Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Khóa luận Chính trị quốc tế hiện đại Những mặt hạn chế của hệ thống luật chơi trong nền chính trị quốc tế đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.09 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

-----------------

KHÓA LUẬN
BỘ MÔN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI

ĐỀ TÀI: NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG LUẬT
CHƠI TRONG NỀN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI

Giảng viên hướng dẫn : TS.Đỗ Sơn Hải
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Sinh Hoàng

Lớp

: CT38H - 0104

Hà Nội, tháng 12 năm 2014


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG I: SỰ HÌNH THÀNH LUẬT CHƠI ....................................... 2
1. Vai trò của nước lớn............................................................................. 2
2. Xung đột hay hợp tác, lựa chọn nào đây?.......................................... 4
CHƯƠNG II: NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG LUẬT
CHƠI TRONG NỀN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI................. 5
1. Sự bất bình đẳng của các luật chơi..................................................... 5


2. Tính hai mặt của quá trình thực hiện luật chơi ................................ 9
2.1. Thực hiện luật, lách luật................................................................ 9
2.2. Ai giám sát luật chơi, Liệu Pacta Sunt Servanda có trở thành
hiện thực? ............................................................................................ 12
2.2.1. Mỹ hay Liên Hợp Quốc có quyền giám sát? ........................... 12
2.2.2. Trừng phạt hay không trừng phạt? ......................................... 14
2.2.3. Trừng phạt như thế nào và hiệu quả ra làm sao?................... 14
3. Xung đột giữa các luật chơi............................................................... 19
KẾT LUẬN .................................................................................................... 22
1. “Tính hoang dại” của Luật chơi hiện nay: Luật chơi hay “Luật
rừng”? ......................................................................................................... 22
2. Liệu có giải pháp nào để loại bớt và tiến tới loại bỏ hẳn “tính hoang
dại” của các luật chơi hiện nay?............................................................... 23
2.1. Giải pháp........................................................................................ 23
2.2. Đánh giá ......................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 26


LỜI MỞ ĐẦU
Tương tự như mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội được điều
chỉnh bởi các quy chuẩn và giá trị, quan hệ của các quốc gia với các thực thể
khác trong hệ thống quốc tế bị chi phối bởi một mạng lưới những sự cho phép
và ép buộc. Người ta gọi nó là “Luật chơi”. Đây là những nguyên tắc được tất
cả các quốc gia khi tham gia vào đời sống quốc tế thừa nhận và cam kết tuân
thủ. Xuất phát từ những nguyên tắc đã được quy định trong luật quốc tế, thời
gian trôi đi cùng với sự thay đổi không ngừng của tình hình quốc tế, hệ thống
luật chơi ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Nó nắm một vai trò quan
trọng trong việc điều chỉnh cách hành xử của các quốc gia khi tham gia vào
đời sống quốc tế, từ đó có thể giải quyết ổn thỏa cũng như hạn chế các xung
đột, tăng cường hợp tác giữa các quốc gia với nhau.

Nền chính trị quốc tế hiện nay vận hành thông qua một hệ thống luật
chơi đặc thù, được hình thành trong suốt một chặng đường lịch sử lâu dài của
loài người. Trong quá trình tương tác giữa các quốc gia hiện nay, các cường
quốc hàng đầu luôn muốn nắm lấy cái quyền quyết định luật chơi và bắt các
quốc gia “chiếu dưới” phải thực hiện theo. Chính vì vậy, bên cạnh những mặt
tích cực mà hệ thống luật chơi hiện nay mang lại vẫn còn tồn tại nhiều mặt
hạn chế chưa thể khắc phục được. Trong bài khóa luận này em xin được đề
cập đến những mặt hạn chế này, bên cạnh đó em cũng nói về một số giải pháp
và đánh giá.
Do kiến thức của em còn hạn hẹp và nguồn tài liệu tương đối ít nên bài
khoá luận này khó tránh khỏi những thiếu sót, Kính mong nhận được những ý
kiến nhận xét và đóng góp của thầy để bài khóa luận của em được đầy đủ và
hoàn thiện hơn.
Em tìm hiểu bài khóa luận này theo 2 nội dung lớn như sau:
CHƯƠNG I: Sự hình thành luật chơi
CHƯƠNG II: Những mặt hạn chế của hệ thống Luật chơi trong nền Chính
trị quốc tế đương đại

1


NỘI DUNG TÌM HIỂU
CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH LUẬT CHƠI
1. Vai trò của nước lớn
Người xưa có câu “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” để nói về những người
dùng sức mạnh về kinh tế vật chất để đạt được mục đích, hay nói cách khác là
xoay vãn tình thế sao cho có lợi cho mình nhất. Con người, một cá nhân trong
xã hội vẫn luôn thừa nhận điều này như một nguyên tắc bất di bất dịch. Và
nhiều con người tạo nên xã hội, xã hội sẽ cấu thành nên một quốc gia, dường

như cái nguyên tắc ấy để điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người bỗng
nhiên lại trở nên vô cùng hợp lý khi áp dụng vào môi trường chính trị quốc tế
mà ở đó mối quan hệ nâng lên một mức cao hơn ở cấp độ quốc gia. Từ xưa
đến nay, vai trò của những kẻ giàu có trong xã hội luôn được thừa nhận và
chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình vận hành xã hội, và tương tự như
vậy, xã hội quốc tế cũng luôn giành một sự quan tâm đặc biệt đến các nước
lớn, mà có thể nói một cách bạo miệng hơn là chính trường quốc tế là một sân
khấu lớn trong đó các nước lớn thủ các vai chính và các nước nhỏ chỉ góp
những vai phụ hay diễn viên quần chúng. Chính các nước lớn mới là nhân tố
tạo ra các luật chơi của nền chính trị thế giới. Quá trình tương tác giữa họ
trong sự giao lưu toàn cầu đã thiết lập nên những luật chơi mà bất kể quốc gia
nào khác, dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển đều phải thừa nhận
và hành động theo.
Chủ nghĩa hiện thực ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách là
một mô hình lý thuyết hoàn chỉnh. Tư tưởng của các nhà hiện thực đề cao vai
trò của các quốc gia, coi quốc gia là thực thể chính yếu nhất của quan hệ quốc
tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong khi các quốc gia như Nga, Nhật
Bản, Tây Âu,… bị tàn phá một cách nặng nề thì thế giới đã chứng kiến sự
thống trị tuyệt đối của Mỹ với xu hướng bành trướng và áp đặt. Chủ nghĩa
hiện thực với cái cốt lõi bản chất từ hiện thực khách quan mà rút ra các nội
dung tư tưởng có lẽ đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thực tế này. Đối với họ, Mỹ
là siêu cường duy nhất, có sức mạnh vượt trội và quyết định hầu như toàn bộ
các vấn đề chính trị quốc tế. Chính Mỹ là nước lớn duy nhất có khả năng hình
thành cũng như áp đặt các luật chơi trong suốt thời kỳ này.

2


Đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX đã xuất hiện một trào lưu mới, đó
chính là chủ nghĩa hiện thực mới được đánh dấu bằng việc phát hành cuốn

sách của nhà lý luận người Mỹ K. Waltz "Lý luận chính trị quốc tế" vào 1979.
Nhà nghiên cứu này cho rằng chủ nghĩa hiện thực mới đã "chỉnh sửa nội dung
thiếu chặt chẽ và rời rạc của tư tưởng hiện thực chủ nghĩa kinh điển thành một
lý thuyết cân đối”. Có lẽ sự ra đời của chủ nghĩa này là hoàn toàn có thể hiểu
được, đơn giản bởi vì tình hình chính trị quốc tế luôn biến động không ngừng,
và các nhà hiện thực mới với cái nhìn sát sao thực tế sẽ không bao giờ bằng
lòng với những tư tưởng trước đây của các nhà hiện thực chủ nghĩa kinh điển.
Đối với họ giờ đây, Mỹ tuy vẫn là siêu cường số 1 trên thế giới, nhưng rõ
ràng nước Mỹ không còn mạnh như trước nữa, tầm ảnh hưởng của Mỹ cũng
không còn bao quát rộng lớn như trước nữa. Cùng với sự nổi lên của các quốc
gia khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc,.. vai trò siêu cường của
Mỹ đang ngày càng bị thách thức. Trật tự thế giới đã thay đổi, Mỹ không còn
là quốc gia duy nhất có quyền định hình luật chơi nữa mà thay vào đó là sự
tham gia ngày càng nhiều của các nước lớn khác kể trên. Nhìn chung, luật
chơi chính là kết qủa của sự tương tác giữa các nước lớn này.
Quy trình hình thành một luật chơi trong nền chính trị quốc tế trải qua
các giai đoạn sau. Đầu tiên, xuất hiện nước lớn với xu hướng bành trướng
và áp đặt. Và để thực hiện chính sách này của mình nước lớn một đã chủ
động đưa ra những đề xuất, tất nhiên là những đề xuất này phải phục vụ
cho lợi ích quốc gia của nước lớn một này. Trong quan hệ quốc tế, rất ít khi
chúng ta bắt gặp một sự hài hòa về lợi ích quốc gia giữa các nước, đặc biệt
là những nước lớn, lợi ích của quốc gia này đôi khi lại là hiểm họa tai hại
đối với một quốc gia khác. Bởi vậy, sau khi nước lớn một đưa ra đề xuất
của họ, mặc nhiên sẽ xuất hiện một nước lớn hai đưa ra phản đề xuất. Va
chạm này sẽ giải quyết như thế nào? Xung đột và hợp tác luôn là hai mặt
của quan hệ quốc tế. Và để giải quyết va chạm này, hai nước lớn một và
hai có thể dùng các biện pháp ngoại giao hoặc chiến tranh. Kết quả của
việc giải quyết va chạm này chính là “Luật chơi”. Chúng ta có thể cụ thể
hóa quá trình hình thành luật chơi theo sơ đồ sau:


3


Đề xuất
Phục vụ LIQG
Phản đề xuất

Nước lớn 1

Nước lớn

2

Va chạm phải giải quyết
bằng ngoại giao hoặc chiến
tranh

Kết quả của việc giải
quyết va chạm là
“luật chơi”

Sơ đồ quá trình hình thành luật chơi
2. Xung đột hay hợp tác, lựa chọn nào đây?
Quá trình giải quyết va chạm giữa các nước lớn luôn là giai đoạn quan
trọng nhất trong quá trình hình thành luật chơi. Có thể nói luật chơi có công
bằng hay không phụ thuộc phần lớn vào lựa chọn giải pháp giải quyết va
chạm của các nước lớn. Ở đây, đó chính là hợp tác – đàm phán thương lượng
và xung đột – chiến tranh. Nếu như người ta nhắc đến giải pháp đàm phán
thương lượng như một trò chơi đôi bên cùng có lợi (win-win game) thì chiến
tranh đồng nghĩa với sự mất mát, tổn thất nặng nề, đôi bên cùng thất bại (loselose game). Tuy nhiên một khi chiến tranh đã nổ ra thì nhất định sẽ phải có kẻ

thắng người thua, kẻ được người mất, và đương nhiên là bên thắng trận sẽ có
quyền quyết định tất cả, áp đặt đối với bên thua trận, đây cũng chính là mặt
hạn chế của chiến tranh. Từ bản chất này nghe có vẻ một luật chơi được hình
thành thông qua con đường thương lượng đàm phán sẽ có nhiều điểm mạnh
và khó có thể tìm thấy bất kỳ một hạn chế nào trong đó so với một luật chơi
được hình thành bằng chiến tranh. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải suy xét
xem liệu rằng quá trình đàm phán thương lượng đó thực sự đã công bằng? Và
những gì mà cả hai bên nhận được sau đàm phán thực sự đã phù hợp và đúng
đắn. Tóm lại, dù có thông qua con đường hợp tác hay chiến tranh để tạo ra
luật chơi thì ngay chính trong bản thân luật chơi này cũng chứa đựng những
mặt hạn chế khó tránh khỏi.

4


CHƯƠNG II
NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG LUẬT CHƠI TRONG
NỀN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI
1. Sự bất bình đẳng của các luật chơi
“Quyền lực vẫn là nhân tố quyết định nội dung của luật chơi”
Xã hội phân biệt kẻ giàu người nghèo cũng như chính trị quốc tế có nước
lớn nước nhỏ. Trong xã hội đã có kẻ giàu người nghèo chứng tỏ đã có sự phân
biệt giai cấp và sự bất bình đẳng diễn ra như một hậu quả tất yếu. Tương tự
như vậy, trong quan hệ quốc tế các nước lớn với sức mạnh vượt trội của mình
luôn có xu hướng bành trướng, áp đặt các quốc gia nhỏ bé, yếu kém. Quá
trình tương tác giữa các quốc gia này hình thành nên các luật chơi có lợi cho
họ nhưng lại vô cùng bất lợi đối với các nước nhỏ. Điều này tạo ra sự bất bình
đẳng trong các luật chơi. Chúng ta có thể nhận thấy rằng hiện nay quyền lực
vẫn là nhân tố quyết định nội dung của luật chơi, Ai có quyền lực thì người đó
có quyền quyết định. Quốc gia nào quyền lực càng mạnh thì càng chi phối

nhiều hơn đến các công việc của đời sống quốc tế. Các nhà hiện thực chủ
nghĩa kinh điển quan niệm rằng trong đời sống chính trị quốc tế không phải
tất cả các quốc gia đều bình đẳng như nhau mà chỉ có các nước lớn là có
quyền quyết định. Như H. Morgenthau nhấn mạnh: “Không phải tất cả các
quốc gia đều tham dự vào nền chính trị quốc tế như nhau. Thái độ của quốc
gia đối với chính trị quốc tế là một phẩm chất năng động, Nó thay đổi cùng
với sự thay đổi sức mạnh của quốc gia mà có thể đưa quốc gia lên tuyến đầu
của chính trị quốc tế, cũng có thể loại bỏ khả năng hành động tích cực trên
trường quốc tế của quốc gia đó”1. Tiếp theo Thusydides, những người hiện
thực chủ nghĩa cho rằng những quốc gia mạnh làm được những gì mà họ có
thể làm, còn các quốc gia yếu thì làm được những gì mà các quốc gia mạnh
cho phép họ làm. Mọi trạng thái của quan hệ quốc tế đều lệ thuộc vào mối
quan hệ tương tác giữa một số nhỏ các cường quốc. Khi ký kết các liên minh
và đồng minh với nhau, khi tham gia vào chiến tranh hoặc các cuộc xung đột,
các cường quốc có thể hy sinh vị trí và lợi ích của các nước nhỏ. Theo họ, an
ninh quốc tế và trật tự thế giới tuỳ thuộc vào các nước lớn, sẽ được duy trì nếu
họ thỏa thuận được với nhau về lợi ích và sẽ bị phá vỡ nếu các thỏa thuận này
không đạt được. Trước đây, chúng ta đã chứng kiến sức mạnh chi phối này
của Mỹ, sau đó là đến Mỹ và Liên Xô trong chiến tranh lạnh, và giờ đây là
1

“Quan điểm chủ nghĩa hiện thực về quan hệ quốc tế”, Vũ Thế Hiệp, Học Viện Ngoại Giao Việt Nam

5


Mỹ, Nga và một số nước lớn khác nữa như Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Âu,
Ấn Độ. Chính các quốc gia này là những nước lớn nắm giữ quyền lực và từ
đó chi phối quá trình hình thành các luật chơi áp dụng cho phần còn lại của
thế giới. Hẳn là quá bất bất bình đẳng khi diễn ra thực tế là số đông phải phục

vụ lợi ích của số ít và làm theo những điều mà phần số ít đó đặt ra, Chúng ta
sẽ phân tích qua một số ví dụ để hiểu rõ hơn mặt hạn chế này:
Ví dụ thứ nhất là Nghị quyết 1718 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
trừng phạt CHDCND Triều Tiên. Liệu rằng đây có phải là quyết định của tất
cả?
Liên Hợp Quốc, với 193 thành viên, hiện đang là tổ chức có số lượng
thành viên chiếm hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các nhà sáng lập Liên
Hợp Quốc đã thành lập ra Hội Đồng Bảo An bao gồm 5 thành viên thường
trực là Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp và một nhóm luân phiên các
thành viên không thường trực. Hội đồng bảo an có thể được nhìn nhận như
một sự hòa nhập khái niệm cân bằng quyền lực thế kỷ 19 và khuôn khổ an
ninh tập thể của Liên Hợp Quốc. Với vai trò duy trì hòa bình và an ninh thế
giới, Hội Đồng Bảo An có thể thông qua các nghị quyết mang tính ràng buộc
theo quy định tại chương VII của hiến chương Liên Hợp Quốc. Nếu năm
thành viên thường trực không đồng ý thông qua nghị quyết, mỗi thành viên
này có một quyền phủ quyết. Có thể nói quyền phủ quyết có trọng lượng rất
lớn, được coi là đặc quyền của chỉ riêng 5 cường quốc này. Bởi vì chỉ với một
quyền phủ quyết được đưa ra đồng nghĩa với việc nghị quyết ấy không được
thông qua. Về nghị quyết 1718, đây là nghị quyết do Mỹ đề xuất nhằm trừng
phạt CHDCND Triều Tiên sau khi nước này tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ
nhất năm 2005. Việc thông qua nghị quyết này hoàn toàn thuộc thẩm quyền
quyết định của 15 thành viên Hội Đồng Bảo An, mà cụ thể hơn là phụ thuộc
vào ý chí của năm thành viên thường trực. Nhìn vào quốc gia đề xuất nghị
quyết và số lượng các quốc gia tham gia bỏ phiếu chúng ta có thể nhận thấy
rằng đây rõ ràng không phải là một quyết định của tất cả. Thậm chí quá trình
thông qua nghị quyết này cũng gặp rất nhiều khó khăn do có sự khác biệt về
lợi ích giữa năm thành viên thường trực. Việc bỏ phiếu nghị quyết 1718 bị trì
hoãn xuất phát từ những lo ngại của Nga và Trung Quốc. Đại sứ Trung Quốc
tại Liên Hợp Quốc Vương Quang Á bình luận, nghị quyết là một "câu trả lời
thích hợp", nhưng ông kêu gọi các nước thành viên Liên Hợp Quốc giữ thái

độ thận trọng và có trách nhiệm, đồng thời kiềm chế những bước đi mang tính
khiêu khích. Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Ivanov đã khẳng

6


định rằng nghị quyết "không nên nhắc đến việc sử dụng vũ lực và không được
chống lại trực tiếp người dân Bắc Triều Tiên"2. Với mong muốn nghị quyết
được thông qua, Washington đã phải sửa đổi văn bản này để nhận được sự
chấp thuận của Nga và Trung Quốc. Sửa đổi quan trọng nhất là việc xóa bỏ
nội dung đề cập đến hành động vũ lực chống lại CHDCND Triều Tiên. Đề
nghị cấm vận hoàn toàn về quân sự đối với Bắc Triều Tiên như ban đầu cũng
được sửa lại, bằng cách nêu rõ những mặt hàng cụ thể nước này bị cấm nhập
khẩu như xe tăng, trực thăng và tên lửa.
Nghị quyết 1718 trừng phạt CHDCND Triều Tiên
 Yêu cầu Bắc Triều Tiên hủy toàn bộ các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hủy
diệt và tên lửa đạn đạo.
 Các nước ngăn cấm việc buôn bán hoặc vận chuyển nguyên vật liệu liên
quan đến chương trình vũ khí hủy diệt với Bình Nhưỡng cùng những thiết bị
quân sự cỡ lớn như xe tăng, tên lửa và trực thăng.
 Yêu cầu các nước phong tỏa những nguồn tài chính ở nước ngoài thuộc sở
hữu của những cá nhân và công ty liên quan đến chương trình hạt nhân và tên
lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên.
 Cho phép các nước kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu từ Bắc Triều Tiên để
phát hiện các loại vũ khí hủy diệt.
 Nghị quyết không ủng hộ đe dọa về quân sự
 Kêu gọi Bình Nhưỡng quay lại vòng đàm phán 6 bên vô điều kiện.
Nghị quyết 1718 trừng phạt CHDCND Triều Tiên
Qua đó chúng ta thấy được cơ chế thông qua nghị quyết tại Hội Đồng
Bảo An Liên Hợp Quốc còn quá nhiều bất bình đẳng khi trao thẩm quyền

quyết định quá lớn cho năm thành viên thường trực. Bất cứ một nghị quyết
nào có được thông qua hay không không phụ thuộc vào ý chí của 193 quốc
gia thành viên mà phụ thuộc vào ý chí của chỉ năm thành viên thường trực
này. Rõ ràng quyết định tại Hội đồng Bảo an chưa bao giờ và sẽ không bao
giờ là quyết định của tất cả.
Ví dụ thứ hai là về Tổ chức thương mại thế giới WTO. Liệu các quy định
của WTO có sự nhất trí cao của mọi nước thành viên?
2

/>
7


WTO được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995. Tính đến
ngày 26/06/2014, WTO có 160 thành viên chính thức. Các Hiệp định của
WTO rất dài và phức tạp vì đó là những văn bản pháp lý qui định rất nhiều
lĩnh vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng dệt may, hoạt động ngân hàng,
viễn thông, thị trường công, tiêu chuẩn công nghiệp, tính an toàn của sản
phẩm, qui định liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, và còn
rất nhiều lĩnh vực khác nữa… Tuy nhiên, có một số nguyên tắc đơn giản và
cơ bản làm kim chỉ nam cho tất cả các lĩnh vực này, và trở thành nền tảng của
hệ thống thương mại đa biên, đó là:

Thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ
quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia).

Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán).

Nguyên tắc ổn định trong hoạt động thương mại, kinh doanh quốc
tế3.


Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh.

Nguyên tắc giành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát
triển và chậm phát triển và khuyến khích các nước đó phát triển và
cải cách kinh tế.
Vậy cách thức các quốc gia thành viên WTO thỏa thuận để thiết lập nên
các nguyên tắc này là như thế nào? Phải chăng trong quá trình ấy có sự tham
gia của tất cả các nước thành viên, đạt được sự nhất trí cao nhất từ tất cả các
nước thành viên? Đó là những câu hỏi mà các câu trả lời của nó thể hiện một
cách sâu sắc nhất hạn chế của chính hệ thống này. Thông thường, các nguyên
tắc thương mại toàn cầu được hình thành theo một quá trình như sau:
 Một cuộc gặp gỡ chiến lược giữa hai nền kinh tế chủ chốt có thể diễn
ra tại một địa điểm không chính thức, ví dụ như tại một nhà hàng. Tại cuộc
gặp này, hai bên sẽ đưa ra những đề xuất cũng như những phản đề xuất cho
đến khi đạt được một thỏa thuận.
 Tiếp theo, một bản dự thảo hiệp định sẽ được chuyển tới những nền
kinh tế chính khác. Các nền kinh tế này đưa ra những quan điểm, đánh giá và
tiến đến thiết lập một thỏa thuận.
 Bản dự thảo hiệp ước có thể tiếp tục được chuyển đến một nhóm lớn
hơn các nền kinh tế khác. Cho đến khi bản hiệp ước đạt được sự hài hòa về lợi
3

Nguyên tắc này còn có tên gọi là “có thể dự báo được các rủi ro thương mại”.Xem thêm: WTO,
“Understanding the WTO”, Geneva 2008; tr.11-12

8


ích giữa các nước thì sẽ không cần thiết phải có những sự tham gia góp ý

thêm nữa.
 Sử dụng ảnh hưởng của các nước lớn, ban thư ký có thể gây áp lực
buộc các nước nhỏ phải chấp nhận hiệp định.
 Cuối cùng, hiệp định đã được thương lượng này sẽ được đưa ra bỏ
phiếu tại một cuộc họp chính thức, nơi mà gần như chắc chắn sẽ được thông qua.
Thông qua quá trình trên chúng ta có thể tự tìm ra cho mình các câu trả
lời cho những câu hỏi trên. Rõ ràng quá trình thiết lập các nguyên tắc của
WTO tỏ ra thiếu minh bạch và lắm bất công. Quyết định cuối cùng luôn luôn
thuộc về các nước lớn có nền kinh tế nắm một vai trò chủ chốt trong tổ chức.
Dường như các nước nhỏ không mấy ảnh hưởng đối với quá trình này. Theo
như một quan chức của WTO thì điều duy nhất mà các nước nhỏ có thể làm là
đóng vai trò như một “kẻ chuyên gây phiền toái”4, còn tất cả các công việc
của WTO đều được quyết định một cách không chính thức bởi các nước lớn.
Tóm lại, các cơ chế, thể chế quốc tế hiện nay đang hoạt động cùng với
những luật chơi được thiết lập chủ yếu bởi các nước lớn, chính điều này đã
tạo ra sự bất bình đẳng trong chính bản thân các luật chơi này. Một nguyên
tắc được thừa nhận trong hầu hết các văn bản luật quốc tế hiện nay là mọi
người đều bình đẳng trước luật, nhưng nguyên tắc đó chỉ là trên giấy tờ, còn
ngoài đời thực thì luật chưa bao giờ bình đẳng với mọi người.
2. Tính hai mặt của quá trình thực hiện luật chơi
2.1. Thực hiện luật, lách luật
Quá trình hình thành luật chơi đã luôn ẩn chứa bao sự bất bình đẳng, bởi
vậy trong quá trình thực hiện luật chơi ấy cũng có nhiều vấn đề tiêu cực cần
bàn đến. Sự thực hiện luật chơi của các chủ thể trong nền chính trị quốc tế là
một quá trình hai mặt. Có những chủ thể thực hiện một cách nghiêm túc, hay
nói cách khác tức là tuân thủ luật chơi, nhưng bên cạnh đó có những chủ thể
không thực hiện đúng theo những luật chơi này và tìm mọi “kẽ hở” để có thể
lợi dụng mà người ta hay gọi là tìm cách “lách luật”. Tại sao lại như vậy? Tại
sao cùng một luật chơi đó thôi mà lại có những nước tuân thủ một cách
nghiêm túc, ngược lại có những nước không tuân thủ đúng, thậm chí không

thực hiện nó, vậy thì tại sao? Nhìn vào quá trình hình thành luật chơi cũng
như thực tế áp dụng nó ta có thể thấy được điều này là hoàn toàn có thể dễ
hiểu. Bản thân việc hình thành luật chơi đã là một sự bất công lớn bởi vì
quyền quyết định đâu có ở tất cả các quốc gia mà chỉ nằm trong tay một số ít
4

/>
9


các nước lớn. Bởi vậy, luật chơi luôn đại diện cho lợi ích của các nước lớn
này và không phù hợp thậm chí là đi ngược lại với lợi ích của phần đông các
nước nhỏ. Và hậu quả tất yếu là những nước lớn này sẽ luôn nỗ lực thực hiện
mọi biện pháp có thể để luật chơi được duy trì, từ đó bảo vệ lợi ích quốc gia
mình. Trong khi đó, các nước nhỏ lại tìm mọi cách để lẩn tránh việc thực hiện
những luật chơi không có lợi cho họ, hoặc cố gắng tìm kiếm những kẽ hở của
luật chơi để có thể “lách luật”. Tuy nhiên trên thực tế, tỷ lệ các nước nhỏ
thành công trong việc “lách luật” này là rất nhỏ, mà hiện nay chính các nước
lớn mới là những chủ thể muốn “lách luật”, hay nói cách khác là lạm dụng
luật này một cách quá mức để có thể tối đa hóa lợi ích cho họ, nhằm đạt được
mục tiêu đã đề ra.
Chúng ta có thể thấy được điều này trong việc thực thi nghị quyết 1973
của Mỹ và NATO trong cuộc chiến Libya. Đây là nghị quyết được đề xuất bởi
Pháp, Li Băng và Vương quốc Anh với nội dung thiết lập vùng cấm bay và
cho phép sử dụng vũ lực đối với chính quyền của Muammar Gaddafi trong
cuộc nổi đậy tại Libya năm 2011. Nghị quyết được Hội đồng Bảo an thông
qua ngày 17 tháng 3 năm 2011. Mười thành viên Hội đồng Bảo an đã bỏ
phiếu quyết, năm thành viên (Brazil, Đức, Ấn Độ và các thành viên thường
trực Trung Quốc và Nga) bỏ phiếu trắng, không có phiếu chống. Nghị quyết
giao quyền cho cộng đồng quốc tế thiết lập một vùng cấm bay Libya và dùng

các phương thức cần thiết nhưng không có chiếm đóng nước ngoài để bảo vệ
thường dân. Nội dung chính của Nghị quyết 1973 (2011) như sau:

Áp đặt một vùng cấm bay trên không phận Libya.

Cho phép tất cả các phương tiện cần thiết để bảo vệ dân thường và
các khu vực dân sự dân cư.

Tăng cường cấm vận vũ khí và hành động đặc biệt chống lại lính
đánh thuê, bằng cách cho phép để kiểm tra bắt buộc đối với các tàu
và máy bay.

Áp đặt một lệnh cấm trên tất cả các chuyến bay đi và đến Libya.

Áp đặt một lệnh phong tỏa thuộc sở hữu của các cơ quan chức
Libya, và xác nhận lại tài sản đó được sử dụng cho lợi ích của nhân
dân Libya.

Mở rộng lệnh cấm đi lại và phong tỏa tài sản của Nghị quyết 1970
của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc bổ sung đối với một số cá
nhân và tổ chức Libya.

10


Thiết lập một nhóm chuyên gia để giám sát và thúc đẩy thực hiện
xử phạt.
Trên thực tế, các hoạt động quân sự đã được phát động gần như ngay sau
khi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết này. Nhưng chỉ
vài ngày sau khi liên quân Anh-Pháp-Mỹ không kích Libya, dư luận quốc tế

đã chuyển dần từ trung lập sang nghi ngờ hoặc phản đối. Lật lại lịch sử trước
đây Libya đã từng bị Liên Hợp Quốc cấm vận theo Nghị quyết 748 tháng
4/1992 và Nghị quyết 883 tháng 11-1993. Libya cũng đã từng bị Mỹ tấn công
trong chiến dịch Vực El Dorado ngày 15/4/1986. Bởi thế, để không có cớ cho
nước ngoài can thiệp, ông Gadhafi lập tức tuyên bố ngừng bắn và ra lệnh cấm
máy bay cất cánh. Tuy nhiên, liên quân vẫn không kích. Từ ngày 18/3, hai
bên ở Libya đều vi phạm lệnh ngừng bắn. Quân chính phủ vẫn tiến về thành
phố Benghazi. Phe nổi dậy vẫn cho máy bay chiến đấu cất cánh. Liên quân
viện cớ này để can thiệp nhưng lại thiên vị khi chỉ tấn công quân đội chính
phủ.
Ông Ân Cương, chuyên viên Ban Âu-Á-Phi thuộc Học viện Khoa Học
Xã Hội Trung Quốc phân tích, nghị quyết của Liên Hợp Quốc cho phép áp
dụng biện pháp cần thiết để ngăn chặn quân chính phủ trấn áp phe nổi dậy.
Trong biện pháp cần thiết có bao gồm can thiệp quân sự. Tuy nhiên, thời điểm
để áp dụng biện pháp cần thiết chỉ khi tại Libya bùng nổ nguy cơ nhân đạo
hoặc lệnh áp đặt vùng cấm bay bị uy hiếp. Ví dụ: Nếu máy bay liên quân
giám sát vùng cấm bay mà bị súng phòng không uy hiếp thì mới có quyền
bắn.
Do vậy, hành động can thiệp quân sự của liên quân là lạm dụng sự ủy
quyền của Liên Hợp Quốc, là hành vi chế tài thái quá. Có hai điểm đặc thù
trong bối cảnh can thiệp quân sự của liên quân:
 Libya đang trong tình thế nội chiến: Hầu hết các nghị quyết của Liên
Hợp Quốc mang tính chất chế tài. Nhưng liên quân cho rằng với tình thế nội
chiến ở Libya thì chế tài không thể ngăn chặn xảy ra nguy cơ nhân đạo nên
viện vào đó sử dụng biện pháp quân sự.
 Nguy cơ tại Libya phát sinh do yếu tố nội bộ: Trước nay, việc can
thiệp quân sự vào một quốc gia có chủ quyền đều bắt nguồn từ yếu tố bên
ngoài như chế tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt hoặc nước này xâm lược nước
khác, như chiến tranh ở Iraq năm 1991 và năm 2003. Lần này, liên quân can
thiệp vào Libya lại xuất phát từ nguy cơ nội bộ (quân đội chính phủ trấn áp

phe nổi dậy).


11


Rõ ràng Mỹ và NATO dùng “kẽ hở” của Nghị quyết 1973 làm “lá chắn”
cho các hành động quân sự thái quá của mình5. Điều này chứng tỏ rằng Mỹ và
NATO quyết tâm giành được mục tiêu là lật đổ chính quyền của tổng thống
Gadhafi – một chính quyền mà Mỹ và NATO đều không ưa gì.
Ví dụ trên cho chúng ta thấy được, các nước lớn như Mỹ, Anh, Pháp,..
lại chính là các cường quốc muốn “lách luật”. Đó cũng là lẽ thường tình bởi
vì họ có uy quyền, họ có sức mạnh áp đặt nên việc họ hành động bằng mọi
cách, thậm chí đi ngược lại với giá trị mà họ hướng tới, để có thể đạt được
mục tiêu của mình là hoàn toàn có thể hiểu được. Hậu quả là nhiều nước lo
ngại tiền lệ ở Libya có khả năng xảy ra với họ, đặc biệt là các nước không có
biện pháp chống đỡ hiệu quả. Từ tiền lệ này, nhiều nước có thể nghĩ cách dĩ
độc trị độc nhằm chống nước ngoài can thiệp, như vậy càng gây nhiều nguy
cơ cho chính trị quốc tế. Hành động can thiệp vào Libya cho thấy rõ, quốc tế
ngày càng áp dụng phổ biến chủ trương “nhân quyền cao hơn chủ quyền” đối
với các nước nhỏ, yếu, có nội chiến.
2.2. Ai giám sát luật chơi, Liệu Pacta Sunt Servanda có trở thành hiện
thực?
Một quốc gia dân tộc điều hành nhân dân thông qua việc xây dựng nên
luật pháp hay những nguyên tắc và áp dụng chúng vào thực tiễn đời sống. Bộ
máy chính quyền của quốc gia này sẽ là cơ quan giám sát việc thực thi những
nguyên tắc, luật lệ ấy. Mở rộng hơn ra với môi trường quốc tế, không chỉ là
những luật lệ điều chỉnh quan hệ xã hội giữa đối tượng là người với người
trong một quốc gia nữa mà đã nâng lên thành cấp độ mối quan hệ giữa các
quốc gia với nhau. Xã hội hoạt động dựa trên các nguyên tắc, luật pháp mà

quốc gia ban hành, cộng đồng các quốc gia trên thế giới cũng hoạt động dựa
trên những luật chơi đã được hình thành giữa họ. Nhưng nếu trong quốc gia,
bộ máy chính quyền là cơ quan giám sát việc thực hiện luật pháp thì mở rộng
hơn trong môi trường chính trị quốc tế ai hay cơ cấu, tổ chức nào sẽ giám sát
luật chơi? Và liệu rằng Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết
quốc tế - Pacta Sunt Servanda có trở thành hiện thực? Đó là những câu hỏi
khó có thể tìm ra được một câu trả lời phù hợp nhất.
2.2.1. Mỹ hay Liên Hợp Quốc có quyền giám sát?
Khi Hội Quốc Liên thành lập vào thế kỷ 19, người ta đã đạt niềm tin và
mong chờ tổ chức này sẽ là một tổ chức toàn cầu, đứng trên mọi quốc gia để
5

http: //quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/NATO-dung-ke-ho-Nghi-quyet-1973-lam-lachan/20115/145701.datviet

12


giữ gìn trật tự cũng như an ninh trên thế giới. Nhưng qua quá trình hoạt động
mờ nhạt cộng với những thay đổi chóng vánh của tình hình thế giới mà tiêu
biểu là Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra năm 1914, tổ chức này đã không
thể hiện được vai trò của mình và dẫn tới sự tan rã. Đến năm 1945, các quốc
gia trên thế giới mà đứng đầu là Mỹ lại một lần nữa thiết lập nên một tổ chức
quốc tế khác giống với Hội Quốc Liên nhưng có sự phát triển ở mức độ cao
hơn, đó là Liên Hợp Quốc. Đây là tổ chức ra đời với nỗ lực lấp đầy những
thiếu xót mà Hội Quốc Liên để lại. Hiện nay với 193 thành viên, bao gồm hầu
hết các quốc gia trên thế giới, Liên Hợp Quốc đã trở thành một tổ chức toàn
cầu được tất cả các nước giao cho nhiệm vụ đảm bảo hòa bình cho cả thế giới.
Liệu đây có phải là tổ chức chịu trách nhiệm giám sát luật chơi trong nền
chính trị quốc tế?
Khi đề cập đến Hội Quốc Liên hay giờ đây là Liên Hợp Quốc, người ta

không thể không nhắc đến vai trò của cường quốc số 1 thế giới là Mỹ. Có thể
nói với vai trò và vị thế to lớn của mình trên trường quốc tế, hiện nay Mỹ vẫn
là quốc gia chi phối chủ yếu đến các hoạt động của Liên Hợp Quốc. Vì lợi ích
quốc gia, Mỹ điều khiển Liên Hợp Quốc sao cho có lợi nhất cho mình (tuy
hiện nay vai trò và sự điều khiển của Mỹ đã giảm nhưng vẫn còn mạnh). Mỹ
là một nhân tố chủ chốt trong việc hình thành luật chơi và cũng đóng luôn vai
trò là người giám sát luật chơi ấy. Do đó khi đề cập đến vai trò giám sát của
Liên Hợp Quốc, người ta thường quy cho là vai trò giám sát của Mỹ. Bởi vậy,
Liên Hợp Quốc – một tổ chức được mong đợi đại diện cho lợi ích của tất cả
các quốc gia, đứng trên mọi quốc gia sẽ khó có thể thực hiện chức năng đúng
đắn của nó nếu như vẫn tồn tại sự chi phối mạnh mẽ của Mỹ (và các cường
quốc khác như Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp). Lật lại quá khứ, đã không ít lần
Mỹ sử dụng ảnh hưởng chi phối này để phục vụ cho mục đích của mình. Ví
dụ, nghị quyết 1718 hay sau này là nghị quyết 1874 do chính Mỹ đề xuất tại
Hội đồng Bảo an nhằm trừng phạt CHDCND Triều Tiên sau khi nước này
tiến hành hai vụ thử hạt nhân vào năm 2005 và năm 2009, hay các nghị quyết
của Hội đồng Bảo an nhằm can thiệp quân sự vào Iraq và Afghanistan mà Mỹ
cũng chính là quốc gia đề xuất và trực tiếp tham gia vào quá trình thực thi,
giám sát. Qua đó ta có thể thấy được trong nền chính trị quốc tế hiện nay vẫn
còn thiếu một cơ chế đứng trên tất cả các quốc gia, đại diện cho lợi ích của tất
cả các quốc gia và giám sát quá trình tham gia hoạt động quốc tế của tất cả
các quốc gia đó. Liên Hợp Quốc luôn được mong chờ sẽ trở thành một tổ
chức như vậy, nhưng sẽ là khó để Liên Hợp Quốc trở thành một tổ chức như

13


vậy nếu vẫn còn tồn tại sự chi phối phần lớn của Mỹ (cũng như các cường
quốc khác như Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp).
Vấn đề xác định xem ai hay tổ chức nào hiện đang giữ vai trò giám sát

luật chơi luôn là một vấn đề rất hóc búa. Liệu Mỹ hay Liên Hợp Quốc đang
đảm nhiệm vai trò này? Chính sự mập mờ trong việc xác định câu trả lời cho
câu hỏi ấy đang thực sự gây ra nhiều vấn đề khó khăn mang tính tiêu cực cao
trong quá trình áp dụng cũng như thi hành các luật chơi. Chúng ta có thể lấy
vấn đề trừng phạt của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ra làm ví dụ.
2.2.2. Trừng phạt hay không trừng phạt?
Khi một quốc gia vi phạm các nghĩa vụ quốc tế của mình sẽ bị Liên Hợp
Quốc lên án. Nếu sự lên án này không đủ mạnh để buộc quốc gia ấy tuân thủ
trở lại các nghĩa vụ quốc tế thì Liên Hợp Quốc sẽ dùng đến các biện pháp
trừng phạt. Vấn đề có trừng phạt hay không không phụ thuộc vào tất cả các
thành viên của Liên Hợp Quốc mà phụ thuộc vào 15 thành viên của Hội đồng
Bảo an, mà cụ thể là phụ thuộc phần lớn vào ý chí của 5 thành viên thường
trực là Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp. Điều 41, chương 7 Hiến chương
Liên Hợp Quốc quy định về các biện pháp trừng phạt như sau:
“Hội đồng Bảo an có thẩm quyền quyết định những biện pháp nào phải
được áp dụng mà không liên quan tới việc sử dụng vũ lực để thực hiện các
nghị quyết của Hội đồng, và có thể yêu cầu các thành viên của Liên Hiệp
Quốc áp dụng những biện pháp ấy. Các biện pháp này có thể là cắt đứt toàn
bộ hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển, hàng không, bưu
chính, điện tín, vô tuyến và các phương tiện liên lạc khác, kể cả việc cắt đứt
quan hệ ngoại giao”6
Thực tế thì Mỹ và các nước đồng minh thường là các quốc gia đưa ra
những đề xuất trừng phạt các quốc gia mà họ cảm thấy là những “cái gai
trong mắt” mình. Họ đã sử dụng tối đa biện pháp này để đạt được mục tiêu đề
ra. Chúng ta đã biết đến các nghị quyết 1718, 1878 trừng phạt CHDCND
Triều Tiên, nghị quyết 661 trừng phạt kinh tế lên Iraq, nghị quyết 1973 thiết
lập vùng cấm bay chống Libya…
2.2.3. Trừng phạt như thế nào và hiệu quả ra làm sao?
Việc quyết định thông qua một lệnh trừng phạt trong Hội đồng Bảo An
chưa bao giờ là dễ dàng và dường như quá trình này vẫn còn tiềm ẩn quá

nhiều những bất công và tiêu cực. Và đến khi lệnh trừng phạt đã được thông
qua rồi thì lại gặp rất nhiều vấn đề xung quanh việc trừng phạt như thế nào
6

/>
14


hay nói cách khác là thi hành lệnh trừng phạt này ra sao và hiệu quả của nó
như thế nào? Chúng ta quay lại ví dụ trên với nghị quyết 1718 của Hội đồng
Bảo an trừng phạt CHDCND Triều Tiên để thấy được các quốc gia đã thi
hành nghị quyết này như thế nào và hiệu quả của nó ra làm sao.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết 1718 Hội đồng Bảo an, nhiều nước
muốn giữ quan hệ kinh tế với CHDCND Triều Tiên. Các nước này đã cam kết
sẽ tuân thủ Nghị quyết 1718 của HĐBA LHQ, song bày tỏ mong muốn việc
này không ảnh hưởng lớn đến quan hệ kinh tế - thương mại của họ với
CHDCND Triều Tiên. Có thể điểm qua một số biện pháp thi hành của các
quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Với Hàn Quốc, ngay sau khi nghị quyết của Hội Đồng Bảo An được
thông qua, ngày 15/10/2006, nước này tuyên bố sẽ thi hành nghiêm túc các
biện pháp do Liên Hợp Quốc đề xướng. Tuy nhiên, trước đó, Seoul đã cho
biết, trong mọi tình huống sẽ không dẹp bỏ hai chương trình mang tính
thương mại, đang giúp cho Bình Nhưỡng một nguồn ngoại tệ đáng kể. Đó là
khu công nghiệp Kaesong và khu nghỉ mát tại núi Kim Cương.
Còn về Trung Quốc thì lên tiếng cảnh báo trước mọi hành động khiêu
khích, đặc biệt trong việc khám soát tàu thuyền ra vào Bắc Triều Tiên. Đây là
một biện pháp mà giới chuyên gia quốc tế cũng đánh giá có thể gây xung đột.
Vấn đề này trong thực tế vô cùng phức tạp. Nội dung vẫn còn gây tranh luận
liên quan đến phần của nghị quyết kêu gọi tất cả các nước thành viên Liên
Hợp Quốc, tiến hành thanh sát khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu từ Bắc

Triều Tiên. Theo các nhà phân tích, việc này đặt ra hai câu hỏi:
 Thứ nhất ai sẽ ngăn chặn các tàu thuyền trong hải phận xung quanh
Bắc Triều Tiên?
 Thứ hai là liệu các đoàn thủy thủ của Bắc Triều Tiên có bó tay chấp
nhận để cho người ngoài khám soát các con tàu của họ không?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, các chuyên gia tỏ ra hoài nghi về khả năng
Trung Quốc sẽ tiến hành việc kiểm soát các khối lượng hàng hoá xuất nhập
khẩu từ Bắc Triều Tiên. Như mọi người đều biết, Trung Quốc và Nga đã nỗ
lực vận động để Hội Đồng Bảo An ghi rõ vào văn bản Nghị quyết, điều 41
của chương 7 - Hiến chương Liên Hiệp Quốc, theo đó, các biện pháp đề ra
không được phép thực hiện bằng vũ lực. Bắc Kinh sẽ dựa trên cơ sở này để
tránh mọi hình thức cưỡng chế đối với Bình Nhưỡng. Và cuối cùng, Trung
Quốc đã khẳng định là sẽ không ngăn chặn hoặc truy đuổi tàu thuyền của
CHDCND Triều Tiên để khám xét. Cũng cần phải nhắc lại, Trung Quốc là

15


bạn hàng quan trọng nhất của Bắc Triều Tiên, đồng thời là quốc gia tài trợ
hàng đầu cho chế độ Kim Jong Il. Nếu các nguồn cung cấp lương thực và dầu
thô của Trung Quốc cho Bắc Triều Tiên bị cạn kiệt, thì chế độ này khó mà
đứng vững. Nhưng, việc hà hơi tiếp sức cho chế độ Bắc Triều Tiên trụ vững
lại là ưu tiên của Bắc Kinh. Trong trường hợp Bắc Triều Tiên sụp đổ, việc
này sẽ gây hỗn loạn tại các vùng biên giới của Trung Quốc với hàng triệu
người di tản. Không những vậy, kịch bản một bán đảo Triều Tiên thống nhất
sẽ bất lợi cho Trung Quốc, với sự hiện diện của quân đội Mỹ ngày càng sát
cạnh lãnh thổ nước này. Bấy nhiêu lý do đủ cho phép khẳng định: Trung
Quốc và Hàn Quốc có thể gây áp lực lên Kim Jong Il, nhưng thật khó để thấy
rằng hai quốc gia này thực sự thi hành các biện pháp trừng phạt Bình
Nhưỡng.

Đối với Nhật Bản, theo nhận xét của các nhà phân tích thì các biện pháp
trừng phạt của quốc gia này chỉ mang tính biểu tượng. Ngay sau khi Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc nhất trí thông qua nghị quyết 1718 trừng phạt Bắc
Triều Tiên về kinh tế và thương mại, thủ tướng Shinzo Abe cho biết là chính
phủ Nhật bản đang nghiên cứu tăng cường lệnh cấm vận nhằm vào chế độ
Bình Nhưỡng. Theo giới phân tích, các biện pháp nói trên, cho dù có được bổ
sung cũng chỉ giới hạn như là một tín hiệu mạnh, tỏ thái độ cứng rắn nhưng
không gây ra nhiều hậu quả đối với nền kinh tế của Bắc Triều Tiên. Tokyo áp
dụng lệnh phong toả toàn bộ trao đổi thương mại với Bình nhưỡng, công dân
Bắc Triều Tiên không được phép tới Nhật bản. Thế nhưng, quan hệ thương
mại giữa hai nước chỉ ở mức rất thấp. Mỗi năm, Nhật bản nhập khẩu có vài
tấn than, hải sản, nấm v.v. của Bắc Triều tiên. Theo số liệu của bộ ngoại giao
Nhật bản, trong năm 2004, kim ngạch thương mại song phương là 240 triệu
đô la, tức là thấp hơn 3 lần tổng giá trị thương mại giữa Tokyo và Seoul và
thấp hơn 6 lần trao đổi mậu dịch giữa Nhật bản và Trung quốc. Một lý thuyết
cơ bản khác hạn chế hiệu quả của lệnh cấm vận là Bình nhưỡng có quan hệ
chặt chẽ với Bắc kinh. Một số nhà quan sát coi Bắc Triều Tiên như là tỉnh thứ
24 của Trung quốc. Trong chuyến công du Bắc Triều tiên hồi tháng 10/2004
của chủ tịch Hồ Cẩm Đào, viện trợ tài chính và hợp đồng kinh tế được ký kết
giữa hai nước lên tới 3 tỷ đô la. Quan hệ thương mại với Trung Quốc chiếm
40% tổng giá trị ngoại thương của Bắc Triều Tiên, hơn một tỷ đô la trong
năm 2004. Trong khi đó, Bình Nhưỡng nhập một khối lượng lớn hàng điện tử,
máy công cụ, dầu lửa và ngũ cốc của Bắc Kinh. Hơn 80% sản phẩm tiêu dùng
của Bắc Triều Tiên được sản xuất từ Trung quốc. Ngoài ra, Trung quốc còn

16


tài trợ nhiều dự án hạ tầng cơ sở về đường bộ, đường sắt tại Bắc Triều Tiên,
nối liền giao thông giữa hai nước. Theo giới chuyên gia, cấm vận của quốc tế

chỉ có hiệu quả nếu Trung Quốc thực sự chấp hành. Chỉ cần Bắc kinh ngưng
cung cấp dầu lửa và các loại hàng hoá thì chế độ Bình Nhưỡng sẽ bị khốn đốn
ngay lập tức. Tuy nhiên, ít có khả năng Trung Quốc làm việc này, trong khi
đó, trao đổi mậu dịch tiểu ngạch vùng biên giới thì khó kiểm soát nhưng lại có
vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Bắc Triều Tiên. Theo giáo sư Lee
Yong-Hwa, đại học Kansai, Nhật bản, được AFP trích dẫn, thì các biện pháp
trừng phạt của Nhật Bản không gây ra những tổn hại đáng kể cho nền kinh tế
Bắc Triều Tiên. Điều quan trọng hơn cả là tác động chính trị của lệnh cấm
vận.
Về mặt đối ngoại, Nhật Bản muốn làm cho Trung Quốc hiểu rằng họ có
thái độ cứng rắn trong hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên vào lúc Bắc Kinh đang
tìm cách cải thiện quan hệ với Tokyo sau khi ông Shinzo Abe lên làm thủ
tướng. Sự kiện chính phủ Nhật bản nhanh chóng ban bố lệnh cấm vận đối với
Bắc Triều Tiên còn nhằm mục đích đối nội. Đây là dịp để tân thủ tướng
Shinzo Abe củng cố vị trí và uy tín của mình bởi vì đa số ngưòi dân Nhật bản
đánh giá cao lập trường cứng rắn của ông Shinzo Abe trong hồ sơ Bắc Triều
Tiên. Rõ ràng chúng ta có thể thấy được các biện pháp thực thi nghị quyết
trừng phạt của Trung Quôc, Hàn Quốc và Nhật Bản chỉ mang tính hình thức,
không đem lại bất kỳ một hiệu quả thiết thực nào do bị chi phối bởi lợi ích
quốc gia họ.
Ngoài ra cũng có nhiều các quốc gia khác nữa vẫn muốn duy trì quan hệ
với CHDCND Triều Tiên. Pakistan tuyên bố sẽ duy trì quan hệ bình thường
với Bình Nhưỡng trong những lĩnh vực không thuộc phạm vi trừng phạt,
trong khi Thái Lan cho rằng các biện pháp này sẽ không ảnh hưởng lớn tới
trao đổi thương mại giữa hai nước.
Hay chúng ta cũng có thể lấy một ví dụ nữa là nghị quyết 1874 của Hội
Đồng Bảo An trừng phạt Triều Tiên sau khi nước này tiến hành vụ thử hạt
nhân lần thứ hai vào năm 2009. Khi đánh giá về quá trình thực thi nghị quyết
cũng như hiệu quả của nó, giới phân tích cho rằng, các biện pháp trừng phạt
của Hội Đồng Bảo An hầu như không thể khiến Triều Tiên thay đổi cách

hành xử. Trái lại, chúng có thể kích động Bình Nhưỡng gây thêm căng thẳng
bằng các động thái quân sự, chẳng hạn như "tiến hành một vụ thử hạt nhân
khác và chế tạo thêm nhiều tên lửa". Và như vậy, khả năng thực thi Nghị

17


quyết 1874 đối với Triều Tiên là rất mong manh, không khác Nghị quyết
1718 là bao nhiêu.
Trong những thập kỷ gần đây, Triều Tiên đã kiếm được hàng tỷ USD từ
việc bán vũ khí cho các nước Đông Á và Trung Đông. Nghiên cứu năm 2009
của Viện Phân tích chính sách đối ngoại (Mỹ), ước tính mỗi năm Bình Nhưỡng
kiếm được khoảng 1,5 tỷ USD từ bán tên lửa. Marcus Noland, chuyên gia về
Triều Tiên của Viện Nghiên cứu Các Vấn đề Kinh tế Quốc tế Peterson có trụ sở
tại Washington, nêu rõ: Các biện pháp trừng phạt của HĐBA "không có tác động
rõ rệt" đối với hoạt động thương mại của Triều Tiên.
Mặc dù Triều Tiên liên tục thiếu lương thực, nhưng lại có nguồn tài
nguyên khoáng sản mà các nước công nghiệp thèm muốn. Theo ước tính của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc, tổng giá trị các nguồn tài
nguyên như than đá, sắt, uranium và magiê của Triều Tiên lên đến trên 2.000
tỷ USD. Đáng chú ý là trữ lượng magiê của nước này lớn nhất thế giới và rất
cần thiết cho việc sản xuất kim loại nhẹ để chế tạo máy bay và các thiết bị
điện. Trên cơ sở tăng trưởng thương mại gần đây giữa Triều Tiên với các đối
tác, đặc biệt với Trung Quốc, chắc chắn các đối tác này không muốn áp dụng
biện pháp cứng rắn để triệt hạ nền kinh tế Triều Tiên. Và như vậy, nghị quyết
1874 của Hội đồng Bảo an rất khó được thực thi một cách có hiệu quả7.
Tóm lại, vận dụng luật vẫn là vấn đề muôn thuở của luật pháp. Từ khâu
thực thi đến khâu giám sát đều gặp phải những vấn đề khó có thể giải quyết.
Chính bởi vậy hiệu quả đạt được từ việc áp dụng luật này vẫn còn rất hạn chế.
Và trước thực tế như thế tất cả các quốc gia trên thế giới đều được khuyến

khích tuân thủ nguyên tắc tận tâm thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế Pacta sunt servanda. Vậy liệu nguyên tắc này có trở thành sự thực? Không có
lợi ích quốc gia nào giống lợi ích quốc gia nào trong thế giới này cả, và chính
bởi vậy họ không thể tuân thủ một luật chơi mà đi ngược lại với lợi ích quốc
gia họ được. Sẽ chỉ có sự tậm tâm thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế của
một quốc gia nếu các cam kết ấy phục vụ cho lợi ích quốc gia họ. Và xuất
phát từ việc mỗi nước một ý, nước thực hiện nước không nên không tạo ra
được bất kỳ hiệu quả nào. Đó cũng là mặt hạn chế chung trong quá trình thực
hiện các luật chơi hiện nay.

7

/>o=684

18


3. Xung đột giữa các luật chơi
Trong hệ thống các luật chơi hiện nay không thể nói rằng không xảy ra
sự xung đột giữa bất kỳ luật chơi nào. Sỡ dĩ xảy ra điều này là vì tình hình
nền chính trị quốc tế luôn luôn thay đổi, nhiều luật chơi được các nước lớn
hình thành nên trong giai đoạn trước kia không thể được dùng để điều chỉnh
quan hệ quốc tế trong một môi trường chính trị mới. Đôi khi cũng xảy ra
trường hợp các nước lớn vì quá ham muốn đạt được lợi ích quốc gia mình đã
tạo ra những luật chơi thậm chí đi hoàn toàn ngược lại với các nguyên tắc đã
được thừa nhận trước đó. Có thể nói đây là thực tế ngày càng phổ biến hiện
nay và có thể sẽ xuất hiện ngày càng nhiều sự xung đột giữa các luật chơi
trong tương lai. Chúng ta có thể lấy một ví dụ để hiểu được mặt hạn chế này
của các luật chơi. Đó là hai nguyên tắc: Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe
dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế và nguyên tắc cho phép sử dụng các
biện pháp can thiệp quân sự của Hội đồng bảo an được quy định tại điều 42

Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế là nguyên tắc trung tâm của các nguyên tắc cơ bản Luật quốc tế.
Trong quan hệ quốc tế nếu một chủ thể của Luật quốc tế có hành vi đe dọa
hoặc sử dụng vũ lực trái pháp luật quốc tế sẽ bị coi là xâm phạm tất cả các
nguyên tắc còn lại của hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc này được
đưa vào Hiến chương Liên Hợp Quốc tại khoản 4 điều 2 và Tuyên bố
24/10/1970. Nguyên tắc này gồm các nội dung cơ bản sau:

Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực chống lại sự toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia khác kể cả giới tuyến ngừng bắn.

Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực chống lại nền độc
lập chính trị của quốc gia khác.

Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực để giải quyết các
tranh chấp quốc tế

Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực để xâm lược quốc
gia khác.

Cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực để ngăn cản các
dân tộc thực hiện quyền dân tộc tự quyết của mình.

Cấm khuyến khích, tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào các
cuộc nội chiến hay các hành vi khủng bố tại các quốc gia khác.

Cấm tổ chức hoặc giúp đỡ các băng đảng vũ trang, nhóm vũ trang,
lính đánh thuê đột nhập vào phá hoại lãnh thổ quốc gia khác.


19



Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược.
Trong khi đó, điều 42 Hiến chương Liên Hợp Quốc lại quy định rằng
trong trường hợp có hành vi xâm lược hoặc phá hoại hoà bình và an ninh quốc
tế đã được Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc áp dụng các biện pháp phi vũ
trang nhưng Hội Đồng Bảo An nhận thấy những biện pháp này là “ không
thích hợp hoặc tỏ ra là không thích hợp thì Hội Đồng Bảo An có quyền áp
dụng mọi hành động của hải, lục, không quân mà Hội Đồng Bảo An xét thấy
cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Những
hành động này có thể là các cuộc biểu dương lực lượng, phong toả và những
cuộc hành quân khác do các lực lượng hải, lục, không quân của các quốc gia
thành viên Liên Hợp Quốc thực hiện”8.
Rõ ràng khi đọc hai nguyên tắc trên chúng ta thấy chúng có sự xung đột:
một nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa dùng vũ lực, một nguyên tắc lại cho
phép các quốc gia được sử dụng (trong những trường hợp đặc biệt) mặc dù cả
hai nguyên tắc này được quy định trong cùng một hiến chương là Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Sự xung đột này khiến quá trình các quốc gia tuân
thủ thực thi những luật chơi này gặp phải nhiều bất cập. Nước sử dụng vũ lực
luôn viện vào điều 42 để làm cơ sở pháp lý cho hành động sử dụng vũ lực của
mình, trong khi đó các nước bị áp đặt vũ lực thì kêu gào lên án hành động của
các nước kia đã vi phạm khoản 4 điều 2. Và phần thắng luôn thuộc về phía
các nước lớn đi áp đặt vũ lực. Chiến tranh Iraq năm 2003 là một ví dụ. Mỹ đã
viện vào lý do quốc gia này có sở hữu vũ khí hạt nhân và vi phạm nhân quyền
để hối thúc Hội Đồng Bảo An thông qua nghị quyết cho phép Mỹ và các đồng
minh can thiệp quân sự vào Iraq. Rõ ràng các lý do mà Mỹ đưa ra đều không
có cơ sở chính đáng và bởi vậy hành động can thiệp quân sự của Mỹ và các
đồng minh là trái với các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Hay

cuộc chiến Libya vừa mới diễn ra gần đây, Mỹ và các đồng minh cũng vận
động Hội Đồng Bảo An thông qua nghị quyết can thiệp quân sự vào Libya với
lý do để bảo vệ thường dân trước những cuộc tấn công quân sự của quân đội
chính phủ do tổng thống Gadhafi lãnh đạo. Và thực tế đã chứng minh rằng
việc bảo vệ thường dân Libya chỉ là cái cớ còn mục đích chính là liên quân là
mục đích chính trị nhằm lật đổ chính quyền của tổng thống Gadhafi. Do đó
hành động can thiệp quân sự này cũng vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực được quy định trong Hiến chương Liên Hợp
Quốc. Qua đó chúng ta có thể thấy được, hiện nay quốc tế đang ngày càng áp
8

/>
20


dụng phổ biến chủ trương “nhân quyền cao hơn chủ quyền” đối với các nước
nhỏ, yếu, có nội chiến, mặc dù các nước lớn biết rằng dùng lý do ấy để biện
minh cho hành động can thiệp quân sự của mình là hoàn toàn xung đột với
các nguyên tắc khác đã được quy định trong Luật quốc tế.

21


KẾT LUẬN
1. “Tính hoang dại” của Luật chơi hiện nay: Luật chơi hay “Luật rừng”?
Người ta mong chờ rằng chiến tranh lạnh kết thúc sẽ mở ra một thời kỳ
hòa bình mới cho toàn thế giới, con người sẽ sống với nhau hòa thuận hơn,
các quốc gia sẽ bớt đi những “cãi vã” và tranh chấp. Quả thực sau chiến tranh
lạnh, xu thế hợp tác hòa bình ngày càng phát triển và trở thành xu thế chủ đạo
của quan hệ quốc tế. Nhiều người ngỡ tưởng rằng thời kỳ hòa bình của thế

giới chính là đây. Nhưng họ đâu có biết rằng tại khu vực này hay khu vực
khác trên thế giới vẫn còn đó cảnh người đàn áp người, quốc gia này áp đặt
quốc gia khác, các xung đột khu vực vẫn tồn tại thậm chí còn phát triển lên
mức độ phức tạp hơn nhiều. Vậy thử hỏi hòa bình ở đâu? Sẽ chẳng có hòa
bình nếu không có sự bình đẳng, sự bình đẳng về cuộc sống của con người
cũng như sự bình đẳng giữa các quốc gia. Sự bình đẳng chỉ có thể đạt được
khi các quốc gia biết tuân thủ những luật chơi chung có lợi cho tất cả, biết
khắc phục những mặt hạn chế của nó. Với những hạn chế còn tồn tại, hệ
thống luật chơi hiện nay đang thể hiện “tính hoang dại” từ chính trong bản
chất.
Cồng đồng quốc tế giờ đây liệu có khác gì so với thế giới “xã hội đen”
mà những cá nhân trong xã hội ấy cư xử với nhau bằng “Luật rừng”. Mà đã
nói đến “Luật rừng” thì không thể không nhắc đến những sự bất công, sự phi
lý. Trong cái “xã hội đen” ấy kẻ mạnh thì thắng, kẻ yếu thì thua, kẻ mạnh nắm
giữ quyền quyết định tất cả còn kẻ yếu chỉ là những “con tôm con tép” để kẻ
mạnh thống trị và dẫm đạp. Trong cái xã hội mà mệnh ai người đấy sống ấy
chứa đựng đầy rẫy những sự bất công, phi lý, con người ta sống với nguyên
tắc “thắng làm vua, thua làm giặc”, “mạnh thì sống, yếu thì chết”, bởi vậy nếu
muốn tiếp tục tồn tại thì cách duy nhất mà họ có thể làm là tự cứu lấy mình.
Đó là hiện thân của một xã hội đen tối, sống với những bản năng mang đầy
“tính hoang dại”.
Còn nền chính trị quốc tế hiện nay thì sao? Nó chẳng khác gì so với cái “xã
hội đen” kia và luật chơi của nó cũng chẳng khác gì so với cái “luật rừng” kia.
Xã hội quốc tế hiện nay là sự tương tác giữa các chủ thể trong đó có các nước
lớn và những nước nhỏ. Các nước lớn luôn là những người thiết lập nên các luật
chơi và các nước nhỏ luôn là những đối tượng bị áp đặt tuân thủ các luật chơi ấy.
Nếu các nước nhỏ này không tuân thủ đúng luật chơi hay tỏ ra có bất kỳ dấu
hiệu nào về việc sai phạm thì các nước lớn lập tức sẽ tìm cách trừng phạt để lập

22



lại trật tự. Dẫu biết rằng luật chơi ấy là đầy bất công, dẫu biết rằng thực hiện luật
chơi ấy tức là đi ngược lại với chính lợi ích quốc gia mình nhưng các nước nhỏ
vẫn phải thực hiện mà không có bất cứ lựa chọn nào khác.
Trước thực trạng vô chính phủ của quan hệ quốc tế cộng với một hệ
thống luật chơi như vậy, các nước nhỏ phải tìm cách thích nghi, sao cho có
thể hạn chế được thấp nhất những thiệt hại cũng như phiền toái. Các nhà hiện
thực chủ nghĩa quan niệm rằng trong quan hệ quốc tế, do thiếu vắng một
chính quyền tối cao nắm độc quyền về cưỡng chế hợp pháp, nên “tự cứu lấy
mình”9 là nguyên tắc hành xử căn bản của quốc gia trên trường quốc tế. Và
thực sự điều này còn đúng hơn rất nhiều khi áp dụng đối với các nước nhỏ.
Có lẽ “luật chơi” của nền chính trị quốc tế hiện nay và “luật rừng” trong
xã hội đen chỉ khác nhau trong cái tên gọi ở chữ “chơi”và chữ “rừng”, còn về
bản chất thì không khác nhau là mấy, vẫn mang nặng “tính hoang dại”.
2. Liệu có giải pháp nào để loại bớt và tiến tới loại bỏ hẳn “tính hoang
dại” của các luật chơi hiện nay?
2.1. Giải pháp
Vậy giải pháp mà chúng ta có thể thực hiện để khắc phục những mặt hạn
chế của các luật chơi trong nền chính trị quốc tế là gì? Từ đó tiến tới việc loại
bỏ hẳn “tính hoang dại” trong bản chất của các luật chơi này. Và liệu hiệu quả
của những giải pháp này sẽ được thể hiện ra sao? Việc đưa ra giải pháp cho
một vấn đề vốn đã khó khăn, đặc biệt đây lại là một vấn đề lớn liên quan đến
chính trị quốc tế, công việc tìm ra các giải pháp càng khó khăn hơn.
Để khắc phục mặt hạn chế trong quá trình hình thành các luật chơi,
chúng ta phải tạo ra được một sự cân bằng quyền lực trên thực tế giữa các
quốc gia, phá bỏ tiền lệ như hiện nay về sự chi phối chủ yếu của các nước lớn.
Để làm được điều đó, không còn cách nào khác là phải dần hạ thấp vai trò
cũng như tầm ảnh hưởng của các nước lớn và nâng dần tầm ảnh hưởng cũng
như vai trò của các nước nhỏ, từ đó mới có thể tiến đến một quyết định của tất

cả, đại diện cho lợi ích của tất cả. Để làm được điều này, các nước nhỏ phải
không ngừng gia tăng sức mạnh quốc gia mình mà trước hết là sức mạnh kinh
tế. Từ đó, tăng cường tham gia vào việc giải quyết các công việc quốc tế,
nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của mình. phải chăng chúng ta đang hướng
tới ý tưởng về một thế giới “đại đồng”? Trong thế giới ấy, con người với nhau
chung sống một cách hòa thuận, không có xung đột, không có những cảnh
9

“Quan điểm chủ nghĩa hiện thực về quan hệ quốc tế”, Vũ Thế Hiệp, Học Viện Ngoại Giao Việt Nam

23


×