Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một số chủ trương của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.3 KB, 32 trang )

Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một số chủ trương của Hội
nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XI
7/16/2014 3:59:43 PM

Để phục vụ việc học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI ở các địa
phương, đơn vị, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cung cấp Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết
và một số chủ trương của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên) do
Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn. Xin trân trọng giới thiệu tài liệu đến các
đồng chí.

Chuyên đề 1
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
ĐẤT NƯỚC
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và quá trình tổng kết 15 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa


Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời là sự kế thừa và phát triển đường lối, quan điểm văn hóa của Đảng, được
thể hiện trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo nêu bật ba tính chất
cơ bản của văn hóa Việt Nam là dân tộc, khoa học, đại chúng; được bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh và nghị
quyết của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội VIII, các nghị quyết chuyên đề về văn hóa của Ban Chấp hành Trung ương
trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội. Nghị quyết nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nhất là luận điểm nổi tiếng “Văn
hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Nghị quyết ra đời trong bối cảnh Đảng ta chủ động đổi mới tư duy, thoát dần tư
tưởng giáo điều, bao cấp, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa;
thể hiện bước chuyển quan trọng về tư duy lý luận, năng lực đúc kết thực tiễn những năm đầu đổi mới. Nghị quyết
có tầm nhìn sâu rộng, chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng, nhân văn và khoa học. Các quan điểm trong Nghị quyết
thực sự đổi mới, có giá trị chỉ đạo cao trong thực tiễn, được nhân dân đón đợi và đồng tình thực hiện. Nghị quyết đề


ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát triển di sản quý báu của văn hóa dân tộc, tích cực mở
rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; góp phần hình thành hệ giá trị
chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sản phẩm lai căng, độc hại, sự xuống
cấp về đạo đức, lối sống.
Trong những năm đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính
trị - xã hội đã tiến hành nghiêm túc việc học tập, quán triệt Nghị quyết; coi trọng công tác tuyên truyền; xây dựng
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, tạo khí thế sôi nổi. Nội dung xây dựng, phát triển nền văn hóa được
đưa vào và nhấn mạnh trong chương trình công tác của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp; được kiểm điểm
hằng năm, từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng.
15 năm qua, Trung ương đã sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Hội nghị Trung ương 10
khóa IX ban hành Kết luận tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5. Ban Bí thư khóa IX ban hành Chỉ thị 42CT/TW ngày 25-8-2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản, Chỉ thị 49-CT/TW ngày 21-2-2005
về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21-8-2007… Bộ Chính trị
khóa X ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 về văn hóa, nghệ thuật; Kết luận 51-KL/TW ngày 22-72009 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-1-1998 của Bộ chính trị khóa VIII về cưới, tang, lễ hội. Ban
Bí thư khóa X ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 về chống sản phẩm văn hóa độc hại; Quy định số 284QĐ/TW ngày 5-2-2010 về tiêu chuẩn, cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn học,
nghệ thuật… Sau khi Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được ban hành, Quốc hội thông qua một số luật về văn hóa
(Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo…), Chính phủ xây dựng chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết và ra nhiều văn bản chỉ đạo, quản lý, tổng kết 10 năm phong trào “Toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa”…
Căn cứ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền ban
hành các văn bản chỉ đạo, quản lý; tiến hành kiểm điểm, sơ kết, tổng kết; đề ra chủ trương, giải pháp mới tổ chức
thực hiện Nghị quyết. Trong nhiệm kỳ khóa X, Đảng ta phát động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện Cuộc
vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Bước sang nhiệm kỳ khóa XI, Bộ Chính trị ban
hành Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 về tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Ban Thường vụ cấp ủy Đảng các cấp đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI,
góp phần làm cho tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa thấm sâu vào cuộc sống. Ban Chấp hành
Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu khắc
phục, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên.
Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 7-2-2012, Ban Bí thư giao Ban
Tuyên giáo Trung ương chuẩn bị báo cáo: “Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Ban Tuyên giáo Trung ương đã hướng
dẫn các cấp tổng kết, bám sát nội dung nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII để kiểm điểm; kết hợp đánh giá
việc thực hiện một số nghị quyết, chỉ thị của Trung ương liên quan đến văn hóa. Tháng 11-2012, Ban Bí thư thành
lập Ban chỉ đạo xây dựng Báo cáo tổng kết. Ban chỉ đạo đã tổ chức nhiều đợt khảo sát, dự hội nghị tổng kết ở
ngành, đoàn thể, địa phương. Các tỉnh, thành ủy chỉ đạo tổng kết điểm ở cấp huyện. Đến tháng 6-2013, các ngành,
đoàn thể và 63 tỉnh thành đã tổ chức xong việc tổng kết 15 năm thực hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII.
Nhìn chung việc tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được triển khai nghiêm túc. Phần lớn các báo cáo tổng
kết đã bám sát 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn nêu trong Nghị quyết, với tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật, không né tránh yếu kém, khuyết điểm, đưa ra các giải lớn khắc phục và định hướng phát triển văn hóa
trong thời gian tới. Nhiều kinh nghiệm hay, mô hình tốt trong hoạt động văn hóa được đúc kết và nhân rộng. Việc
biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có nhiều nổ lực và thành tích đã động viên, cổ vũ cán bộ, nhân dân
phát huy tích cực, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ văn hóa trong thời gian tới. 75 cơ quan trung ương và địa phương
gửi báo cáo về Ban Chỉ đạo. Căn cứ báo cáo của các đơn vị, Ban Chỉ đạo đã xây dựng dự thảo Báo cáo tổng kết, tổ
chức hơn 30 cuộc tọa đàm với các cơ quan, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học để lấy ý kiến đóng góp, gửi


lấy ý kiến của các ban, ngành, địa phương (có 15 cơ quan Trung ương, 37 địa phương góp ý) để tiếp tục hoàn chỉnh
phục vụ Hội nghị toàn quốc việc tổng kết 15 năm thực hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII do Ban Bí thư tổ
chức (tháng 1-2014). Sau Hội nghị toàn quốc, Ban Chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện Báo cáo, gửi lấy ý kiến các ban,
ngành, đoàn thể, địa phương lần thứ hai. Đến ngày 26-3-2014, có 19 cơ quan ở Trung ương và 41 tỉnh ủy, thành ủy
đã gửi văn bản góp ý để hoàn chỉnh Báo cáo. Ngày 27-3-2014, Bộ Chính trị đã họp, nghe Ban Chỉ đạo báo cáo và
cho ý kiến hoàn chỉnh Báo cáo trình Ban chấp hành Trung ương.
Các ý kiến đóng góp của các cơ quan Trung ương, địa phương, của Hội nghị toàn quốc và ý kiến của Bộ Chính trị
nhất trí với nội dung Báo cáo và thống nhất cao kiến nghị của Ban Chấp hành Trung ương ban hành nghị quyết mới
về văn hóa.
Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014), qua thảo luận tại tổ và hội trường, các đồng chí Trung ương có
147 lượt ý kiến góp ý Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa. Đa số
ý kiến cho rằng, báo cáo được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, đầy đủ, hệ thống, toàn diện, khách quan, cung cấp
nhiều thông tin, số liệu có sức thuyết phục. Trung ương đã nhất trí cao việc ban hành nghị quyết mới về văn hóa.
Ngày 9-6-2014, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa đất nước.
2. Sự cần thiết ban hành Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, bằng ý chí và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và nổ
lực, tự giác của các tầng lớp nhân dân, các lĩnh vực văn hóa của nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Trên
cơ sở đánh giá 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã
nhất trí cao về việc cần thiết ban hành nghị quyết mới với những lý do sau:
- 15 năm qua, tình hình đất nước ta và thế giới có nhiều thay đổi. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa đã
ban hành khi nước ta mới bước vào kinh tế thị trường giai đoạn đầu, chưa thấy hết mặt trái của cơ chế thị trường, có
nhiều vấn đề phát sinh mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII chưa đề cập. Vì vậy, cần bổ sung và sắp xếp, hoàn
thiện các chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp cho phù hợp.
- Nước ta đang hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa và sự bùng nổ các phương tiện truyền
thông, nhất là mạng internet, đã tác động to lớn, sâu sắc trên đến nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có những quan điểm
chỉ đạo và chủ trương, giải pháp mới về xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người.
- Cùng với sự phát triển nhiều mặt của đất nước, bên cạnh ưu điểm, thành tựu rất cơ bản, thực trạng văn hóa nước
ta cũng xuất hiện một số mặt phức tạp, bức xúc, đang suy thoái rất nghiêm trọng, nhất là về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; sự xâm nhập các sản phẩm, dịch vụ độc hại, tác động đến nhiệm vụ xây dựng con người, cần được
bổ sung về mặt lý luận và đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị để
khắc phục.
- Nước ta đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng phát triển hợp lý chiều rộng và chiều
sâu; quá trình đó liên quan mật thiết đến đổi mới tư duy, cách làm và huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực cho
sự nghiệp văn hóa.
- Yêu cầu phát triển đất nước bền vững trong những năm tới cũng đặt ra vấn đề mới về văn hóa, nhất là phải có
nhận thức mới về vai trò của văn hóa trong phát triển.
Do vậy, việc tổng kết đánh giá một chặng đường thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII là xuất phát từ yêu
cầu khách quan, qua tổng kết thực tiễn nhằm “làm mới” nhận thức, từ đó chủ động, tích cực, trên tinh thần đổi mới,
sáng tạo, đề xuất, bổ sung các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiến tiến, đậm dà bản sắc văn hóa dân tộc trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Tên gọi của Nghị quyết mới là “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”. Tên gọi như vậy vừa kế thừa được nội hàm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, vừa nêu được
vấn đề mới mà Trung ương đặc biệt quan tâm – nhân tố con người và sự phát triển bền vững đất nước. Như đã biết,


nói về văn hóa cũng nói về con người, vì văn hóa là của con người, do con người, vì con người. Tuy nhiên, trong
thực tế, không ít trường hợp đã hiểu sai lệch, coi văn hóa là những công việc, những hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa (như múa hát, biểu diễn, lễ hội…), không tập trung cho mục tiêu trọng tâm, cốt lõi là xây dựng con người. Chính
vì vậy, trong Nghị quyết Trung ương lần này có thêm một quan điểm khẳng định vấn đề trọng tâm, cốt lõi của xây
dựng văn hóa là xây dựng con người. Thêm từ “Con người” vào tên Nghị quyết để nhấn mạnh, khẳng định. Để tổ
chức thực hiện đưa nội dung nghị quyết vào cuộc sống, Trung ương yêu cầu:
- Các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức việc học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết.
- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hệ thống pháp luật về văn hóa, tạo cơ sở pháp
lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.
- Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản dưới luật; thường xuyên
theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với yêu cầu
thực tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc
Trung tổ chức quán triệt, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết
quả thực hiện Nghị quyết.
II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 KHÓA VIII VỀ VĂN HÓA
1. Ưu điểm, kết quả
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có
chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng.
Tư duy về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng
lên. Nhiều vấn đề văn hóa được nhìn nhận sâu hơn. Nhiệm vụ xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
được đặt trong mối tương quan với các nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng Đảng.
Vai trò của văn hóa ngày càng được thể hiện rõ hơn trong cuộc sống xã hội, trong việc xây dựng con người, sức
sống, nhiều giá trị bền vững của văn hóa dân tộc được phát huy trong thời kỳ đổi mới. Văn hóa là một nội dung quan
trọng trong hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, được quan tâm hơn về

chủ trương, chính sách, nguồn lực và từng bước có sự gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị. Từ năm 1998 đến 2013, có 6 nghị quyết, 14 chỉ
thị, 9 kết luận, thông báo, quy định của Đảng; 12 luật, 3 pháp lệnh của Quốc hội; 95 nghị định, nghị quyết của Chính
phủ; 113 chỉ thị, quyết định của Thủ Tướng; 169 thông tư; 292 chỉ thị, quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch liên quan trực tiếp đến văn hóa. Nhìn chung, kiến thức, tư duy về văn hóa có bước phát triển. Nhận thức về vấn
đề xã hội hóa hoạt động văn hóa có bước tiến bộ rõ so với trước. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đã coi trọng hơn
các giá trị văn hóa.
Dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội được mở rộng; dân trí được nâng lên; quyền con người được tôn trọng.
Nhà nước quan tâm hơn đến an sinh, công bằng xã hội trên một số lĩnh vực. Con người Việt Nam năng động, sáng
tạo hơn. Người dân có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Đại đoàn kết dân tộc, tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân và các chủ thể văn hóa được phát huy, tạo
sức mạnh nội sinh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Đạo đức xã hội được nhìn nhận, đánh giá trên nhiều bình
diện mới: Khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng, tôn trọng pháp luật, quy ước của cộng đồng dân cư… Xuất hiện
nhiều tấm gương đạo đức tốt đẹp, sống lương thiện, đề cao trách nhiệm, lương tâm vì lợi ích của cộng đồng, xã hội,
đất nước, mạnh dạn đấu tranh phê phán cái xấu, cái ác, cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Lối sống phù hợp với tuần
phong, mỹ tục nhưng phải đáp ứng với nhịp sống công nghiệp và hội nhập quốc tế. Những tiêu chí đánh giá về đạo
đức xã hội đã có một số thay đổi theo hướng phù hợp với kinh tế thị trưởng, mở cửa và hội nhập.
Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú. Môi trường văn hóa đạt được một số tiến bộ. Việc xây dựng
gia đình, làng, bản, khu phố, công sở, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại được quan tâm hơn. Đời sống văn hóa miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa có


mặt được cải thiện. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang được nhân dân đồng tình, có một số tiến
bộ. Xuất hiện một số lễ hội mới: Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18-11 hằng năm) ở khu dân cư và Hội Nghệ
nhân dân gian ở miền núi phía Bắc… Cuộc vận động xây dựng những quỹ tình nghĩa, quỹ vì người nghèo, chăm sóc
thương binh liệt sĩ, người có công, nạn nhân chất độc da cam… đã khơi dậy tinh thần đonà kết và nét đẹp văn hóa ở
mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Có sự gắn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở với Chương trình quốc gia xây dựng
nông thôn mới và công tác giữ gìn an ninh, trật tự, cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn.
Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa

gia đình, dòng họ, cộng đồng… Chính phủ tổ chức Ban chỉ đạo Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” ở các cấp, kịp thời chỉ đạo, ban hành cơ chế, chính sách thúc đảy phong trào phát triển rộng khắp, đã cổ
vũ, huy động được sức dân chăm lo xây dựng đời sống văn hóa tại cơ sở. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” và cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa” đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ, xuất hiện
những điểm sáng văn hóa ở cơ sở (huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu…). Có sự
chuyển biến trong việc đề cao giá trị gia đình trong giáo dục nhân cách. Nhà nước lấy ngày 28-6 hằng năm là Ngày
Gia đình Việt Nam. Các phong trào xây dựng con người mới với các chuẩn mực cụ thể của từng ngành, từng địa
phương được triển khai, cụ thể hóa năm đức tính cơ bản của con người Việt Nam nêu trong Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII thành những chuẩn mực, đặc trưng phù hợp với từng ngành, từng địa phương. Biểu dương nhiều gương
người tốt, việc tốt. Đến tháng 12-2012, cả nước có 70,8% gia đình được công nhận gia đình văn hóa; trên 1,3 triệu
“người tốt, việc tốt” được suy tôn ở các cấp, 67,1% làng, bản, ấp văn hóa, tổ dân phố văn hóa được công nhận;
57,9% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 61% khu dân cư đạt chuẩn danh hiệu khu dân cư văn hóa.
Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, nhân đạo, từ thiện… được đẩy mạnh, tạo sự gắn kết cộng
đồng, tăng cường nội lực tinh thần của xã hội. 12 năm (từ năm 1996 đến ngày 31-12-2012), cả nước vận động được
8.568,3 tỷ đồng vào Quỹ vì người nghèo ở bốn cấp.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn
hóa. Hoạt động văn hóa đã khai thác tốt hơn nguồn lực xã hội, từng bước đáp ứng yêu cầu sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của người dân. Vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng các dân tộc và công đồng dân cư
từng bước được khơi dậy. Các thiết chế văn hóa được xây dựng, bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng loại
hình, sở hữu. Đến ngày 1-1-2013, 100% đơn vị cấp tỉnh, 78,2% đơn vị cấp huyện, 44,8% đơn vị cấp xã, 46% làng,
bản, tổ dân phố trong cả nước xây dựng được thiết chế nhà văn hóa.
Văn học, nghệ thuật tiếp tục phát triển, với dòng mạch chính là yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, phản ánh
chân thực cuộc sống; có nhiều tìm tòi về đề tài, phương pháp sáng tác, hình thức diễn đạt. Quyền tự do sáng tạo
của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng, tăng đáng
kể về số lượng và bước đầu có chuyển biến về chât lượng; có một số tác phẩm, công trình có giá trị phản ánh lịch
sử dân tộc và các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Nhiều tư liệu quý trong văn hóa truyền thống được sưu tầm, tư
liệu hóa. Ý thức chính trị, trách nhiệm công dân của phần đông văn nghệ sĩ được phát huy. Tiếng nói phản biện xã
hội của văn học, nghệ thuật có một số mặt mạnh mẽ hơn trước, phát hiện, cảnh báo, phê phán cái xấu, cái ác, góp
phần xây dựng nhân cách, đề caophẩm giá con người. Từ năm 1996 đến năm 2012, qua bốn đợt xét có 102 tác
phẩm, công trình văn học nghệ thuật đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh; qua ba đợt xét có 458 tác phẩm, công trình văn

học, nghệ thuật đạt Giải thưởng Nhà nước. Từ năm 1984 đến năm 2012, qua bảy đợt xét có 266 nghệ sĩ nhân dân,
1.934 nghệ sĩ ưu tú được Nhà nước phong tặng. Đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước
phát triển, xuất hiện nhiều văn nghệ sĩ trẻ ở nhiều loại hình. Theo báo cáo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến
cuối năm 2011, tổng số nhân lực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trên toàn quốc là 505.393 người. Cả nước
có gần 4 vạn nghệ sĩ là hội viên các hội văn học nghệ thuật ở Trung ương và địa phương, trong đó trên 1,4 vạn hội
viên các hội ở Trung ương. Bước đầu đã hình thành thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, nghệ thuật. Phong trào
văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Cuộc đấu tranh phản bác
các luận điểm, luận điệu sai trái trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được coi trọng hơn. Giao lưu, hợp tác quốc tế về
văn học, nghệ thuật được mở rộng, tổ chức nhiều sự kiện văn học, nghệ thuật có tính quốc tế. Công bố, quảng bá
được nhiều công trình, tác phẩm tiêu biểu của văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu khá nhanh giá trị văn hóa, văn
học, nghệ thuật thế giới vào Việt Nam.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước phát triển; trình độ học vấn, kỹ thuật, công nghệ của nhân dân,
nhất là giới trẻ, được nâng lên; nâng cao dân trí, phát triên nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng văn hóa và con người Việt Nam trước yêu cầu mới. Có chuyển biến bước đầu trong việc xây dựng xã hội
học tập và giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa. Xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ, từng bước đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh, đạt tỷ lệ 20% GDP.
Huy động được nguồn lực trong xã hội thông qua xã hội hóa đầu tư cho giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 40%, góp phần
quan trọng đưa đất nước ta thoát khỏi nước nghèo. Hình thành hệ thống các trường văn hóa nghệ thuật từ Trung
ương đến địa phương; có một số cố gắng trong đào tạo sau đại học để tạo nguồn lực có trình độ cao. Đưa nội dung


chỉ đạo, quản lý văn hóa vào chương trình đào tạo trong các trường chính trị.
Khoa học xã hội và nhân văn quan tâm đi sâu nghiên cứu những vấn đề, lý luận và thực tiễn của đất nước, góp phần
cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp
phần khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị
và bản sắc văn hóa Việt Nam… Khoa học kỹ thuật, công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng xuất,
chất lượng sản phẩm, đưa một số ngành công nghiệp phát triển nhanh (viễn thông, giống mới trong nông nghiệp, kỹ
thuật mới trong y học…) tiếp cận trình độ khu vực và thế giới.
Công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ, nội dung phong phú, cơ sở vật chất,

kỹ thuật, công nghệ không ngừng được hiện đại hóa, tận dụng được công nghệ mới. Tính đến tháng 12-2013, cả
nước có 199 cơ quan báo, 639 tạp chí, 4 đài phát thanh truyền hình trung ương, 67 đài phát thanh truyền hình địa
phương, với tổng 198 kênh truyền hình, 64 nhà xuất bản. Đội ngũ nhà báo tăng đáng kể về số lượng với gần 17.000
người hoạt động báo chí được cấp Thẻ Nhà báo. Phần lớn các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích,
định hướng chính trị, phản ánh nhanh nhạy, sinh động công cuộc đổi mới đất nước, góp phần mở rộng dân chủ,
nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Từ một nước thiếu sách, Việt Nam đã xây dựng được nền
xuất bản độc lập và tự chủ, đáp ứng cơ bản nhu cầu đọc trong nước và bước đầu xuất khẩu ra nước ngoài. Coi
trọng thông tin đối ngoại, hướng tới kiều bào ta ở nước ngoài và nhân dân thế giới, góp phần quảng bá hình ảnh đất
nước và con người Việt Nam ta thế giới. Người dân có nhiều cơ hội lựa chọn, tiếp nhận thông tin, tri thức (năm
2012, tỷ lệ hộ gia đình được nghe đài phát thanh là 99,5%, được xem đài truyền hình là 99,5%, số người sử dụng
mạng internet đạt 35% dân số, đạt 3,4 đầu sách/người/năm), qua đó góp phần rút ngắn khoảng cách hưởng thụ văn
hóa giữa các vùng miền…Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo. Nhiều giá trị văn hóa
truyền thống được giữ gìn, phát huy, kết hợp với văn hóa đương đại. Có chuyển biến tích cực trong công tác bảo tồn
di tích. Đến tháng 12-2013, số di tích được xếp hạng gồm: 48 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 3.202 di tích cấp quốc
gia, 7.484 di tích cấp tỉnh, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên được UNESCO vinh danh là di sản thế giới, trong đó Vịnh
Hạ Long được bầu chọn là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia về văn hóa, trong đó có chống xuống cấp di tích: giai đoạn 2001-2005 chống xuống cấp 533 lượt di tích;
giai đoạn 2006-2010 chống xuống cấp 1.218 lượt di tích; giai đoạn 2011-2013 chống xuống cấp 904 lượt di tích;
tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế hỗ trợ kinh phí, kinh nghiệm tu bổ di tích tại Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Hiện
có 135 bảo tàng (120 bảo tàng công lập), với hơn 3 triệu tài liệu, hiện vật. Chú ý nhiều hơn đến công tác bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể: thống kê lập hồ sơ 13.440 di sản; 10 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO
vinh danh; 49 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục Quốc gia. Lấy ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10
tháng 3 (âm lịch) hằng năm là Ngày Quốc lễ của dân tộc. Phục hồi và phát huy lễ hội truyền thống, làng cổ, làng
nghề của các dân tộc. Ý thức của người dân hướng về cội nguồn và khả năng huy động được các nguồn lực trong
nhân dân giữ gìn, phát huy di sản văn hóa dân tộc tăng lên. Có chuyển biến trong xúc tiến quảng bá, giới thiệu các di
sản văn hóa dân tộc ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch gắn với di sản văn hóa. Năm 2013, Việt
Nam đón trên 7 triệu lượt khách quốc tế.
Nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng. Văn hóa, văn
nghệ dân gian các dân tộc được quan tâm sưu tầm, phổ biến. Đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số
tăng về số lượng và nâng dần về chất lượng. Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số được cải thiện cả về vật chất

lẫn tinh thần. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa thực hiện một số dự án trọng điểm: Bảo tồn làng bản tiêu
biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc thiểu số…Tăng cường các hoạt động giao lưu, giới thiệu, quảng bá,
tôn vinh văn hóa các dân tộc, như tổ chức ngày hội văn hóa vùng, ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc
Mông, Chăm, Khmer…Xác lập ngày 19-4 hằng năm là Ngày Văn hóa các dân tộc. Nhà nước đầu tư dự án sưu tầm,
công bố sử thi Tây Nguyên; dự án công bố, phổ biến tài sản văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam giai đoạn
2007-2012. Gần 100% số xã vùng dân tộc, miền núi có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc điểm bưu điệnvăn hóa hóa xã. Nhân rộng mô hình dạy chữ dân tộc ở một số vùng đồng bào Khmer, Chăm, Thái, Ê Đê, Mnông,
Hoa…và mô hình nghệ thuật nhân dân gian (Hà Giang).
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm trên thực tế. Hoạt động văn
hóa tôn giáo được phục hồi, phát triển đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp phần giữ gìn và
phát triển những giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống con người Việt Nam. Cơ quan quản lý nhà nước đã
kiên quyết đấu tranh với các hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Hoạt động văn hóa từng bước thích ứng dần với cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật được xây dựng, bổ sung, góp phần tạo hành lang pháp lý cho hoạt động và sáng tạo văn
hóa, thiết lập trật tự, kỷ cương, ngăn chặn sự “xâm nhập” của sản phẩm độc hại từ bên ngoài. Một số văn bản luật


quan trọng như: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh…được quốc
hội thông qua. Ban hành kịp thời nhiều chiến lược phát triển: văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch…và các quy hoạch
cho từng lĩnh vực văn hóa góp phần điều chỉnh và định hướng phát triển cho từng gia đoạn. Hoàn thành một số đề
án nhằm thể chế hóa các nội dung cơ bản của Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị khóa X về
văn hóa, nghệ thuật. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, trường học, nghệ thuật. Hầu hết các cơ quan, đơn vị, trường học,
địa bàn dân cư xây dựng quy ước, hương ước, quy định thực hiện nếp sống văn minh, văn hóa tại cơ sở.
Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa; xây dựng thêm nhiều công trình văn hóa theo
hướng xã hội hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, như: Hệ thống nhà văn hóa thôn, bản, bưu điện – văn
hóa xã, nhìn chung được xây dựng trong khắp cả nước; đã xây dựng một số công trình văn hóa có quy mô lớn ở
trung ương và địa phương (sân vận động Mỹ Đình, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Hà Nội,
Thư viện Quốc gia, Trung tâm Chiếu phim Quốc gia, Bảo tàng Tây Nguyên, Nhà văn hóa tỉnh Khánh Hòa, một số
tượng đài…); có sự đổi mới trong quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa ở một số thiết chế văn hóa các thành phố

lớn. Chính sách, pháp luật văn hóa bước đầu đã bắt nhịp những vấn đề mới đặt ra trong kinh tế thị trường về văn
hóa, thoát dần tư duy bao cấp, hành chính hóa. Xuất hiện ngày một nhiều các thiết chế văn hóa (bảo tàng, thư viện,
khu văn hóa giải trí, khu thể dục, thể thao…) ngoài công lập.
Tỷ lệ chi cho văn hóa ở trung ương cơ bản bảo đảm được tỷ lệ 1,8% tổng chi ngân sách ở trung ương theo Kết luận
Hội nghị Trung ương 10 khoa IX đặt ra. Tổng mức đầu tư của Nhà nước cho Chương trình mục tiêu giai đoạn sau
cao hơn giai đoạn trước.
Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành. Công tác đào tạo cán bộ và chuẩn bị nhân lực cho
hoạt động văn hóa được quan tâm hơn. Cả nước có 33 trường đại học, 47 trường cao đẳng; 27 trường trung cấp có
đào tạo nhân lực hoạt động văn hóa. Số trường đào tạo nguồn cán bộ văn hóa tăng và được đầu tư cơ sở vật chất.
Ngành đào tạo đa dạng, chú ý tới nhiều ngành học mới nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Số lượng cán bộ được
đào tạo lại và đào tạo sau đại học mỗi năm một tăng. Xã hội hóa đào tạo nguồn nhân lực văn hóa ngày một mở rộng.
Các chức danh cán bộ được chuẩn hóa. Cán bộ nguồn được đưa vào quy hoạch. Quan tâm hơn công tác bồi dưỡng
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hoạt động văn hóa và đào tạo tài năng văn hóa, văn nghệ. Nhiều học sinh giỏi được
gửi đi đào tạo ở ngoài nước. Chương trình văn hóa, văn nghệ được đưa vào giảng dạy cho các cán bộ trong hệ
thống trường chính trị. Nhiều cán bộ văn hóa được đi tham quan, học hỏi ở ngoài nước. Cấp xã đã bố trí một công
chức theo dõi lĩnh vực văn hóa.
Coi trọng xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị. Ban hành một số nghị quyết, chỉ thị về xây dựng Đảng (Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về công tác xây dựng Đảng; Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27-3-2003 của Ban Bí
thư khóa IX về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7-112006 của Bộ Chính trị khóa X và Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị khóa XI về học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “một số văn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”…) và việc thực hiện đã dần vào nền nếp, đạt một số kết quả bước đầu và tạo chuyển biến trong Đảng và
trong xã hội.
Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc, góp phần giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam, đồng
thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cùng với quá trình da phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế
của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc quảng bá văn hóa Việt
Nam. Việc thành lập Trung tâm văn hóa ở nước ngoài là một nỗ lực đúng hướng của Nhà nước ta. Nhiều sự kiện
văn hóa quốc tế có quy mô lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và sự kiện văn hóa Việt Nam tổ chức ở nước ngoài gây
được tiếng vang, tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè về truyền thống văn hóa, nghệ thuật văn hóa, nghệ thuật
Việt Nam.
2. Khuyết điểm, hạn chế

Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong
lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa
lành mạnh; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hóa. Việc xây
dựng và phát triển văn hóa mới tiến hành chủ yếu trong lĩnh vực hoạt động văn hóa. Nhiều chương trình, dự án phát
triển kinh tế còn nặng nề về tìm lợi ích kinh tế, coi nhẹ nhân tố văn hóa, con người và môi trường.
Văn hóa chưa thật sự trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển. Đời sống văn hóa chưa giảm. Không khí dân
chủ, cởi mở, nói thẳng, nói thật còn hạn chế ở một số lĩnh vực; đồng thời cũng xuất hiện tình trạng lợi dụng sự công
khai, dân chủ để tán phát những thông tin, sản phẩm văn hóa không lành mạnh, lệch lạc với các chuẩn mực đạo đức


và văn hóa. Chưa thành công trong việc xây dựng con người, xây dựng hệ giá trị mới của văn hóa Việt Nam, nhất là
lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng, ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội. Năm 2012, cả nước xảy ra 8.820 vụ vi phạm pháp luật (tăng 231
vụ so với năm 2011) do 13.300 trẻ em, người chưa thành niên gây ra. Trong đó, độ tuổi từ 14 đến 16 chiếm 31,9%
và từ 16 đến 18 chiếm 61,1%; tập trung nhiều nhất ở bậc trung học cơ sở (41,8%), sau đó là trung học phổ thông
(31,9%).
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, cùng với tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm đã gây tổn hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và chế độ. Nhiều giá trị truyền thống, đạo đức nghề nghiệp không còn được coi trọng như trước
đây, có mặt bị mai một, đảo lộn; những giá trị mới chưa hình thành hoặc chưa bền vững ảnh hưởng tiêu cực đối với
định hướng giá trị nhân cách; chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền có xu hướng gia tăng, chi
phối đời sống xã hội, gây hậu quả xấu đối với việc xây dựng con người và môi trường văn hóa. Đạo đức nghề
nghiệp sa sút trên nhiều lĩnh vực, cả lĩnh vực vốn vốn được xã hội tôn vinh: Y tế, giáo dục, luật pháp, báo chí…Lý
tưởng chung và động cơ cá nhân ngày càng có khoảng cách, làm gia tăng lối sống thực dụng, cơ hội, vụ lợi, buông
thả và sính ngoại trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chức, có
quyền đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giáo dục lý tưởng, nhân cách thế hệ trẻ. Chưa xây dựng, tập hợp được
nhiều phong trào thi đua yêu nước trên các ngành, lĩnh vực, vùng miền để động viên tối đa tinh thần dân tộc, sức
mạnh tổng hợp của xã hội cho phát triển văn hóa. Vẫn còn tâm lý trong chờ, ỷ lại vào Nhà nước trong một bộ phận
nhân dân và các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của Nhà nước; chưa phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt

động văn hóa. Khả năng tự bảo vệ của văn hóa dân tộc trước sự xâm nhập của văn hóa nước ngoài còn hạn chế.
Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi,
vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa ở không ít nơi
bị xâm hại, thiếu lành mạnh. Việc giao lưu, tiếp thu văn hóa, lối sống từ bên ngoài thiếu chọn lọc. Sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo có biểu hiện sai lệch những giá trị nhân văn, hiện tượng lợi dụng ngoại cảm để trục lợi, các tệ nạn
xã hội, tội phạm…có chiều hướng gia tăng. Theo báo cáo của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm, từ năm
1998 đến năm 2013, cả nước xảy ra 17.141 vụ giết người; 199.371 đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật; 30.862 gái
mại dâm; 171.700 người nghiện ma túy. Lực lượng chức năng đã phát hiện bắt giữ 197.878 vụ với 321.087 đối
tượng liên quan đến ma túy.
Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngược lại, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội
phạm có chiều hướng gia tăng. Các tệ nạn xã hội, sản phẩm văn hóa độc hại, sự biến tướng của nhiều lễ hội, phim
ảnh, biểu diễn nghệ thuật thiên về giải trí, kích động bạo lực, thông tin sai trên các mạng xã hội, gây tâm trạng lo
lắng, hoài nghi trong xã hội. Trong mối quan hệ đồng chí, đồng nghiệp, đồng đội…sự chân thành, quan tâm chia sẻ,
giúp đỡ nhau không còn được như trước đây. Thay vào đó là tình trạng kèn cựa, bon chen, chạy chức, chạy
quyền…đang lan rộng. Môi trường học đường ở nhiều nơi thiếu lành mạnh. Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn về đời
sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và
vùng căn cứ cách mạng, khu công nghiệp vẫn chưa được khắc phục. Vai trò của gia đình trong việc giáo dục con cái
bị coi nhẹ, với tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nhà trường và xã hội. Nhiều gia đình, bố mẹ không còn là tấm gương sáng
cho con cái noi theo; tỷ lệ ly hôn, bạo lực gia đình, trẻ em vi phạm pháp luật gia tăng; việc phụ nữ lấy chống nước
ngoài vì mục đích kinh tế còn diễn ra phức tạp ở một số tỉnh…Đời sống văn hóa của công nhân lao động ở các khu
công nghiệp còn thiếu thốn, đặc biệt là các khu công nghiệp có yếu tố nước ngoài còn rất nghèo nàn.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhiều nơi còn mang tính hình thức. Công tác xây dựng
văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội chưa được quan tâm đúng mức, còn
hình thức và nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tham gia vào hoạt động văn hóa với mục đích kiếm
lời là chủ yếu, đã hạ thấp chức năng giáo dục, chưa chú ý đến trách nhiệm định hướng thẩm mỹ, hướng thiện, nhân
văn. Nhiều dịch vụ, sản phẩm văn hóa trong nước thiếu sức cạnh tranh. Ý thức chấp hành pháp luật, giữ gìn, bảo vệ
môi trường chưa cao.
Thành tựu sáng tạo văn hóa, nghệ thuật chưa nổi bật. Chất lượng tác phẩm văn học nghệ thuật chưa tương xứng
với số lượng. Còn ít những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác
phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Lý tưởng và khát vọng sáng tạo còn hạn chế

trong một số văn nghệ sĩ. Một số sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật chất lượng kém vẫn được in ấn, phát hành;
nhiều sản phẩm đối trụy, độc hại của nước ngoài xâm nhập vào nước ta ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, lối
sống và thuần phong mỹ tục. Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp, nhất là điện ảnh, sân khấu đang đứng trước
nhiều khó khăn, có nguy cơ sa vào khuynh hướng nghiệp dư hóa, giải trí, câu khách. Một số lĩnh vực nghệ thuật gặp


khó khăn trong cơ chế thị trường và sa sút nghiêm trọng (văn hóa đọc, điện ảnh, sân khấu truyền thống…). Các loại
hình nghệ thuật truyền thống bị mai một. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn
sáng tác; tính định hướng, tính chiến đấu chưa cao; đấu tranh chống quan điểm sai trái chưa sắc bén, hiệu quả. Một
bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ, người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có khuynh hướng xa rời mục tiêu nhân văn,
chạy theo thị hiếu thấp kém tạo ra những sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thâm chí độc hại. Một số văn nghệ sĩ
đăng tải trên trang web, blog những tác phẩm có nội dung thiếu khách quan, bôi đen hiện thực cuộc sống, lật lại mặt
trái những vấn đề của lịch sử dân tộc… tạo nên sự bức xúc trong dư luận xã hộ và nghệ sĩ. Còn nhiều hiện tượng vi
phạm quyền tác giả, quyền liên quan, thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ chưa nghiêm. Một số chính sách đặc thù đối với
văn nghệ sĩ đã lạc hậu nhưng chưa được nghiên cứu và chậm sửa đổi. Công tác tổng kết thực tiễn, phát triển bền
vững đất nước còn yếu, chưa được coi trọng.
Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Nhiều sinh
hoạt văn hóa dân tộc bị biến dạng trước tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và văn hóa ngoại lai. Việc tôn tạo,
trùng tu các di tích lịch sử - văn hóa ở một số nơi thực hiện chưa kịp thời, thiếu nghiêm túc, không tôn trọng các quy
định hiện hành, dẫn đến sai phạm, gây bức xúc dư luận. Nguy cơ mai một, thất truyền di sản phi vật thể ngày càng
cao. Một số loại hình văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán tốt đẹp của một số dân tộc thiểu số bị mai một. Sự
trong sáng, thuần khiết của tiếng Việt đang bị xâm hại. Một số nơi phục hồi cả hủ tục, mê tín dụ đoan hoặc dàn dựng
theo kiển sân khấu hóa, phô trương, hình thức, gây lãng phí, tốn kém. Việc đào tạo, truyền nghề cho thế hệ trẻ tiếp
nối giữ gìn, phát huy di sản văn hóa dân tộc chưa được quan tâm đngs mức. Nhiều bảo tàng trùng lập về cấu trúc;
thiếu bảo tàng chuyên ngành về khoa học kỹ thuật và nghệ thuật; nội dung hoạt động đơn điệu, hiệu quả xã hội thấp;
việc tôn vinh nghệ nhân còn chậm. Các dự án bảo tồn thiếu sự tham gia của cộng đồng và các nhà khoa học. Việc
phát huy giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có việc cưới, việc tang, lễ hội, có biểu hiện lệch lạc và bị lợi dụng để
“thương mại hóa”, biến tướng thành hoạt động mê tín dị đoan.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, còn nhiều yếu kém, chưa trở
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện con người và đào tạo nhân lực,

phát triển tài năng nhất là nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. Giáo dục và đào
tạo chủ yếu còn nặng về phương pháp truyền thụ, cung cấp kiến thức, chưa có nhiều biện pháp khuyến khích học
tập sáng tạo, chưa chú trọng đúng mức giáo dục và hình thành nhân cách của con người. Việc giáo dục tư tưởng,
đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc…chưa được chú ý về nội dung và phương pháp; giáo dục
phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, nhất là về kỹ năng sống
và “định hướng nghề nghiệp”. Chưa coi trọng giáo dục thẩm mỹ cho giới trẻ. Chất lượng giáo dục chưa đạt yêu cầu
và không đồng đều giữa các vùng miền.
Khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên chưa có nhiều công trình, sản phẩm thực sự mang tính đột phá, đem lại hiệu
quả cao. Khoa học xã hội, nhân văn chưa giải đáp kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đời sống đang đặt ra. Chưa
quan đến tính văn hóa trong khoa học – công nghệ. Chưa nghiên cứu sâu những vấn đề đặt ra trong cuộc sống văn
hóa hiện nay, như: Công nghiệp văn hóa, kinh tế trong văn hóa, khai thác dịch vụ văn hóa kết hợp với bảo tôn di
sản…Triển khai nhiều để tài nghiên cứu nhưng việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn hạn chế.
Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp
sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục
vụ; thiếu sự nhạy bén chính trị, chỉ tập trung khai thác, phản ánh mặt tiêu cực của đời sống xã hội; đăng tải thông tin
không chính xác, khách quan, thậm chí sai sự thật, chạy theo khuynh hướng giật gân câu khách, tạo ra những sản
phẩm yếu kém. Số lượng cơ quan báo chí, xuất bản không ngừng tăng nhưng hiệu quả xã hội chưa tương xứng,
chưa quan tâm đúng mức yêu cầu giáo dục, xây dựng con người phát triển văn hóa. Hoạt động xuất bản đang gặp
nhiều khó khăn, có nguy cơ thu hẹp. Tình trạng liên kết dễ dãi, thẩm định nội dung cẩu thả tạo ra những ấn phẩm
yếu kém về nhiều mặt. Vai trò trách nhiệm của các cơ quan chủ quản báo chí, xuất bản chưa được phát huy. Một bộ
phận cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí, xuất bản và phóng viên, biên tập viên yếu về năng lực chuyên môn, trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, đạo đức nghề nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật. Tình trạng “thương mại hóa”
báo chí xuất bản chưa bị đẩy lùi, thậm chí còn lan rộng, có hiện tượng tư nhân núp bóng nhà nước để kinh doanh
báo chí, xuất bản. Còn để lọt một số xuất bản phẩm có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
Các chính sách, đề án phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số vẫn thường đứng biệt lập, ít gắn kết với các chương
trình, đề án phát triển về kinh tế - xã hội nên hiệu quả không cao, nguồn lực bảo đảm thực hiện còn hạn chế. Khoảng
cách về mức hưởng thụ và sáng tạo văn hóa giữa các dân tộc, vùng sâu, vùng xa với khu vực đồng bằng và đô thị
còn chênh lệch khá cao.
Chính sách văn hóa đối với tôn giáo chưa theo kịp tình hình phát triển tôn giáo. Sự định hướng xã hội về tín ngưỡng



còn hạn chế dẫn đến tư tưởng duy tâm thần bí có xu hướng mở rộng trong xã hội. Xuất hiện một số đạo lạ hoạt
động trái phép, tác động vào đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân. Môi trường văn hóa ở một số cơ sở thờ
tự thiếu lành mạnh. Một số người lợi dung chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà nước tổ chức hoạt động kinh doanh
văn hóa vụ lợi và truyền bá mê tín dị đoan tại các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Cá biệt có một số chức sắc tôn giáo
kích động giáo dân đòi đất, lập tổ chức trái phép…
Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa
chưa cụ thể, rõ ràng, làm hạn chế việc dậy và phát huy tiềm năng văn hóa, các nguồn lực xã hội cho xây dựng và
phát triển văn hóa. Chưa thực sự phát huy được vai trò chủ thể của người dân, của cộng đồng trong việc bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Chưa xử lý kịp thời những vấn đề mới nảy sinh về văn hóa (công
nghiệp văn hóa, thị trường văn hóa, văn hóa mạng, văn hóa cho giới trẻ…).
Năng lực dự báo, định hướng chiến lược của các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ còn
nhiều hạn chế, lúng túng. Việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về văn hóa còn chậm, thiếu đồng bộ (Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X đến nay còn nhiều nội dung chưa thể chế
hóa). Đối chiếu các đầu việc nêu ra trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 khoa VIII thì tất cả các đầu việc đều không thực hiện đúng thời gian đề ra. Có đầu việc chậm tới chục năm. Ví dụ
Luật Quãng cáo dự kiến quý III năm 1999 ban hành thì tới năm 2012 Quốc hội mới thông qua. Một số lĩnh vực văn
hóa, nghệ thuật mới phát sinh chưa được bổ sung vào luật để quản lý. Nhiều chính sách đối với văn nghệ sĩ đã lạc
hậu nhưng chậm đổi sửa đổi.
Việc quản lý, ngăn chặn thông tin, xuất bản phẩm yếu kém, độc hại chưa đạt yêu cầu. Còn để lễ hội diễn ra tràn lan,
dịch vụ văn hóa biến tướng, hiệu quả văn hóa thấp. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý sai phạm trong thực hiện các
chính sách, pháp luật về văn hóa chưa thường xuyên, liên tục.
Đầu tư cho văn hóa còn thấp, chưa tương xứng, còn dàn trải, gián đoạn, hiệu quả thấp, chưa xác định rõ trọng tâm
ưu tiên. Chi cho văn hóa ở nhiều địa phương chưa bảo đảm tỷ lệ 1,8% tổng chi ngân sách ở địa phương. Nguồn lực
của dân đầu tư mất cân đối, chủ yếu cho các công trình văn hóa tâm linh. Chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa đầu tư
xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng với đầu tư nuôi dưỡng các giá trị văn hóa tinh hoa.
Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp
thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Chưa có nhiều công trình văn hóa và khu vui chơi giải trí lớn; thiếu các điểm
vui chơi giải trí cho trẻ em, cho công nhân làm việc tại khu chế xuất, khu công nghiệp. Chưa đánh giá được hiệu quả

của mô hình nhà văn hóa cấp xã, điểm bưu điện-văn hóa xã. Nguồn nhân lực cho hoạt động của hệ thống thiết chế
văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ở tuyến cơ sở. Nội dung hoạt động đơn điệu, chậm đổi mới, chưa thu hút
được đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Năng lực chưa đủ mạnh để hội nhập
quốc tế sâu hơn trên các hoạt động thuộc lĩnh vực thiết chế văn hóa. Nhiều sự kiện văn hóa chưa đem lại giá trị
nhân văn tương ứng với đầu tư của Nhà nước và xã hội.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, tham mưu, quản lý văn hóa các cấp chưa
được đào tạo, bồi dưỡng đúng cách, bất cập cả về năng lực và kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ các cơ quan đảng theo
dõi, chỉ đạo công tác văn hóa còn mỏng, một số hạn chế về trình độ, năng lực, kinh nghiệm. Đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số chưa nhiều, trình độ còn hạn chế. Chưa coi trọng công tác quy hoạch nguồn đội ngũ cán bộ ở cấp
chiến lược bị hụt hẫng. Một số nơi còn coi nhẹ chuyên môn văn hóa, văn nghệ trong bố trí cán bộ chỉ đạo, quản lý
văn hóa, văn nghệ trong bố trí cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ. Chậm ban hành chính sách đãi ngộ đối
với trí thức văn hóa và văn nghệ sĩ có tài năng cống hiến cho sự phát triển văn hóa của quốc gia. Chính sách thu hút
học sinh năng khiếu vào các trường văn hóa, nghệ thuật chưa hấp dẫn. Thiếu quan tâm đến việc đầu tư để phát
hiện, tuyển chọn và đào tạo tài năng về văn hóa, văn nghệ. Chất lượng đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ sở còn nhiều
bất cập. Trình độ năng lực đội ngũ cán bộ văn hóa, nhất là cán bộ ở cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Hoạt động giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài còn hạn chế cả về đầu tư nguồn lực, về tầm nhìn, tính
hiệu quả. Hình ảnh Việt Nam, văn hóa Việt Nam còn hạn chế ở khu vực và thế giới. Tình trạng nhập khẩu, quảng
bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một
bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.Tỷ lệ chiếu phim nước ngoài trên các kênh truyền hình Việt Nam, ở trung ương và
các địa phương không thực hiện đúng quy định. Việc chủ động giới thiệu các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật có chất
lượng ra nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức khiến vị thế văn hóa, nghệ thuật Việt Nam trong các cuộc thi
quốc tế chuyên nghiệp chưa được khẳng định xứng đáng.


3. Nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế
Những khuyết điểm, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân.
3.1. Nguyên nhân khách quan:
Sự biến đổi nhanh chóng, nhiều yếu tố mới, phức tạp của đời sống xã hội đã tác động nhiều, dẫn tới sự thụ động,
lúng túng trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức hoạt động văn hóa.

Mặt trái của cơ chế thị trường, của toàn cầu hóa đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa, tư tưởng, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Sự phát triển mạnh mẽ và quốc tế hóa công nghệ thông tin, truyền thông, giải trí, tiêu dùng cùng với quá trình giao
lưu văn hóa với nhiều mặt tích cực và cả những mặt tiêu cực đã tạo ra những thách thức, khó khăn lớn cho công tác
lãnh đạo, quản lý và hoạt động văn hóa.
Xuất phát điểm nền kinh tế nước ta còn thấp nên sự đầu tư của Nhà nước và xã hội cho sự nghiệp văn hóa chưa
tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư. Điều kiện (trình độ dân trí, văn hóa, đời sống kinh
tế…) không đồng đều giữa các vùng, miền, nhất là những khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, chống phá ta ngày
càng quyết liệt.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy
đủ lĩnh vực văn hóa; lãnh đạo, chỉ dạo chưa thật quyết liệt. Không ít cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị- xã
hội, kể cả ở cấp trung ương, chưa quán triệt đầy đủ những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII;
nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, đặc trưng của văn hóa; hiểu văn hóa là những hoạt động văn hóa
cụ thể, còn có biểu hiện lơi lỏng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết. Chưa chú trọng đúng mức do không
thấy hết tầm quan trọng của văn hóa đối với việc xây dựng con người, để cho tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống
có nhiều mặt bị sa sút so với thời điểm ra đời Nghị quyết, để nhiều hoạt động văn hóa chạy theo thành tích, phô
trương, thiếu chiều sâu nhân văn, thiếu tính bền vững.
Những yếu kém, sai phạm, bức xúc về văn hóa chỉ đạo, giải quyết chưa quyết liệt, thiếu dứt điểm hoặc phương
pháp xử lý không phù hợp, kém hiệu quả, thường nặng về biện pháp hành chính, pháp luật, nhẹ về vận động thuyết
phục, cảm hóa, giáo dục. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị thiếu chặt chẽ, đồng bộ.
- Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả
thi. Do vậy, chưa động viên tối đa các cá nhân và chủ thể văn hóa tham gia vào sáng tạo và truyền bá văn hóa, ngăn
chặn, đẩy lùi sản phẩm độc hại, tiêu cực.
- Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ
luật, kỷ cương không nghiêm. Phương thức lãnh đạo, quản lý của các cấp từ Trung ương đến địa phương về văn
hóa chậm đổi mới, chưa thoát khỏi lối mòn mệnh lệnh, bao cấp, đơn giản; chưa lường hết tính phức tạp và những
tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải.

- Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Công tác nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn về văn hóa lúng túng, bất cập nên tính dự báo và định hướng bị hạn chế; chưa làm rõ
nhiều vấn đề liên quan đến văn hóa trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định những
giá trị truyền thống cũng như những giá trị mới cần được xây dựng, trong xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống
và đương đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và phát triển, văn hóa và kinh tế…
- Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động văn hóa còn


nhiều bất cập về cơ sở vật chất, kỹ thuật; về giáo trình, tài liệu; đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy và học. Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ các cấp còn yếu về trình độ, năng lực,
kinh nghiệm nên chưa làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp và chỉ đạo, quản lý các hoạt động
văn hóa.
4. Một số kinh nghiệm
Một là, Cần đặt lên hàng đầu việc bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức, lối sống, lấy việc xây dựng nhân cách con người
làm trọng tâm cốt lõi của phát triển văn hóa; chăm lo xây dựng con người một cách toàn diện, thiết thực; kiên quyết
đấu tranh chống mọi tiêu cực xã hội làm tha hóa con người.
Hai là, tôn trọng, phát huy dân chủ, tính tích cực, sáng tạo, gắn với trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của mỗi
cá nhân, tập thể, cộng đồng dân cư; tôn trọng pháp luật và thuần phong mỹ tục của dân tộc; khắc phục tình trạng
buông lỏng, hữu khuynh hoặc can thiệp thô bạo, mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo trong văn hóa.
Ba là, kịp thời thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa thành các chính sách, pháp luật của
Nhà nước, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với phát triển văn
hóa; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, không quan tâm các giá trị văn hóa.
Bốn là, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành là nhân tố quyết định tạo
niềm tin trong nhân dân, làm tấm gương văn hóa, đạo đức cho xã hội noi theo.
Năm là, coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa, văn học, nghệ thuật, báo chí có
phẩm chất, năng lực, tâm huyết và trách nhiệm.
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI
1. Dự báo những yếu tố tác động đến sự phát triển văn hóa nước ta

1.1. Những yếu tố thuận lợi
Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung. Thành tựu, kinh nghiệm của những năm đổi mới đã tạo cho đất
nước sức mạnh tổng hợp lớn hơn. Nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn. Khoa
học, công nghệ phát triển mạnh, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin, tạo điều kiện để từng bước nâng cao chất
lượng hoạt động văn hóa. Sự phát triển các hình thức thể hiện mới về văn hóa, nghệ thuật (giao lưu trực tuyến, blog,
văn học mạng, truyền hình thực tế, sách điện tử…) xã hội hóa hoạt động văn hóa; mở rộng, đa dạng, đa phương
trong giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật… đang tác động thúc đẩy các hoạt động văn hóa. Đồng thời
với phát triển kinh tế, phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người, xây dựng gia đình đang là xu
thế của thời đại. Các quốc gia trên thế giới chú trọng đến văn hóa với tư cách là “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia
trong quan hệ quốc tế.
Nước ta đang phấn đấu để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Yêu cầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải phát huy sức mạnh nội sinh dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân tộc.
Dân chủ xã hội ngày càng mở rộng. Các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo, năng động, tích cực hơn
đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nước nhà trong cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, điện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
1.2.Những khó khăn và thách thức
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa khắc phục được. Cuộc đấu tranh cho chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc
vẫn diễn biến phức tạp; tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải ngày càng gay gắt, khó lường. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới, biến đổi khí hậu, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, công nghệ thông tin, sản phẩm độc hại
tác động tiêu cực đến văn hóa, gây biến đổi các giá trị văn hóa truyền thông. Tâm lý bao cấp, thụ động; đội ngũ cán
bộ quản lý và trình độ chỉ đạo, quản lý văn hóa bất cập; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển hóa” xa
rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực


đến cả xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa.
2. Mục tiêu
Trong quá trình tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, nhiều ý kiến của các nhà quản lý, nhà khoa học cho
rằng, cần xác định mục tiêu trước, sau đó mới đề ra các quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu. So với Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết lần này xác định rõ mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đến năm 2020, tầm nhìn

2030 của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa và con người. Mục tiêu chung ngắn gọn, có tính khái quát cao thể hiện tư
tưởng nêu trong Cương lĩnh của Đảng về xây dựng, phát triển “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” gắn
với mục tiêu phát triển con người, phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
- Mục tiêu chung
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Mục tiêu cụ thể
+ Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình,
với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
+ Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi
trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố húc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách.
+ Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người thời
kỳ dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa
Việt Nam.
+ Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các
giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
- Một số chỉ tiêu văn hóa đến năm 2020 được ghi trong các chiến lược phát triển ở các lĩnh vực của ngành văn hóa,
thông tin do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: 100% số tỉnh, thành phố có đủ các thiết chế văn hóa; 90-100% số
quận, huyện, thị xã có nhà văn hóa và thư viện; 80-90% số xã, thị trấn có nhà văn hóa; 60-70% số làng, bản, ấp có
nhà văn hóa; phủ sóng truyền hình số mặt đất đạt 80% địa bàn dân cư; đạt 01 bản sách/ mỗi người trong thư việc
công cộng; đạt 05 bản sách/ mỗi người/ năm; đạt 01 lượt người/ năm đến rạp xem phim điện ảnh; 100% di tích quốc
gia đặc biệt, 70% di tích quốc gia được Nhà nước đầu tư bảo tồn; 70-80% số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn
hóa; 65-70% số làng, bản, khu phố đạt tiêu chuẩn làng, bản, khu phố văn hóa; 80% “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn

hóa” theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cơ bản đưa các dân tộc thiểu số rất ít người (có số dân
dưới 10.000 người ) ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp về văn hóa.
3. Quan điểm
Qua 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, trong bối cảnh quốc tế và đất nước có nhiều
biến đổi, đối chiếu nội dung Nghị quyết với thực tiễn , năm quan điểm nêu trong Nghị quyết về cơ bản vẫn còn giá trị,
tuy nhiên cần nghiên cứu để bổ sung, phát triển và sắp xếp lại cho phù hợp hơn với giai đoạn hiện nay và sắp tới,
nhất là về vấn đề con người. Quan điểm 1 trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định vị trí, vai trò của văn
hóa. Vị trí của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vai trò của văn hóa là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XII của Đảng xác định quan điểm phát triển bền vững và
đặt nhiệm vụ văn hóa gắn kết chặt chẽ với kinh tế, chính trị. Tiếp thu quan điểm nói trên, Nghị quyết lần này thay


cụm từ “phát triển kinh tế- xã hội” bằng cụm từ “phát triển bền vững đất nước” và đưa thêm nội dung “Văn hóa phải
được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” để thống nhất nhận thức trong tổ chức thực hiện. Quan điểm 2 và
quan điểm 3 đều nói về tính chất của nền văn hóa: Quan điểm 2 nói về tính tiên tiến và tính dân tộc; Quan điểm 3 nói
về tính thống nhất, tính đa dạng; Hai quan điểm trên gộp làm một và bổ sung làm rõ đặc trưng “tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”của nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng, sửa lại từ ngữ cho rõ nghĩa. Quan điểm 4 xác định lực
lượng, vai trò của các chủ thể trong xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa. Nghị quyết lần này bổ sung thêm vai
trò của Nhà nước và nhân dân. Quan điểm 5 nói về cách thức tiến hành, phương châm hành động, xử lý vấn đề xây
dựng và phát triển văn hóa trong thực tiễn được đưa vào nội dung nhiệm vụ và giải pháp. Như vậy, năm quan điểm
trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được tổng hợp thành ba quan điểm. Nghị quyết lần này bổ sung hai quan
điểm mới để chỉ đạo xây dựng con người, đặc biệt là xây dựng nhân cách, lối sống và chỉ đạo xây dựng môi trường
văn hóa, con người trong mối tương quan với kinh tế.
Năm quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI như sau:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây
dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản; yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa
kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ
thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
IV. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Từ 10 nhiệm vụ ở Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Nghị quyết lần này đề xuất sáu nhiệm vụ. Do
Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ và Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nên Nghị quyết lần này không đề cập đến
hai lĩnh vực trên như trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Xuyên suốt các nhiệm vụ của Nghị quyết là xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người Việt
Nam. Với cách tiếp cận đặt văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế, chính trị và vấn đề mới xuất hiện trong xã hội.
Nghị quyết có hai nhiệm vụ mới là Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế và Phát triển công nghiệp văn hóa đi
đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa, tạo điểm nhấn trong tổ chức thực hiện. Trong từng nhiệm vụ cụ thể
cũng nêu nhiều vấn đề mới đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa, con người hiện nay, như xây dựng
nhân cách, lối sống con người, con người với môi trường, văn hóa với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quản lý thông
tin truyền thông, quyền tác giả và các quyền liên quan, quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ, xây dựng lý luận văn
hóa, văn nghệ, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa…
Cụ thể sáu nhiệm vụ trong Nghị quyết như sau:
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi
người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng
tới chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trưởng định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng


hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức

tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá
nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh
cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu
niên. Phát huy vai trò của văn học – nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm
quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.
Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống,
đáp ững yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống
các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải
pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục,
rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái.
Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.
Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành nuôi dưỡng nhân
cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyến thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà,
cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau. Xây dựng mỗi
trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách,
lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư, các cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở
cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, giữa các
giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng, hoàn thiện
đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Tạo điều kiện để nhân dân chủ động
tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyên khích các hoạt động tôn giáo gắn
bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, "tốt đời, đẹp đạo".

Khuyên khích các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn", từ thiện, nhân đạo.
3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố
quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn
bó máu thịt, với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đối với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn
với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái vể tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên.
Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để
các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với
ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và


phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa
Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các
giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.
Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tê - xã hội.
Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống
có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con
người Việt Nam.
Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và
phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; các giá trị
văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng.
Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có
nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiên bộ, phản
ánh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác,

quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Từng
bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam.
Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật nhằm tập hợp, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ hoạt
động tích cực, hiệu quả. Khuyến khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Có cơ chế khuyên khích văn nghệ sĩ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật
với ý thức đầy đủ về trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình.
Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước. Chú trọng phát triển năng
khiếu và tài năng trẻ.
Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công
tác quản lý các loại hình thông tin trên mạng internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho
thanh niên, thiêu niên. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan
báo chí, truyền thông chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ
chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
5.

Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa

Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt.
Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng
sản phẩm văn hóa. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực
xã hội để phát triển.
Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công
nghiệp văn hóa.
Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội. Củng cố
và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến
địa phương.
6.

Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại



Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan
hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiếu sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm
phong phú thêm văn hóa dân tộc.
Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển
văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Chú trọng
truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây
dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước
ngoài.
Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn
chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các
sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.
V. GIẢI PHÁP
Nghị quyết lần này đề xuất bốn nhóm giải pháp, trong đó có hai nhóm giải pháp mới: Nhóm giải pháp thứ nhất và
nhóm giải pháp thứ ba. Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã chi rõ những
khuyết điểm yếu kém trong xây dựng và phát triển văn hóa nước ta có nguyên nhân sâu xa từ nhận thức chưa sâu
sắc, đầy đủ về vai trò, vị trí, đặc trưng của văn hóa nên cần thiết phải nhấn mạnh việc không ngừng nâng cao nhận
thức, tiếp tục đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa, coi đó là khâu đột phá thể hiện quyết tâm
chính trị của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ văn hóa trong tình hình mới. Thực tiễn cho thấy, qua 15
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý văn hóa ở các cấp
chưa đạt kết quả như mong muốn, ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa. Để
giải quyết khâu này, cần có giải pháp tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong thời gian tới.
Bốn nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết như sau:
1.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa


Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan
trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận
thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi
Nghị quyết.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát
triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên
cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân
chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Phải coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà nội dung quan trọng là học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước
hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng
viên, hội viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng.
2.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa

Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ
thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế,
chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt
Nam.
Điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với tính đặc thù cùa văn hóa, nghệ thuật. Bổ sung chính sách


kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa;
có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội
nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.

Tăng cường công tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Phát huy
vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và
quản lý hoạt động văn hóa.
Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trên
lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động
không đúng tôn chỉ, mục đích, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường.
3.

Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa

Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh
đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
Quan tâm xây đựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Hình
thành một số cơ sở đào tạo đại học, trên đại học trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ
đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ
trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại đỊa phương. Chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa.
Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng
dụng ngưòi có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn
nghệ thuật đặc thù.
4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa
Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai,
minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật, truyền thống cần bảo tồn, phát huy.
Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con
người.
Xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do
khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học,
phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản...

Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ quan, công sở, trường học, khu công
nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư... có thiết chế văn hóa phù hớp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao...)
Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng dự báo và định hướng
phát triển văn hóa, xây dựng con người.
____________________

Chuyên đề 2:


MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHUẨN BỊ TIẾN TỚI ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG

Cùng với việc thông qua và ban hành Nghị quyết “về xây dựng và phát triển vàn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Hội nghị lần thứ
chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cũng đã cho chủ trương và định hướng
về một số vấn đề quan trọng liên quan đến công tác xây dựng đảng, chính quyền và
chuẩn bị tiến tới Đại hội XII của Đảng, trong đó có Quy chế bầu cử trong Đảng; việc lấy
phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng; chỉ
đạo tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiên tới Đại hội XII của Đảng.
I. VỀ QUY CHẾ BẦU CỬ TRONG ĐẢNG
Thực hiện Điều lệ Đảng và chương trình công tác của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Bộ Chính trị đã chỉ đạo
các ban tham mưu ở trung ương phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng Quy chế bầu cử trong
Đảng cho phù hợp với thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới để trình Ban Chấp hành Trung ương
xem xét, quyết định.
Quy chế bầu cử được xây dưng trên cơ sở các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổng kết việc thực
hiện Quy chế bầu cử số 220-QD/TW ngày 17-4-2009 của Bộ Chính trị khóa X và đề xuất nội dung xây dựng dự thảo
Quy chế bầu cử mới. Trong quá trình xây dựng Quy chế đã tổ chức hội thảo, thảo luận kỹ cả về bố cục cũng như nội
dung, nhất là các vấn để mới và ý kiến còn khác nhau.
Toàn văn dự thảo đã được lấy ý kiến các bí thư tỉnh ủy, thành ủy, bí thư ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc Trung ương tại hai Hội nghị do đồng chí Thường trực Ban Bí thư được Bộ Chính trị phân công chủ trì; đồng
thời cũng được thảo luận, góp ý tại ba Hội nghị giao ban về công tác tổ chức xây dựng Đảng và hội nghị trưởng ban

tổ chức một số tỉnh ủy, thành ủy khu vực phía Nam. Những ý kiến đóng góp đã được tập hợp, tiếp thu trong dự thảo
Quy chế mà Bộ Chính trị đã trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị lần thứ tám và được Trung ương
thảo luận, cho ý kiến để tiếp tục hoàn chỉnh.
Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, hầu hết ý kiến của các đồng chí Trung ương cho
rằng: Quy chế được chuẩn bị kỹ, công phu, khoa học, chặt chẽ, ngắn gọn, dễ hiểu, có sự đổi mới, quy đinh cụ thế,
sắp xếp lại một số điều hợp lý hơn, bổ sung nhiều nội dung mới, trên cơ sở kế thừa Quy chế hiện hành, tập hợp và
tiếp thu đầy đủ ý kiến của nhiều địa phương, đơn vị. Bố cục các chương, điều, khoản được thế hiện chặt chẽ, nội
dung dự thảo quy định vừa thế hiện dân chủ, vừa bảo đảm tính tập trung trong bầu cử của Đảng bao quát đầy đủ,
chi tiết từ ứng cử, để cử đến bầu cử tại đại hội (hội nghị) từ cấp chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương. Ý kiến còn
khác nhau chủ yếu tập trung vào các nội đung: Tự ứng cử và nhận đề cử; về quy định số dư tối đa trong danh sách
bầu cừ và lập danh sách bầu cử.
Xác định Quy chế bầu cử trong Đảng là văn kiện quan trọng, cần có thời gian để chuẩn bị thêm, Ban Chấp hành
Trung ương đã giao Bộ Chính trị chỉ đạo việc tiếp thu ý kiên Trung ương tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện dự
thảo Quy chế để trình Hội nghị Trung ương 9 khóa XI. Tiếp thu ý kiến thảo luận tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và
thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, dự thảo Quy chế bầu cử trong Đảng (đã tiếp thu, chỉnh sửa) đã
được gửi và đề nghị các ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc Trung ương nghiên cứu, thảo luận tập thể để góp ý vào toàn văn dự thảo Quy chế; đồng thời, bỏ phiếu thể
hiện chính kiến của các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn vào một số nội dung
qua thảo luận ở Trung ương còn ý kiến khác nhau.
Tính đến ngày 30-1-2014 đã có 63/63 ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy có ý kiến đóng góp vào dự thảo Quy chế
chiếm tỷ lệ 100% khối tố chức đảng theo địa bàn hành chính - lãnh thổ; đã có 43/58 các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương có ý kiến đóng góp chiếm tỷ lệ 74,1% khối tổ chức đảng được xin ý kiến
ở Trung ương. Điều đó thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của các tổ chức đảng đối với văn kiện quan trọng này
của Trung ương.
Sau đây là những nội dung cơ bản của Quy chế bầu cử trong Đảng đã được Hội nghi lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI thông qua:


1. Nguyên tắc xây dựng Quy chế bầu cử trong Đảng
- Tuân thủ Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, các quv định của Ban Chấp

hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Phù hợp với tình hình thực tiễn công tác xâv dựng Đảng và yêu cầu bầu cử trong Đảng hiện nay; phù hợp với thẩm
quyền ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng của Ban Chấp hành Trung ương.
- Kế thừa những nội dung còn phù hợp của Quy chế bầu cử hiện hành, sửa đổi, bố sung các nội dung không còn
phù hợp, những vướng mắc phát sinh cần phải giải quyết để công tác bầu cử trong Đảng được thực hiện chặt chẽ,
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Về bố cục của Quy chế bầu cử trong Đảng
2.1. Quy chế bầu cử số 220-QĐ/TW ngày 17-4-2009 của Bộ Chính trị khóa X có 8 chương 33 điều; Quy chế bầu cử
mới có 7 chương 38 điều, phù hợp với việc điều chỉnh toàn bộ hoạt động bầu cử trong Đảng. Kết cấu của Quy chế
bầu cử mới như sau:
Chương I. Những quy định chung (có 3 điều).
Chương II. Nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử (có 5 điều).
Chương III. Ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cừ (có 10 điều).
Chương IV. Bầu các cơ quan, các chức vụ lãnh đạo của Đảng, bầu đại biểu dự đại hội cấp trên (có 13 điều).
Chương V. Tính kết quả và chuẩn y kết quả bầu cử (có 3 điều).
Chương VI. Xử lý vi phạm (có 3 điều).
Chương VII. Điều khoản thi hành (có 1 điều).
So với Quy chế bầu cử hiện hành, Quy chế bầu cử mới bỏ Chương quy định về đại biểu Đại hội (từ Điều 13 đến
Điều 19); bỏ Điều 11 quy định về Ban thẩm tra tư cách đại biểu, vì các nội dung này đã được thể hiện trong Quy định
thi hành Điều lệ Đảng số 45-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương.
2.2. Sắp xếp lại thứ tự các chương
Quy chế bầu cử mới đưa Chương III - Các tổ chức phụ trách việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử, lên Chương II và lấy
tên là: Nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử cho phù hợp với nội hàm các quy định đã được sửa đổi, bổ sung
của Chương này.
Tương tự như vậy, chuyển Chương II - Quyền ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử, xuống thành
Chương III và lấy tên là: ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử cho phù hợp với nội dung sửa đổi,
bổ sung của các quy định trong Chương này.
2.3. Bổ sung 12 điều mới
- Điều 6. Nhiệm vụ của Đoàn thư ký đại hội.
- Điều 8. Áp dụng đối với việc bầu cử không phải tại đại hội.

- Điều 9. ứng cử.


- Điều 11. Đề cử.
- Điều 13. Việc ứng cử, đề cừ của cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ, ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư.
- Điều 18. Danh sách trích ngang của các ứng cử viên.
- Điều 25. Bầu Bộ Chính trị.
- Điều 26. Bầu Tổng Bí thư.
- Điều 27. Bầu Ban Bí thư.
- Điều 28. Bầu Ửy ban Kiểm tra Trung ương.
- Điều 29. Bầu Chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Trung ương.
- Điều 31. Bầu bổ sung Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên ban
Kiểm tra Trung ương.
2.4. Sửa đổi, bổ sung các điều
- Điều 10. Thủ tục ứng cử.
- Điều 12. Thủ tục đề cử của đảng viên và đại biểu đại hội.
- Điều 16. Quy định về số dư và danh sách bầu cử.
3. Những nội dung cơ bản của Quy chế bầu cử trong Đảng
3.1. Chương I. Những quy định chung
Chương này quy định phạm vi điều chỉnh của quy chế, nguyên tắc bầu cử và hình thức bầu cử. Đây là những quy
định chung làm cơ sở cho việc bầu cử trong Đảng.
- Điều 1: Đối tượng và phạm vi điều chỉnh.
Điểm mới của Điều này là: Quy chế bầu cử số 220-QĐ/TW do Bộ Chính trị khoá X ban hành được áp dụng từ cấp
chi bộ đến các đảng bộ trực thuộc Trung ương. Quy chế bầu cử lần này do Ban Chấp hành Trung ương khoá XI
ban hành được áp dụng đối với việc bầu cử từ cấp chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương để phù hợp với thẩm
quyền ban hành Quy chế của Ban Chấp hành Trung ương.
- Điều 2: Nguyên tắc bầu cử và Điều 3: Hình thức bầu cử.
Hai điều này cũng được bổ sung và diễn đạt lại cho phù hợp.
3.2. Chương II. Nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử (từ Điều 4 đến Điều 8)
Trên cơ sở kế thừa nội dung của Chương III Quy chế hiện hành với tên gọi: Các tổ chức phụ trách việc chuẩn bị và

tiến hành bầu cử, nội dung của Chương này bỏ quy định về Ban Kiểm tra tư cách đại biểu, tách quy định về Nhiệm
vụ của Đoàn Thư ký thành một Điều mới (Điều 6) và bổ sung nhiệm vụ của Đoàn Thư ký cho phù hợp.
Các quy định còn lại về: Nhiệm vụ của cấp uỷ triệu tập Đại hội (Điều 4); Nhiệm vụ của Đoàn Chủ tịch (Điều 5); Quy
định về Ban Kiểm phiếu (Điều 7) cơ bản giữ như quy chế hiện hành.


3.3. Chương III. Ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử (Điều 9 đến Điều 18)
Tại Chương này, ngoài việc đổi tên và chuyển thứ tự Chương II xuống Chương III cho phù hợp với logic về bố cục,
có các điểm mới sau:
3.1. Bổ sung Điều 9 quy định về ứng cử.
3.2. Bổ sung Điều 10 quy định về các thủ tục ứng cử.
3.3. Bổ sung Điều 11 quy định về đề cử.
3.4. Bổ sung Điều 12 quy định về thủ tục đề cử.
3.5. Quy định cụ thể tại Điều 13 những trường hợp hạn chế quyền ứng cử, đề cử.
3.6. Điều 16 quy định về số dư và danh sách bầu cử.
3.7. Bổ sung Điều 18 quy định về danh sách trích ngang của các ứng cử viên.
3.4. Chương IV. Trình tự bầu các cơ quan và các chức vụ lãnh đạo của đảng ở các cấp (từ Điều 19 đến Điều
31), có các nội dung chính là:
- Đề xuất danh sách nhân sự cấp uỷ khoá mới do cấp uỷ triệu tập đại hội chuẩn bị là danh sách đề cử chính thức
của đoàn chủ tịch (Quy chế bầu cử hiện hành quy định danh sách nhân sự do cấp uỷ triệu tập đại hội chuẩn bị là
danh sách để đại hội tham khảo).
- Quy định số dư tối đa trong danh sách bầu cử (Quy chế bầu cử hiện hành không quy định số dư tối đa, do vậy ở
một số đại hội (hội nghị) danh sách bầu cử có số dư gấp nhiều lần số lượng cần bầu dẫn đến phân tán kết quả).
- Điều 19 quy định trình tự, thủ tục bầu cấp uỷ.
- Điều 22 quy định trình tự, thủ tục bầu ban thường vụ.
- Bổ sung điều mới, Điều 24, quy định về trình tự, thủ tục bầu Bộ Chính trị.
- Bổ sung điều mới, Điều 25, quy định quy trình bầu Tổng Bí thư.
- Bổ sung điều mới, Điều 26, quy định quy trình bầu Ban Bí thư.
- Bổ sung điều mới, Điều 28, quy định bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
- Bổ sung điều mới, Điều 29, quy định bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

- Bổ sung điều mới, Điều 31, quy định bầu bổ sung Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ
viên Ban Bí thư, Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
Ngoài việc quy định trình tự, thủ tục bầu các chức danh trên, Quy chế quy định: Nếu bầu bổ sung Uỷ viên chính thức
Ban Chấp hành Trung ương (từ nguồn Uỷ viên dự khuyết), Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương một lần chưa đủ số lượng quy định, có bầu tiếp hay không do Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương quyết định.
4. Một số nội dung chính được thảo luận trong quá trình xây dựng Quy chế bầu cử trong Đảng
4.1. Về việc tự ứng cử và nhận đề cử của cấp uỷ viên và uỷ viên ban thường vụ, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên


Ban Bí thư
Đây là nội dung được thảo luận nhiều nhất ở các cấp uỷ, tổ chức đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Hội
nghị Trung ương 9 đã thống nhất quy định như sau:
- Cấp uỷ viên cấp triệu tập đại hội không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp uỷ đề cử; không được tự ứng
cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của cấp uỷ.
- Ở các hội nghị của ban chấp hành, uỷ viên ban thường vụ không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do ban
thường vụ cấp ủy đề cử; không được tự ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của ban
thường vụ cấp uỷ.
- Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư không được
đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được tự ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên
trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.
Việc quy định như trên bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành Nghị
quyết của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức. Đây là nguyên tắc cơ bản, sống còn của
Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập đến nay. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng viên phải có trách nhiệm chấp hành sự giới thiệu, phân công của tổ chức. Mặt khác,
thể hiện sự tuân thủ nghị quyết của tổ chức mà mình là thành viên tham gia biểu quyết; khi đa số đã quyết định,
mọi thành viên phải có nghĩa vụ chấp hành. Thực chất, việc ứng cử, đề cử trong tổ chức, sinh hoạt đảng từ trước
đến nay chúng ta vẫn tuân thủ theo nguyên tắc này.
4.2. Về quy định số dư tối đa trong danh sách bầu cử
Tuyệt đại đa số ý kiến của các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đề nghị nên khống chế số dư tối đa là 30% để

việc bầu cử được tập trung, tránh được trường hợp phải bầu cử nhiều lần do số dư quá lớn dẫn đến tình trạng phân
tán phiếu bầu. Mặt khác, để nêu cao vai trò và trách nhiệm của cơ quan triệu tập đại hội (hội nghị), cấp uỷ có thẩm
quyền trong chuẩn bị phương án nhân sự và lãnh đạo thực hiện phương án nhân sự theo nghị quyết.
Quy chế bầu cử trong Đảng quy định: Số lượng danh sách bầu cử cấp uỷ và ban thường vụ cấp uỷ phải nhiều hơn
số lượng cần bầu; số dư tối đa do đại hội (hội nghị) quyết định nhưng không quá 30% số lượng cần bầu, trong đó
cấp uỷ triệu tập đại hội (hội nghị) chuẩn bị nhân sự cấp uỷ và ban thường vụ có số dư từ 10 - 15%.
4.3. Về lập danh sách bầu cử
Danh sách đề cử của cấp uỷ đã qua quy trình quy hoạch, đào tạo, giới thiệu tín nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, đã
qua thẩm định rà soát chặt chẽ, toàn diện,...; đã được cấp uỷ xem xét, quyết định trên cơ sở tiêu chuẩn, bảo đảm cơ
cấu lãnh đạo cho ngành, lĩnh vực, vì vậy phải được coi là kênh đề cử chính thức của cấp uỷ. Do đó, chỉ nên lập danh
sách và lấy phiếu tín nhiệm đối với những đồng chí được đại biểu đề cử và tự ứng cử đại hội (hội nghị) để lựa chọn
đưa vào danh sách bầu cử theo số phiếu tín nhiệm từ cao đến thấp bảo đảm số dư theo quy định. Quy chế bầu cử
trong Đảng quy định:
- Danh sách do cấp uỷ triệu tập đại hội (hội nghị) đề cử là danh sách đề cử chính thức với đại hội (hội nghị).
- Đại hội (hội nghị) thảo luận và biểu quyết lập danh sách như sau:
+ Trường hợp danh sách gồm nhân sự do cấp uỷ triệu tập đề cử, do đại biểu đại hội (hội nghị) đề cử và người ứng
cử chưa đủ số dư 30% so với số lượng cần bầu thì đại hội (hội nghị) quyết định (có thể lấy danh sách đó làm danh
sách bầu cử).
+ Trường hợp danh sách gồm nhân sự do cấp uỷ triệu tập đề cử, do đại biểu đại hội (hội nghị) đề cử và người ứng
cử nhiều hơn 30% so với số lượng cần bầu thì xin ý kiến đại hội (hội nghị) về những người được đại hội (hôị nghị) đề
cử và người ứng cử; căn cứ kết qủa xin ý kiến lựa chọn theo số phiếu đồng ý từ cao đến thấp để lập danh sách bầu
cử có số dư tối đa không quá 30% so với lượng cần bầu.


+ Trường hợp danh sách bầu cử đã đủ số dư 30% mà ở cuối danh sách có nhiều người có số phiếu bằng nhau thì
đại hội (hội nghị) xem xét, quyết định lựa chọn theo cơ cấu, tuổi đảng, hoặc có thể để số dư cao hơn 30% so với số
lượng cần bầu.
- Danh sách bầu cử xếp thứ tự tên người theo vần A, B, C...; nếu có nhiều người trùng tên thì xếp theo họ; nếu trùng
cả họ thì xếp theo tên đệm; nếu cả ba dữ kiện này đều trùng thì người có tuổi đảng cao hơn được xếp tên trên.
- Trường hợp cần bầu lấy số lượng 1 người thì danh sách bầu cử là 2 người; bầu lấy số lượng 2 người thì danmh

sách bầu cử là 3 người; bầu lấy số lượng từ 3 người trở lên thì danh sách bầu cử có số dư tối đa không quá 1/3
số lượng cần bầu.
- Nếu bầu một lần chưa đủ số lượng quy định, có bầu tiếp hay không do đại hội (hội nghị) quyết định. Danh sách
bầu cử lần sau phải có số dư lấy theo kết quả bầu cử lần trước từ cao đến thấp của những người chưa trúng cử.
II. VỀ LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM ĐỐI VỚI THÀNH VIÊN LÀ LÃNH ĐẠO CẤP ỦY VÀ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TRONG
CÁC CƠ QUAN ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc lấy phiếu tín nhiệm đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 về việc lấy phiếu
tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội. Sau một năm triển khai thực hiện, đã có nhiều dư luận, ý kiến phản
hồi cả mặt tích cực và những mặt hạn chế của việc lấy phiếu tín nhiệm. Bộ Chính trị nhận thấy cần thiết phải có sự
đánh giá, rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, bảo đảm việc lấy phiếu tín nhiệm đạt được hiệu quả tốt
nhất mục đích, yêu cầu theo như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đề ra. Với tinh thần đó, Bộ Chính trị đã chỉ đạo
Đảng đoàn Quốc hội sơ kết đánh giá, rút kinh nghiệm việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người được Quốc hội, hội
đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, đồng thời thành lập Ban Chỉ đạo ở Trung ương do đồng chí Thường trực Ban
Bí thư làm Trưởng ban để xem xét, rút kinh nghiệm việc lấy phiếu tín nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW.
Tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Bộ Chính trị đã có báo cáo đánh giá, rút kinh
nghiệm và có những đề xuất, kiến nghị với Ban Chấp hành Trung ương sau một năm triển khai thực hiện Quy định
số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 về việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ
lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội.
1. Tình hình triển khai chủ trương lấy phiếu tín nhiệm
Thực hiện Nghị quyết của đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị đã chỉ
đạo:
- Giao Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng xây dựng cơ
chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ
Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng
thành viên ban thường vụ cấp ủy cùng cấp; xây dựng quy định việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với
các chức danh lãnh đạo trong cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể; đối mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá,
nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, trình Bộ Chính trị vào quý I năm 2013.
- Theo đó, Ban Tổ chức Trung ương đã phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng nghiên

cứu, xây dựng dự thảo quy định và trình Bộ Chính trị xem xét, ban hành Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013.
- Giao Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban Cán sự đảng Chính phủ và Ban Tổ chức Trung ương xây dựng quy
trình, thủ tục, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân
bầu hoặc phê chuẩn.
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Đảng đoàn Quốc hội đã tập trung chỉ đạo sát sao, phân công nhiệm vụ
cụ thể đối với lãnh đạo Quốc hội và các cơ quan giúp việc. Đảng đoàn và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã dành ba
phiên họp để thảo luận, xem xét và ban hành Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21-11-2012 của Quốc hội và Nghị
quyết số 561/2013/QH13 ngày 16-1-2013 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21-11-2012 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tại phiên họp thứ 17, 18 của Ủy ban


Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Ban Công tác đại biểu báo cáo về tình hình chuẩn bị lấy
phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII; theo đó tiếp tục chỉ đạo, cụ thể hóa quy trình, thủ tục, chuẩn bị
văn bản, tài liệu và các điều kiện để Quốc hội tiến hành việc lấy phiếu tín nhiệm một cách chu đáo, thận trọng, bảo
đảm đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.
- Để việc triển khai lấy phiếu tín nhiệm ở hội đồng nhân dân cấp tỉnh được chặt chẽ, bảo đảm đúng mục đích, yêu
cầu, Ban Bí thư đã có văn bản chỉ đạo đến ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành ủy (Công văn số 166-CV/TW ngày 156-2013); Chủ tịch Quốc hội có công thư gửi các đồng chí chủ tịch hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố, quán triệt
mục đích, yêu cầu về công tác lãnh đạo lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm ở hội đồng nhân dân các cấp theo
đúng quy định của pháp luật, bảo đảm nguyên tắc thống nhất Đảng lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng đoàn
và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã mời đại diện thường trực hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương dự tham khảo việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, rút kinh nghiệm để tổ chức thực hiện ở địa
phương.
- Thường trực hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố đều tiến hành báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của ban thường vụ
tỉnh ủy, thành ủy về quy trình, thủ tục lấy phiếu tín nhiệm. Trên cơ sở quy định của pháp luật, nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Trung ương; ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy đã ban hành các văn bản chỉ đạo việc lấy phiếu tín
nhiệm đối với ba cấp tỉnh, huyện, xã; có nơi tổ chức làm điểm để tham khảo, rút kinh nghiệm.
2. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm
Triển khai thực hiện Quy định số 165-QĐ/TW ngày 18-2-2013 của Bộ Chính trị về lấy phiếu tín nhiệm đối với thành
viên lãnh đạo cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị-xã hội thời gian qua đã đạt được một số kết quả bước đầu như sau:
- Quốc hội đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (kỳ họp thứ 5 Quốc
hội khoá XIII). Ở các địa phương, đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tổ chức lấy phiếu tín
nhiệm đối với các chức danh do hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố bầu đối với 907 người; do hội đồng nhân dân cấp
huyện bầu đối với 6.664 người; do hội đồng nhân dân cấp xã bầu đối với 58.488 người; 13/63 tỉnh, thành phố đã
thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với uỷ viên ban thường vụ cấp tỉnh, thành phố, trong đó 4 tỉnh (Quảng Nam,
Gia Lai, Phú Yên, Kon Tum) đã hoàn tất việc lấy phiếu tín nhiệm ở cấp huyện và xã; 3 tỉnh, thành phố (Cần Thơ,
Bình Thuận, Kiên Giang) đã lấy phiếu tín nhiệm ở cấp tỉnh và cấp huyện; 43 tỉnh, thành phố đã xây dựng kế hoạch
và hướng dẫn nhưng chưa tiến hành lấy phiếu; 7 tỉnh, thành phố còn lại và các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị trực
thuộc trung ương chưa triển khai, chờ chủ trương mới.
- Đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn: Không có người nào có số phiếu tín nhiệm thấp trên 50%
(8 người, chiếm 17%, có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" từ 20-41%); 34 người, chiếm 72,4%, có tổng số phiếu "tín
nhiệm cao" và "tín nhiệm" đạt từ 50% trở lên, trong đó có 18 người có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" trên 50%).
- Kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do hội đồng nhân dân các cấp bầu: Ở cấp tỉnh, có 2 người (0,22%) tỷ lệ
phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50% (tỉnh Gia Lai); có 689 người (76%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" từ 50% trở lên, còn lại
đều đạt tỷ lệ phiếu "tín nhiệm" trên 50%. Ở cấp huyện, có 12 người (0,2%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50%;
4.871 người (73%) đạt tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" trên 50%, còn lại đều đạt tỷ lệ "phiếu tín nhiệm" từ 50% trở lên. Ở
cấp xã, có 449 người (0,76%) tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên 50%, 36.236 người (62%) có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm
cao" trên 50%.
- Đối với thành viên ban thường vụ cấp uỷ: Ở cấp tỉnh, không có đồng chí nào có tỷ lệ phiếu "tín nhiệm thấp" trên
50%; hầu hết đều đạt tỷ lệ phiếu "tín nhiệm cao" từ 50% trở lên. Ở cấp huyện và cấp xã chưa có báo cáo cụ thể kết
quả.
Đánh giá kết quả bước đầu của việc lấy phiếu tín nhiệm cho thấy:
- Chủ trương lấy phiếu tín nhiệm theo Quy định số 165-QĐ/TW là đúng đắn và cần thiết, phù hợp với quy định của
Hiến pháp, pháp luật. Qua lấy phiếu tín nhiệm giúp cho cán bộ tự "soi mình", thấy được ưu, khuyết điểm thông qua
mức độ tín nhiệm để tự điều chỉnh, phấn đấu, cố gắng cao hơn trong lãnh đạo, quản lý và tu dưỡng phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống. Đồng thời, kết quả lấy phiếu tín nhiệm là kênh tham khảo để giúp cấp uỷ có thẩm quyền xem
xét đánh giá cán bộ chính xác hơn. Ở những nơi có tình trạng nể nang, ngại va chạm, không dám nói thẳng, nói
thật, nhất là đối với người đứng đầu, thì việc lấy phiếu tín nhiệm là giải pháp cần thiết, là biện pháp tốt để quản lý,



×