảm bảo tỷ

lệ sinh viên đại học và cao đẳng ngoài công lập là 20% năm 2010, 30% năm 2015
và 40% năm 2020; nâng tỷ lệ học sinh học nghề(ngắn hạn và dài hạn) ngoài công
lập lên khoảng 60% vào năm 2020. Triển khai các chính sách cụ thể của Chính
phủ đó ban hành để hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục ngoài công lập ở đại học, dạy
nghề và phổ thông, trước hết về đất đai, thuế và vốn vay. Xác định rõ ràng, cụ thể
các tiêu chí thành lập cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân và các tổ chức kinh tế-xã hội tham gia vào công tác thành lập
trường theo quy hoạch phát triển của Nhà nước.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho việc mở các trường đại học 100% vốn
nước ngoài ở Việt Nam.
5/ Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật giáo dục
Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất
cả các loại hình trường nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cơ bản thực hiện
việc đổi mới quá trình dạy học. Trong đó, chú trọng đến chuẩn hóa phòng học,
phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và trang thiết bị dạy học ở các cấp học, đặc
biệt là đồ chơi an toàn cho trẻ em.
Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện tích
đất cho các trường phổ thông, dạy nghề và các trường đại học đạt tiêu chuẩn
nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục, trong đó ưu tiên đầu tư quỹ đất đẻ xây dựng
một số khu đại học tập trung.
Đẩy mạnh chương trình kiên cố hóa trường học, lớp học và nhà công vụ
cho giáo viên, ưu tiên cho giáo dục vùng sâu, vùng cao, vùng khó khăn, bảo đảm
phòng cho mẫu giáo 5 tuổi, cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở học 2 buổi
ngày. Đén năm 2020, không còn phòng học tạm ở tất cả cả các cấp học, 100%
trường phổ thông được nối mạng Internet và có thư viện.
Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường
đại học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng một số phòng thí
nghiệm hiện đại ở các trường đại học trọng điểm.
Xây dựng các khu kí túc xá cho sinh viên và nhà nội trú cho các trường phổ
thông có nội trú ở vùng dân tộc và nhà công vụ cho giáo viên và cán bộ quản lý

giáo dục.

3


6/Gắn đào tạo với nhu cầu xã hội
Tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu
nhân lực nhằm cung cấp số liệu và cơ sở khoa học cho việc hướng nghiệp, xây
dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo nghề nghiệp.
Nhằm đào tạo có hiệu quả việc cung cấp nhân lực tiếp cho doanh nghiệp,
tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện
chương trình đào tạo, quy định trách nhiệm và cơ chế phù hợp để mở rộng các
hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử dụng nhân
lực và nghiên cứu chuyển giao công nghệ.
7/ Hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người học được ưu tiên
Hoàn thiện và thực hiện cơ chế học bổng, học phí, tín dụng cho học sinh,
sinh viên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, cấp học bổng cho sinh viên
xuất sắc trong học tập, nghiên cứu.
Bảo đảm nhà công vụ, có chính sách thu hút giáo viên cho các vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho người khuyết tật học tập.
Cung cấp sách giáo khoa và học phẩm miễn phí, hoặc giảm giá bán sách
giáo khoa cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khan.
Triển khai mạnh các chương trình đào tạo nghề cho nông dân để tham gia
hội nhập kinh tế.
Thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo đối với học sinh,
sinh viên người dân tộc thiểu số.
8/ Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo
và nghiên cứu.
Tăng cường gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với nhu cầu xã hội thông

qua việc hình thành các liên kết giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học với
doanh nghiệp.Nguồn thu của các trường đại học từ các nguồn hoạt dộng khoa học
công nghệ sẽ chiếm giữ một tỷ lệ quan trọng trong tổng nguồn thu của một cơ sở
giáo dục đại học.
Tập trung đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn. Xây dựng
một số phòng thí nghiệm trọng điểm cho vùng trong các trường đại học trọng
điểm.

4


Câu hỏi 2: Phác họa bức tranh về giáo dục đại học ở Đồng bằng Sông Cửu
Long
Bài làm
Phác họa bức tranh về giáo dục đại học ở Đồng bằng Sông Cửu Long:
1. Vị trí địa lý
Tây Nam Bộ (còn gọi là vùng Đồng bằng sông Cửu Long), nằm ở vị trí
cực Nam của đất nước, diện tích tự nhiên 3.973.429 ha (chiếm 12% diện tích cả
nước); giáp với vùng Đông Nam Bộ và TP. Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp
Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan; phía Đông Nam là Biển Đông. Nếu
xác định TP. Cần Thơ là trung tâm của khu vực sẽ có các điểm cực trên đất liền,
gồm: Điểm cực Tây 106o26′ (xã Mỹ Đức, Tx. Hà Tiên, Kiên Giang), cực Đông
106o48′ (xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), cực Bắc 11o1′
(xã Lộc Giang, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An), cực Nam 8o33′ (Mũi Cà Mau,
huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau).
2. Điều kiện tự nhiên
Đồng bằng sông Cửu Long có hệ sinh thái rừng ngập mặn và ngập phèn
đặc sắc rộng khoảng 360.996ha, là nơi còn lưu giữ và bảo tồn nguồn động, thực
vật quý hiếm của rừng ngập mặn nhiệt đới; đồng thời tạo ra nhiều cảnh quan
thiên nhiên, môi trường độc đáo phục vụ cho nghiên cứu khoa học và du lịch.

Với bờ biển dài trên 700km, ôm một vùng lãnh hải rộng khoảng 360.000km2,
gần 50 đảo lớn nhỏ (Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, Hòn Khoai…) và các bể trầm
tích Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thổ Chu, Mã Lai… giáp biển Đông và Vịnh Thái
Lan, chứa hàng tỉ tấn dầu khí cùng những đặc quyền kinh tế khác rất thuận lợi
cho kinh tế biển và giao thương kinh tế quốc tế. Đồng thời, Đồng bằng sông Cửu
Long cũng là vùng có biên giới đất liền giáp Campuchia dài khoảng 339,82km
qua 4 tỉnh của Việt Nam (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang) và 5 tỉnh
của Campuchia, giữ vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng – an ninh.
Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành từ những trầm tích phù sa, bồi
dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo
sự hình thành những giồng cát dọc bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông,
biển đã hình thành những khu đất phù sa phì nhiêu dọc ven sông, một số giồng
cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm ngập mặn trũng thấp, như: vùng
Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo
Cà Mau.
Cách đây khoảng 8.000 năm, vùng ven biển trải rộng dọc theo triền phù sa
cổ thuộc trầm tích Pleistocen từ Hà Tiên đến thềm bình nguyên Đông Nam Bộ.
Sự hạ thấp của mực nước biển một cách đồng thời với việc lộ ra từng phần vùng
đồng bằng vào giai đoạn cuối của thời kỳ trầm tích Pleistocen. Một mẫu than ở
tầng mặt đất này được xác định bằng C14 ( ) cho thấy nó có tuổi tuyệt đối là
5


8.000 năm. Sau thời kỳ băng hà cuối cùng, mực mước biển dâng cao tương đối
nhanh vào khoảng 3m đến 4m trong suốt giai đoạn khoảng 1.000 năm
(Blackwelder và những người khác, 1979) ( ), gây ra sự lắng tụ của các vật liệu
trầm tích biển ở những chỗ trũng thấp của châu thổ; tại đây những sinh vật biển
như hàu (Ostrea) được tìm thấy và việc xác định tuổi tuyệt đối của chúng bằng
C14 cho thấy trầm tích này được hình thành cách đây khoảng 5.680 năm.
Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và nước lợ, thực vật rừng

ngập mặn dày đặc đã bao phủ toàn vùng này, chủ yếu là những cây đước
(Rhizophora sp) và cây mắm (Avicennia sp). Những thực vật chịu mặn này đã tạo
thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ, làm giảm sự xói mòn do nước hoặc
gió, cung cấp sinh khối cho trầm tích châu thổ, rồi những đầm lầy biển được hình
thành. Tại vùng này, khoảng 5.500 năm trước công nguyên, trầm tích lắng tụ theo
chiều dọc dưới điều kiện mực nước biển dâng cao đã hình thành những cánh
đồng rộng lớn mang vật liệu sét. Sự lắng tụ kéo dài của các vật liệu trầm tích bên
dưới những cánh rừng Đước dày đặc đã tích lũy dần để hình thành địa tầng chứa
nhiều vật liệu sinh phèn (pyrit).
Mực nước biển dâng cao, bao phủ cả vùng hầu như không ổn định và bắt
đầu có sự giảm xuống cách đây vào khoảng 5.000 năm (Pons L. J. và những
người khác, 1982) ( ). Sự hạ thấp mực nước biển dẫn đến việc hình thành một
mực nước biển mới, sau mỗi giai đoạn như thế thì có một bờ biển mới được hình
thành, và cuối cùng hình thành nên những dãy cồn cát chạy song song với bờ
biển hiện tại mà người ta thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một cồn cát
chia cắt vùng Đồng Tháp Mười và vùng trầm tích phù sa được xác định bằng C14
cho thấy có tuổi tuyệt đối vào khoảng 4.500 năm (Ngộ, 1988) ( ).
Sự hạ dần của mực nước kèm theo những thay đổi về môi trường vùng đầm lầy
biển, thực vật chịu mặn mọc dầy đặc (Rhizophora sp, Avicinnia sp) được thay thế
bởi những loài thực vật khác của môi trường nước ngọt như tràm (Melaleuca sp)
và những loài thực thực vật hoang dại khác (Fimbristylis sp, Cyperus sp). Sự ổn
định của mực nước biển dẫn đến một sự bồi lắng trầm tích ven biển khá nhanh
với vật liệu sinh phèn thấp hơn (Pons L. J. và những người khác, 1989).
Sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình hình thành
vùng châu thổ, lượng nước cung cấp trung bình hàng năm khoảng 4.000 tỷ m³ và
khoảng 100 triệu tấn phù sa (Morgan F. R., 1961); những mảnh vỡ bị bào mòn từ
lưu vực sông, mặc dù một phần có thể dừng lại tạm thời dọc theo hướng chảy,
cuối cùng được mang đến cửa sông và được lắng tụ như một châu thổ (Morisawa,
1985). Những vật liệu sông được lắng tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự
nhiên có chiều cao 3m đến 4m, một phần của những vật liệu phù sa phủ lên trên

những trầm tích pyrit thời kỳ Holocen với sự biến thiên khá rộng về độ dày tầng
đất và không gian vùng (Pons L. J. và csv, 1982). Các con sông được chia cắt với
trầm tích đê phù sa nhưng những vùng rộng lớn mang vật liệu trầm tích biển chứa
phèn tiềm tàng vẫn còn lộ ra trong vùng đầm lầy biển (Moormann, 1961). Tuy
nhiên, độ chua tiềm tàng không xuất hiện trong vùng phụ cận của những nhánh
sông gần cửa sông mà tại đây ảnh hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại,
6


vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong, được
biểu thị bởi một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù du
trong nước sông khá thấp, châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy
triều và do bởi những vành đai thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở
vùng châu thổ sông Mekong. Kết quả là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm
tàng (Moormann và Pons, 1974).
Các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long: 12 tỉnh và 1 thành
phố: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Thành phố Cần Thơ, Đồng Tháp,
Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long.
3. Về dân số: có trên 17.178.871 người (số liệu năm 2009); có 13 tỉnh: Long An,
Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang,
Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và TP. Cần Thơ.
Về dân tộc: Người Kinh chiếm gần 92,2% tổng số toàn vùng; Khmer chiếm
6,3%; Hoa chiếm 1,2%; Chăm chiếm 0,2% và một số dân tộc khác số lượng rất
ít: Tày, Thái, Nùng, Mường…
Về tôn giáo: Có 6 tôn giáo lớn (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Phật giáo Hòa
Hảo, Cao Đài và Hồi giáo). Đạo Phật và đạo Hoà Hảo là hai tôn giáo chính trong
vùng đồng bằng sông Cửu Long với khoảng 4,5 triệu phật tử.
4. Thành tựu phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010:
Kinh tế các tỉnh vùng ĐBSCL phát triển nhanh và ổn định, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đúng hướng, hiệu quả sản xuất được nâng cao, tổ chức huy động tốt

các nguồn lực đầu tư; môi trường đầu tư được cải thiện rõ nét.
Nông, lâm, nghiệp phát triển khá ổn định và toàn diện, từng bước hình
thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực
của vùng (lúa gạo, thủy sản, trái cây), thể hiện vai trò trung tâm lớn về sản xuất
lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản cả nước.
Công nghiệp được chú trọng phát triển, đi dần vào khai thác các thế mạnh
của vùng về công nghiệp chế biến nông sản, bước đầu tập trung đầu tư phát huy
lợi thế về công nghiệp dầu khí, năng lượng, nhiệt điện và cơ khí. Các địa phương
có lợi thế phát triển công nghiệp trong vùng được Trung ương tập trung đầu tư
xây dựng một số ngành công nghiệp then chốt như: khí, điện, đạm, hóa chất.
Nhiều tỉnh, thành đã tập trung quy hoạch và xây dựng các khu, cụm công nghiệp.
Ngành công nghiệp chế biến thủy sản, điện, khí là ngành có giá trị sản xuất lớn
của vùng với việc đầu tư phát triển các nhà máy phát điện từ khí, chế biến sau khí
như Trung tâm khí – điện – đạm Cà Mau, Trung tâm nhiệt điện Ô Môn (Cần
Thơ), đã khởi công xây dựng nhà máy điện Duyên Hải 1 (Trà Vinh), Nhà máy
nhiệt điện Long Phú (Sóc Trăng), cơ sở hạ tầng Trung tâm nhiệt điện Sông Hậu
(Hậu Giang), đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn (TP. Cần Thơ).
Thương mại, dịch vụ và du lịch phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu
thụ và đời sống nhân dân. Hoạt động xúc tiến thương mại giữa các tỉnh của ta và
7


các nước ngày càng phát triển. Về du lịch, các địa phương đã chú ý phát huy tiềm
năng, thế mạnh, liên kết chặt chẽ với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam trong việc khai thác, phát huy lợi thế vị trí địa lý vùng sông
nước, phát triển ngày càng đa dạng và phong phú các loại hình du lịch sinh thái,
sông nước miệt vườn; đầu tư tạo ra nhiều điểm du lịch mới. Các điểm du lịch tại
đất mũi Cà Mau, du lịch biển ở Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Tiền Giang, Bến
Tre, du lịch sinh thái Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang; du lich di tích văn hóa ở
An Giang và du lịch biển đảo Phú Quốc…

Kết cấu hạ tầng được đẩy mạnh đầu tư, hạ tầng giao thông có nhiều chuyển
biến mạnh mẽ, gắn kết với thủy lợi; toàn vùng cơ bản hoàn thành mục tiêu xây
dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ, các đô thị được đầu tư, nâng cấp.
Hệ thống giao thông rộng khắp, toàn vùng có trên 10 tuyến quốc lộ với tổng
chiều dài hơn 2.500 km, gần 70 tuyến tỉnh lộ đã được nhựa hóa, hệ thống giao
thông nông thôn đã được cải thiện đáng kể, các địa phương đã mở mới 9.117 km,
nâng cấp 23.218 km đường các loại, xây dựng 11.453 cầu (trong đó có cầu Cần
Thơ, Rạch Miễu, Hàm Luông), khánh thành sân bay Cần Thơ, đáp ứng được nhu
cầu đi lại của nhân dân trong vùng.
Về giáo dục – đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo,
chăm sóc y tế có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu
số Khmer, Chăm được cải thiện. Đã thành lập mới và mở rộng, nâng cấp nhiều
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề; nâng
cấp Trường Đại học Cần Thơ trở thành trường trọng điểm quốc gia và cấp vùng,
thành lập mới Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, Đại học Sư phạm Đồng Tháp,
phân hiệu Đại học Thủy sản tại Kiên Giang, phân hiệu Đại học Kiến Trúc tại Cần
Thơ, Đại học Tiền Giang, đại học Trà Vinh, Đại học Võ Trường Toản (Hậu
Giang), đầu tư phát triển Trường Đại học An Giang…
Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt được những thành tựu
quan trọng. Mạng lưới y tế trong vùng được tăng cường, cơ sở vật chất bệnh viện
tỉnh, huyện, trạm y tế xã được năng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân
dân trong vùng.
5./ Về giáo dục đại học ở Đồng bằng Sông Cửu Long
GD Đại học là để đào tạo tinh hoa cho xã hội, không phải một giai cấp
tinh hoa thống trị mà là những tinh hoa có trách nhiệm, ý thức được vai trò và
bổn phận mình với xã hội. GDĐH là phương tiện mạnh mẽ nhất, tốt nhất để thay
đổi số phận mỗi cá nhân, cũng như vận mệnh của một đất nước.
Đi đôi với nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học,
GDĐH còn có nhiệm vụ truyền bá tri thức
và kết quả nghiên cứu giúp cho xã hội phát triển về nhiều lĩnh vực kinh tế, văn

hóa, nghê thuật...
Trường ĐH là nơi định hình, bảo tồn và phát triển những giá trị nền tảng có
vai trò là cột trụ tinh thần của xã hội và chuyển giao những giá trị đó qua nhiều
thế hệ.
8


Trường ĐH, với tư cách là trung tâm trí tuệ của mỗi quốc gia, và là một bộ
phận của dòng chảy tri thức toàn cầu, trường ĐH giúp xã hội nâng cao phẩm giá
con người và bảo vệ lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ.
Chức năng giáo dục đại học
Đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân về tri thức, để họ có thể tự khai
thác tiềm năng của mình để cống hiến lại cho xã hội;
Cung cấp cho xã hội một LLLĐ có trình độ chuyên môn cao, cần thiết cho sự
tăng trưởng và giàu mạnh của một nền kinh tế hiện đại;
Khai hoá xã hội, hướng dẫn dư luận, góp ý về đường lối và chính sách của nhà
nước;
Thu thập hay sáng tạo ra kiến thức qua nghiên cứu và chuyển giao những kiến
thức này đến xã hội.
Một số các trường Đại học vùng Đồng bằng sông Cửu Long:
Tỉnh An Giang: Trường Đại học An Giang được thành lập theo Quyết định số
241/1999/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ và
khai giảng năm học đầu tiên ngày 09 tháng 9 năm 2000. Xây dựng trên cơ sở
Trường Cao đẳng Sư phạm An Giang, Trường Đại học An Giang là cơ sở đào tạo
công lập trong hệ thống các trường đại học Việt Nam, chịu sự quản lý chuyên
môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đồng thời chịu sự quản lý trực tiếp của Ủy ban
nhân dân tỉnh An Giang. Trường có nhiệm vụ đào tạo trình độ đại học, phục vụ
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang và vùng Đồng bằng sông
Cửu Long. Ngoài ra Trường còn có nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng và chuyển
giao công nghệ trong Vùng.

Tỉnh Bạc Liêu: Trường Đại học Bạc Liêu được thành lập theo Quyết định số
1558/QĐ-TT ngày 24/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm mục tiêu đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội không chỉ
của tỉnh Bạc Liêu mà còn cho cả khu vực Bán đảo Cà Mau với các nhiệm vụ
chính là:
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng, TCCN;
- Liên kết đào tạo đại học, sau đại học.
- NCKH và chuyển giao công nghệ.
Thành phố Cần Thơ:
Đại học Y dược Cần Thơ: Ngày 25/12/2002, thủ tướng chính phủ QĐ thành lập
trường Đại học Y dược Cần Thơ. Trường Đại học Y dược Cần Thơ có sứ mạng
đào tạo nguồn nhân lực y tế trình độ đại học và sau đại học, nghiên cứu khoa học,
ứng dụng và chuyển giao công nghệ, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho
nhân dân vùng Đồng bằng Sông cửu Long và cả nước.
Đại học Cần Thơ: (ĐHCT), cơ sở đào tạo đại học và sau đại học trọng điểm của
Nhà nước ở ĐBSCL, là trung tâm văn hóa - khoa học kỹ thuật của vùng. Trường
đã không ngừng hoàn thiện và phát triển, từ một số ít ngành đào tạo ban đầu,
Trường đã củng cố, phát triển thành một trường đa ngành đa lĩnh vực. Hiện nay
Trường đào tạo 93 chuyên ngành đại học, 34 chuyên ngành cao học, 13 chuyên
9


ngành nghiên cứu sinh và 02 chuyên ngành cao đẳng. Nhiệm vụ chính của
Trường là đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH), chuyển giao công nghệ phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội trong vùng. Song song với công tác đào tạo, ĐHCT
đã tham gia tích cực các chương trình NCKH, ứng dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật nhằm giải quyết các vấn đề về khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá
và xã hội của vùng. Từ những kết quả của các công trình NCKH và hợp tác quốc
tế, Trường đã tạo ra nhiều sản phẩm, qui trình công nghệ phục vụ sản xuất, đời
sống và xuất khẩu, tạo được uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế. ĐHCT

tranh thủ được sự hỗ trợ tích cực của chính quyền địa phương ĐBSCL trong các
lĩnh vực đào tạo, hợp tác khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Trường đã
mở rộng quan hệ hợp tác khoa học kỹ thuật với nhiều tổ chức quốc tế, trường đại
học và viện nghiên cứu trên thế giới. Thông qua các chương trình hợp tác, năng
lực quản lý và chuyên môn của đội ngũ cán bộ được nâng cao, cơ sở vật chất,
trang thiết bị thí nghiệm, tài liệu thông tin khoa học được bổ sung.
Tỉnh Đồng Tháp: Trường Đại học Đồng Tháp là trường đại học công lập, đào
tạo đa ngành, đa lĩnh vực, trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, được thành lập
ngày 10/01/2003 theo Quyết định số 08/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
và Công văn số 5830/VPCP-KGVX ngày 04/9/2008 về việc đổi tên Trường
ĐHSP Đồng Tháp thành Trường Đại học Đồng Tháp.
* Chức năng, nhiệm vụ:
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật có trình độ đại học và
sau đại học cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước;
- Bồi dưỡng và đào tạo lại chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục;
- Nghiên cứu khoa học, triển khai áp dụng tiến bộ khoa học phục vụ phát triển
kinh tế – xã hội.
* Sứ mệnh:Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đa lĩnh vực, trong đó khoa học
giáo dục và đào tạo giáo viên là nòng cốt, nghiên cứu khoa học và cung cấp các
dịch vụ cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông
Cửu Long.
* Bộ máy nhà trường: 13 khoa đào tạo, 14 phòng - ban chuyên môn, 5 trung
tâm, 1 tạp chí khoa học, 1 trạm y tế và 1 trường mầm non trực thuộc.
* Đội ngũ: Tính đến tháng 11/2015, Nhà trường có 586 công chức, viên chức,
89,9 % giảng viên có trình độ từ thạc sĩ trở lên (trong đó có 02 phó giáo sư, 55
tiến sĩ, 75 nghiên cứu sinh, 79 giảng viên đang học tập, nghiên cứu ở nước
ngoài).
* Đào tạo:
Số lượng và cơ cấu ngành nghề liên tục phát triển trên cơ sở đảm bảo chất lượng

đào tạo. Hiện nay, Trường có 5 chuyên ngành đào tạo trình độ Thạc sĩ: Quản lý
giáo dục, Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Toán, Giáo dục học (Giáo dục
10


Tiểu học), Ngôn ngữ Việt Nam, Hóa lý thuyết và Hóa Lý, 32 ngành đào tạo trình
độ đại học, 16 ngành đào tạo trình độ cao đẳng.
Quy mô đào tạo của Nhà trường hiện nay là 10.600 học viên, sinh viên, 1.000 học
viên cao học; cùng với 4.600 sinh viên hệ liên thông, vừa làm vừa học tại 22 cơ
sở đào tạo thuộc các tỉnh trong và ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, nhà trường còn liên kết với nhiều trường đại học có uy tín trong nước
để đào tạo trình độ thạc sĩ với 460 học viên, hiện đang là giảng viên, giáo viên,
cán bộ thuộc các trường ĐH, CĐ, trường phổ thông, các doanh nghiệp trong và
ngoài vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
* Thành tích đã đạt được:
1. Huân chương
- Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2009
- Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2003
- Huân chương Lao động hạng Nhì năm 1997
- Huân chương Lao động hạng Ba năm 1985.
2. Cờ thi đua, bằng khen
- Cờ thi đua của UBND tỉnh về thành tích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dẫn đầu
trong phong trào thi đua yêu nước năm 2008.
- Bằng khen của Thủ tướng chính phủ tặng đơn vị có nhiều thành tích trong công
tác giáo dục và đào tạo từ năm 2004 đến 2007 góp phần vào sự nghiệp xây dựng
Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
- Bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ năm học: 2008 – 2009, 2009 – 2010, 2010 – 2011, 2011 – 2012, 2012 – 2013,
2013 – 2014, 2014 - 2015.
3. Danh hiệu “Tập thể Lao động Xuất sắc”

Liên tục đạt danh hiệu Tập thể LĐXS cấp Bộ từ năm 2003 đến 2015.
Tỉnh Long An: Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An được thành lập
theo quyết định 542/QĐ-TTg ngày 04/5/2007 của Thủ Tướng Chính phủ, mã
trường DLA, tên giao dịch tiếng Anh "Long An University of Economics and
Industry". Văn phòng và trụ sở chính tại Long An (số 938, Quốc lộ 1, phường
Khánh Hậu, thành phố Tân An, tỉnh Long An); Văn phòng đại diện tại Tp. Hồ
Chí Minh (số 13, đường số 8, Lý Phục Man, KP 3, phường Bình Thuận, Quận 7,
TP. HCM).
Tỉnh Tiền Giang: Trường Đại học Tiền Giang được thành lập theo quyết định số
132/2005/QĐ-TTg ngày 06/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở hợp nhất
Trường Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang (thành lập 9/1997 trên cơ sở hợp nhất
11


Trường Cao đẳng Sư phạm và Trường Trung học sư phạm mà tiền thân là 4
trường Sư phạm của tỉnh được thành lập từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng) và Trường Cao đẳng Cộng đồng Tiền Giang (thành lập 8/2000, trên cơ sở
hợp nhất Trung tâm Đào tạo và Bồi duỡng tại chức liên tỉnh Tiền Giang - Long
An - Bến Tre mà tiền thân là Viện Đại học Cộng đồng Tiền Giang ra đời 1971 và
Trường Công nhân Kỹ thuật Tiền Giang). Trường Đại học Tiền Giang đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao và nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững vùng ĐBSCL, mang đến cho người học cơ hội
nghề nghiệp để thăng tiến.
Tỉnh Trà Vinh: Trường Đại học Trà Vinh (ĐHTV) được thành lập vào ngày 19
tháng 6 năm 2006 theo Quyết định 141/QĐ/2006-TTg của Thủ tướng chính phủ,
tiền thân của trường là Trường Cao đẳng Cộng đồng Trà Vinh được thành lập vào
năm 2001
Trường ĐHTV là Trường công lập, hoạt động theo mô hình đa cấp, đa ngành, đa
phương thức đào tạo, có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao,
nghiên cứu khoa học & ứng dụng, cung cấp các dịch vụ góp phần vào việc phát

triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Trà Vinh và Đồng bằng sông Cửu Long.
Trường báo cáo hoạt động và chịu trách nhiệm trước đơn vị chủ quản là Ủy Ban
Nhân dân tỉnh Trà Vinh và Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Trường xây dựng mối liên hệ hợp tác với các cơ quan Nhà nước, đoàn thể, tổ
chức chính trị - xã hội, các đơn vị đào tạo, các doanh nghiệp, nhà tuyển dụng,
người lao động và các tổ chức quốc tế nhằm đáp ứng tốt cho các hoạt động của
trường như: nghiên cứu khoa học, tiếp nhận và chuyển giao khoa học, kỹ thuật &
công nghệ, cung cấp dịch vụ, nhu cầu phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
cho người dân địa phương và khu vực.
Tỉnh Vĩnh Long:
Trường Đại học Cửu Long được thành lập theo Quyết định số 04/2000/QĐTTg ngày 05 tháng 1 năm 2000 của Thủ tướng chính phủ. Trường Đại học Cửu
Long là trường đại học ngoài công lập đầu tiên của khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long, qua hơn 11 năm xây dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh,
thương hiệu của trường đã được xã hội đón nhận. Trường Đại học Cửu Long là
một trong số ít các trường đại học ngoài công lập trên cả nước có cơ sở vật chất
khang trang, hiện đại với diện tích hơn 22 hecta. Với phương châm đào tạo
“Đạo đức - Tri thức - Dân tộc”, trường Đại học Cửu Long định hướng trở thành
trung tâm đào tạo các cử nhân, kỹ sư có chuyên môn cao, đạo đức tốt và thấm
nhuần tinh thần dân tộc. Với việc cập nhật thường xuyên chương trình đào tạo,
đổi mới phương pháp giảng dạy, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, trường Đại
học Cửu Long phấn đấu trở thành một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực cao
của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.

12


Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long là trường công lập thuộc hệ
thống đào tạo quốc dân của Việt Nam. Hiện tại nhà trường do bộ LĐ-TB&XH
quản lý về nhân sự và Bộ GDĐT quản lý về chuyên môn. Với vị trí nằm
giữa trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, là một trong những trường trọng điểm

về dạy nghề của cả nước, do dự án “Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề” đầu tư.
Trong những năm qua trường đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao
hàng ngàn GVDN và cán bộ kỹ thuật cho các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và
các tỉnh thành khác của đất nước. Qua thăm dò, hiện nay đội ngũ này đã phát huy
năng lực tại nơi làm việc rất tốt, rất nhạy bén trong quá trình tiếp thu công nghệ
mới, có nhiều người đã trở thành cán bộ chủ chốt ở các trường dạy nghề, trung
tâm dạy nghề hoặc các cơ quan, đơn vị, nhà máy xí nghiệp, ...phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Tỉnh Cà Mau: Trường Cao đẳng Sư phạm Cà Mau được thành lập từ tháng
11/2002 theo Quyết định số : 5738/QĐ-BGD&ĐT-TCCB của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT trên cơ sở trường Trung học Sư phạm. Từ khi thành lập đến nay trường
từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng
dạy và học. Trường Cao đẳng Sư phạm Cà Mau có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên có trình độ sư phạm và các trình độ thấp hơn; bồi dưỡng cán bộ quản lý
và nhân viên nghiệp vụ giáo dục trường trung học cơ sở, tiểu học, mầm non và
nghiên cứu khoa học giáo dục địa phương.

13



×