Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn 2001 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 81 trang )

Lời cảm ơn
Khóa luận được hoàn thành với sự hướng dẫn khoa học, sự giúp đỡ chu
đáo, nhiệt tình của Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý khoa học và Quan hệ quốc
tế, Phòng Đào tạo và các Phòng, Ban chức năng của Trường Đại học Tây Bắc.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa, các thầy giáo, cô giáo
trong khoa Lý luận chính trị, cô giáo chủ nhiệm, tập thể các bạn sinh viên lớp
K52 ĐHGD Chính trị, gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp em
hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: Lại Trang Huyền
- giảng viên khoa Lý luận chính trị đã hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình để
em hoàn thành khóa luận.
Từ lòng biết ơn sâu sắc của bản thân, em xin gửi tới các thầy giáo, cô
giáo, gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành
khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Lò Thị Kiên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................................5
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................5
4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................5
4.2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................5


5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................6
6. Những đóng góp của đề tài ...........................................................................................6
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC CỦA
ĐẢNG TA ........................................................................................................................7
1.1. Cơ sở lý luận ..............................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc .........................................................................................................................7
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa ................................................................................................................................11
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc ...13
1.1.4. Quan điểm của đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa ..........................16
1.2. Cơ sở thực tiễn .........................................................................................................23
1.2.1. Thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa trước thời kỳ đổi mới ........................23
1.2.2. Một số vấn đề mới trong thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc ...................................................................................................25
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG GIAI
ĐOẠN (2001 - 2011)......................................................................................................28


2.1. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những
năm (2001 - 2006)...........................................................................................................28
2.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng................................................................................28
2.1.2. Kết quả của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trong những năm 2001-2006..............................................................................30
2.1.2.1. Những thành tựu ................................................................................................30
2.1.2.2. Hạn chế ..............................................................................................................33
2.2. Chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc trong những năm 2006-2011............................................................36
2.2.1. Mục tiêu tổng quát ................................................................................................36
2.2.2. Phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa ...................................................38
2.2.3. Một số quan điểm chỉ đạo của Đảng ....................................................................39
2.3. Nhiệm vụ chủ yếu ....................................................................................................42
2.4. Kết quả .....................................................................................................................51
2.4.1. Thành tựu ..............................................................................................................51
2.4.2. Hạn chế .................................................................................................................53
CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM, PHƯƠNG HƯỚNG
VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN,
ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC ..................................................................................57
3.1. Nguyên nhân ............................................................................................................57
3.1.1. Nguyên nhân của những thành tựu.......................................................................57
3.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế..........................................................................59
3.2. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu.......................................................................61
3.2.1. Phải mở cửa hội nhập những giá trị tiên tiến của nhân loại, giữ gìn bản sắc văn
hóa truyền thống .............................................................................................................61
3.2.2. Cần xác định được một quan niệm đầy đủ về khái niệm “văn hóa”, một cấu trúc
hợp lý về vị trí và các thành tố của văn hóa, một hệ giá trị thích hợp ...........................62
3.2.3. Cần phải biết kết hợp giữa ba thành tố chính trị, kinh tế, văn hóa trong quá trình
phát triển..........................................................................................................................63
3.2.4. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chỉ có thể được xây dựng với hai
điều kiện ..........................................................................................................................64


3.3. Phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc ....................................................................................................................................65
3.3.1. Phương hướng.......................................................................................................65
3.3.1.1. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa
dạng .................................................................................................................................65

3.3.1.2. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hoá truyền thống, cách mạng.............................................................................66
3.3.1.3. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng ............................................................67
3.3.1.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá ..............................67
3.3.2. Giải pháp ...............................................................................................................68
3.3.2.1. Mở rộng cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước
và phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ....................................68
3.3.2.2. Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa................................69
3.3.2.3. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. .....................................................................71
KẾT LUẬN ....................................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................76


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi
trọng lĩnh vực xây dựng, phát triển văn hóa. Điều đó thể hiện chủ trương có tính
xuyên suốt của Đảng ta là không ngừng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho
nhân dân. Nói về chủ trương này Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991 (được Đại hội VII thông qua) lần đầu tiên đưa
ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có
tính chất dân tộc, có tính đảng, tính nhân dân đã được nêu ra trước đây. Cương
lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp,
phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; khẳng định và
biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân - thiện - mỹ theo quan
điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém; khẳng định tiếp tục tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế
giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo

trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn
hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của
loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII, VIII, IX, X, XI và nhiều nghị quyết Trung ương, kết luận của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị các khóa tiếp đã xác định văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát
triển. Đây là một tầm nhìn mới về văn hóa phù hợp với tầm nhìn chung của thế
giới đương đại.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo
quá trình phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội
nghị Trung ương 9 khóa IX (1/2004) xác định thêm “phát triển văn hóa đồng bộ với
phát triển kinh tế”. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (7/2004) đặt vấn đề bảo đảm sự
gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là
then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
1


Đây chính là bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về vị trí của xã
hội và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công tác khác.
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đã nhận định về sự biến đổi của văn hóa
trong quá trình đổi mới. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi
mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội,
Do đó, phạm vi, vai trò của dân chủ hóa - xã hội hóa văn hóa và của cá nhân
ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và
quản lý công tác văn hóa của Đảng và Nhà nước.
Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên
sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và thác

ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển. Bác Hồ của chúng ta đã đúc kết:
“Dân ta có một lòng nông nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [24, tr.17].
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững
của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường
xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề
kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa
phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu
gương người tốt việc tốt.
Nguồn nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa.
Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái
mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn,
phát huy cội nguồn. Cội nguồn của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.
Để giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần đẩy
mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thực sự coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn 20012011” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua gần 30 năm. Quá trình triển khai
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đến nay đã hơn 15 năm. Thực tiễn xây dựng, phát triển
văn hóa ở nước ta đang xuất hiện nhiều vấn đề cần nhận thức và giải quyết.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đại hội chỉ rõ: “Kế thừa và phát huy truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người”...[9, tr.10].
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm, đà bản sắc dân tộc tiếp
tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của
Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã
chỉ rõ: “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng về “xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [12, tr.239]. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội” [13, tr.114].
Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Gắn kết chặt chẽ hơn với phát triển kinh tế xã hội. Làm cho văn hoá thấm
sâu và mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách
con người Việt Nam. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị
văn hoá trong thanh niên, sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống,
năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá Việt Nam. Đầu tư cho việc bảo tồn,
tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, di sản văn hoá vật thể, phi
3



vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn
di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần tự nguyện, tính tự quản của nhân
dân trong xây dựng văn hoá.
Từ định hướng của Đảng hoạt động nghiên cứu về văn hóa đã diễn ra sôi
nổi rộng khắp cả nước, ngày càng đi vào chiều sâu thu hút sự quan tâm chú ý
của nhiều học giả khoa học với các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Cơ sở
văn hóa Việt Nam và bản sắc văn hóa Việt Nam” (1998) của GS Trần Quốc
Vượng; Văn hóa và văn hóa thế kỷ mới của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, đã
đưa ra nhiều cách hiểu, nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa và các cách tiếp
cận nghiên cứu về văn hóa phong phú, đa dạng. Đó là những tài liệu tác giả tham
khảo định hình cho mình một quan niệm đúng đắn về văn hóa được sử dụng
trong khóa luận.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của văn hóa trong thời kì đổi mới
đất nước, đồng thời khắc phục loại bỏ những quan niệm sai lầm về văn hóa đã có
các công trình nghiên cứu như: Đặc biệt liên quan đến công tác xây dựng phát
triển văn hóa có tác phẩm “Đời sống mới” của Chủ Tịch Hồ Chí Minh dưới bút
danh Tân Sinh, vào tháng 3 năm 1947, với mục đích làm thế nào cho đời sống của
dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn; Văn hóa và cách
tiếp cận mới (1991) của Phan Ngọc; Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn xây dựng
đời sống văn hóa ở nước ta (1999) của GS Hoàng Vinh; Những vấn đề xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở hiện nay (1998) của Nguyễn Văn Hy; “văn hóa và xây
dựng đời sống văn hóa” của TS Nguyễn Hữu Thức...
Vấn đề xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm, đà bản sắc dân tộc cũng thu
hút được nhiều tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn tốt nghiệp,
luận văn thạc sĩ như: “Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” của tác giả Nguyễn Hồ Thanh; “Nhận thức về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn hay “Bản sắc
văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Đức Ngọc;
“Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc trong thời kì đổi mới” của tác giả Lê Thị Hồng; “Đảng bộ huyện Quảng
xương (Thanh Hóa) lãnh đạo tổ chức, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở giai
đoạn 2001-2010” của tác giả Bùi Thị Thu; “Đảng bộ huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn
4


La lãnh đạo tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện
nay” của tác giả Lừ Thị Liên…
Nhìn chung những công trình trên đã khẳng định tầm quan trọng của việc
xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nêu bật được
sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thể hiện bằng đường lối, chính sách phát
triển và sự vận dụng chính sách đó vào trong thực tiễn. Tuy nhiên xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một vấn đề rất rộng và phong
phú, vẫn còn nhiều nội dung cụ thể mà các nhà nghiên cứu chưa đề cập tới.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã có nhiều gợi ý giúp tôi định hướng và
xác định các mục tiêu nghiên cứu phù hợp cho khóa luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần tổng kết một bước các thành quả của hoạt động xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng trong giai đoạn 2001-2011
Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác lãnh đạo, tổ chức
xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về cơ sở khoa học của đường lối xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng ta.
Tổng kết thực trạng, những thành tựu và hạn chế khó khăn trong quá trình
xây dựng. Từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
lãnh đạo, tổ chức xây dựng các mặt của nền văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình Đảng lãnh đạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Kết quả của quá trình đảng lãnh đạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 2001 - 2011, những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5


Quá trình Đảng lãnh đạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn từ 2001 - 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để lý giải các vấn đề nghiên cứu.
Đề tài còn sử dụng một số phương pháp: Phương pháp lôgíc và lịch sử,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa… Đồng thời có
kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan trên cơ sở chọn
lọc và nâng cao.
6. Những đóng góp của đề tài
Làm sáng tỏ quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên học tập
và giảng dạy tại trường Đại học Tây Bắc và những ai quan tâm đến lĩnh vực xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận gồm
có ba chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học của đường lối xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng ta.
Chương 2: Quá trình Đảng lãnh đạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn 2001-2011.
Chương 3: Nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, phương hướng và giải pháp
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc
Khái niệm văn hóa
Tiến trình lịch sử của nhân loại cho thấy, ngay từ thuở sơ khai, văn hóa đã
là nền tảng, là động lực của quá trình phát triển của toàn thể cộng đồng nói
chung và từng cá nhân trong cộng đồng nói riêng. Văn hóa đã trở thành một chủ
đề thu hút sự quan tâm chung của toàn thể cộng đồng nhân loại chứ không phải
là một vấn đề riêng của giới nghiên cứu học thuật nữa.
Trong tiếng việt: “văn hóa là danh từ có nội hàm khá rộng và phức tạp.
Người ta có thể hiểu văn hóa như là một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng
cũng có thể hiểu văn hóa như lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa
như trình độ học vấn mà mỗi công nhân viên chức vẫn ghi trong lý lịch công chức
của mình” [32, tr.145].
Đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, tùy thuộc vào những
không gian thời gian khác nhau và những tác giả khác nhau điều đó chứng tỏ

tính đa dạng và phong phú và tính luôn biến đổi của văn hóa. Bản thân thực thể
văn hóa đã trở thành đối tượng cho nhiều nhà nghiên cứu, văn hóa không còn
giới hạn trong khuôn khổ của một khoa học mà là sự đa chiều của nhiều khoa
học. Điều này đã dẫn đến có quá nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa được đề
cập đến ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Quả thật văn hóa là một khái niệm
có nội dung rất phong phú và đa dạng, qua đó cho thấy việc xác định khái niệm
văn hóa không đơn giản bởi các tác giả khác nhau thường hiểu nội dung của nó
khác nhau tùy vào góc độ tiếp cận và tùy thuộc vào việc xuất phát từ cứ liệu
riêng, mục đích riêng phụ thuộc vào mục đích cần nghiên cứu.
Trong quyển “Nhân chủng học văn hóa”, giáo sư Richley H.Crapo cho
rằng hai nhà khoa học Mỹ, Knoibơ (A.L.Krober) và Klúckhôn (C.L.Kluckhohn)
7


đã khảo sát 158 định nghĩa về văn hóa. Hai ông quan niệm: “Văn hóa là một loại
hình hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng và
nó hình thành thành quả độc đáo của nhân loại khác nhau với các loại hình khác,
trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra” [33, tr.15].
Năm 1871, E.B.Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con
người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [33, tr.15].
Ở Việt Nam văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng
phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có
liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con
người làm nên lịch sử…(văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị, tư tưởng và tình
cảm; đạo đức với phẩm chất; trí tuệ và tài năng; sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái
mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức
đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [28, tr.17].

Cái khó khi xem xét khái niệm văn hóa ở chỗ nhiều khi người ta lẫn lộn
khái niệm văn minh với văn hóa đưa đến nhận thức lệch lạc về phát triển. Văn
hóa gắn bó chặt chẽ với văn minh, là “linh hồn của văn minh” [30,tr.11], thể
hiện “trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc
trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại” [33,tr.19].
Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả nước
ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai
nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì văn hóa là một phức hệ tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm…
khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc
gia, xã hội… văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền
thống tín ngưỡng. Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ
thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng,
khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng.
8


Như vậy UNESCO đã đưa ra một cách hiểu chung nhất về văn hóa: “Văn
hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quan, sống động mọi mặt của cuộc sống
mỗi cá nhân và cộng đồng diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua
nhiều thế kỷ, quá trình đó đúc kết thành các giá trị, truyền thống, lối sống mà
các dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Các giá trị nói trên tạo thành
nền tảng tinh thần của xã hội, được thấm nhuần trong từng con người và cộng
đồng, được trao truyền nối tiếp qua các thế hệ” [31,tr.23].
Nhà nghiên cứu Hồ Sĩ Quý thì cho rằng: “Văn hóa, nói một cách giản dị, là
những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta phân biệt
được các dân tộc khác nhau. Thông qua mỗi một chu kì của sự phát triển, dân tộc
đó tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại gọi là bản sắc hay
còn gọi là văn hóa” [21,tr.103].

Theo GS.VS Phạm Minh Hạc: “Nói đến văn hóa là phải nói đến con người
trước hết phải nói đến tình cảm, tư tưởng, tâm lý, tư duy, chính trị… Đó là cốt lõi của
văn hóa. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người. Con người tạo ra văn
hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người” [29,tr.9]
Từ những định nghĩa khác khau về văn hóa, có thể thấy rằng: Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa là nền tảng chi phối hành vi ứng xử
của con người với thế giới xung quanh, được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Như vậy khái niệm văn hóa
có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng có một điểm chung: Văn hóa
là hệ giá trị kết tinh từ sự sáng tạo, phát minh của con người, tạo thành nguồn
lực nội sinh của sự phát triển.
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Nền văn hóa tiên tiến đó là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ xã hội mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ, là tiền đề quan trọng cho sự
phát triển văn hóa, tạo động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của
9


quần chúng nhân dân. Đó là nền văn hóa mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc,
phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và con người, giữa con người với
tự nhiên, phát triển vì sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người.
Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) đã khẳng định tầm quan trọng
của văn hóa dân tộc và đưa ra chủ chương “Xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [12, tr.55].
Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa chứa đựng những yếu

tố tạo ra sức sống, bản lĩnh dân tộc, bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước
và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường của dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - xã hội - Tổ quốc;
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc không phải là hình thức bên ngoài, không
phải khi ta tái hiện lại những lệ làng xưa, những ngày lễ lạc cúng bái từ các đình
chùa, tổ chức những lễ hội với trang phục lòe loẹt, cờ phướn đủ màu… thì ta sẽ
giữ gìn được bản sắc văn hóa. Văn hóa dân tộc phải được hiểu bằng chiều sâu
trong tâm hồn con người, trong nếp sống, trong cách ứng xử, trong nếp nghĩ đặc
thù của người Việt Nam. Cái nếp nghĩ và nếp sống ấy nó lặn sâu trong từng mỗi
con người, và sẽ khó thể nhận biết nếu nó không có môi trường bùng dậy.
Trong bản sắc văn hóa dân tộc thì bản là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái
hạt nhân của một sự vật, còn sắc là cái thể hiện ra bên ngoài. Nói bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những
giá trị hạt nhân của dân tộc Việt Nam. Nói những hạt nhân giá trị tức là chỉ nói
tới những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc
đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam từ lĩnh
vực văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, cho đến những
sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hàng ngày của con người.
Văn hóa mang bản sắc dân tộc, nhưng “bản sắc dân tộc phát triển theo
những điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế và chính trị, nó cũng phát triển theo
quá trình xâm nhập văn hóa, trước hết là theo sự tiếp nhận tích cực từ ngoài vào.
Nói chung, bản sắc dân tộc là một động thái, sức sống bên trong của một dân
10


tộc, một quá trình thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo, từ mình và từ
sự tiếp nhận” [20,tr.48].

“Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc đáo của truyền
thống, tâm hồn, cốt cách, lối sống… của một dân tộc chứa đựng những tinh hoa
của quá khứ kết hợp với những cái tốt đẹp của hiện đại. Nền văn hóa đó phải
phát triển trên cái nền những sắc thái riêng đã trở thành bản sắc của chính nó.
Nếu không, trước xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng áp đặt văn hóa được truyền
bá bởi sức mạnh vật chất và phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ biến văn hóa của
các quốc gia dân tộc thành “cái bóng” của nền văn hóa khác” [35,tr.164].
Bản sắc văn hóa chính là tính đặc thù dân tộc của nền văn hóa. Bản sắc
dân tộc được thể hiện, được lưu giữ trong văn hóa, định hướng cho sự phát triển
của nền văn hóa dân tộc.
Chúng ta xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc là chúng ta phải biết giữ lại cái gì thuộc về đặc thù của chính mình
và biết tiếp thu những cái hay của để hòa vào dòng chảy văn hóa của chúng ta. Như
vậy, bàn về bản sắc văn hóa dân tộc là một việc hết sức khó khăn. Biết bao nhiêu công
trình và bút mực nhằm tập trung vào câu hỏi “bản sắc dân tộc là gì?”, nhưng cuộc hành
trình truy tìm này vẫn còn tiếp tục. Bản sắc văn hóa dân tộc bao hàm những mặt được
hình thành và gắn bó với dân tộc từ thuở xa xưa, các mặt này được duy trì theo tiến
trình của lịch sử. Đó là các kiểu quan hệ hay một kiểu lựa chọn riêng của một cộng
đồng về một phương thức ứng xử nào đó, khiến cho mỗi dân tộc hiện ra với những
nét độc đáo nhằm phân biệt với các dân tộc khác.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc nhằm tạo lập một nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu
cơ giữa tính chất “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”. Tính chất tiên tiến và bản
sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam có mối quan hệ biện chứng, chúng tác
động lẫn nhau, quy định lẫn nhau.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa
Khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ
bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần” [4,tr.25]. Với ý nghĩa như vậy,
11



theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn
hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong
sản phẩm vật chất.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tinh thần. Văn hóa
tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, nói tới văn hoá là
nói tới con người, tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con
người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hoá có mặt
trong mọi hoạt động của con người, dù đó là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế,
chính trị - xã hội, hay trong tư tưởng, tinh thần... Văn hóa trong xã hội có giai
cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội
và của mỗi giai cấp khác nhau, nhất là của giai cấp thống trị là yếu tố quyết định
hình thành các nền văn hóa khác nhau. Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội
dung, tính chất của văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi
phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật
quản lý các hoạt động văn hóa. Kinh tế là cơ sở của nền văn hóa còn chính trị là
yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của nó, tạo nên ý thức hệ của nền văn
hóa. Chính vì vậy, một nền chính trị lạc hậu tất yếu sẽ không tạo ra một nền văn
hoá tiến bộ. Do đó, nền văn hoá của bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng
thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá
trị văn hoá mới. Trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống
trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của
văn hoá và tạo ra nền văn hoá của xã hội đó, hình thành những giai đoạn khác
nhau trong lịch sử phát triển văn hoá.
Sự ra đời của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình
phát triển của lịch sử, là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa hình thành. Chủ nghĩa xã hội được xác lập với hai tiền đề quan trọng là

tiền đề chính trị (giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền) và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được
thiết lập), đó cũng chính là những tiền đề hình thành nền văn hóa xã hội chủ
12


nghĩa. Vì thế, có thể khái quát: Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá
được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân,
do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao động thực sự trở
thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có vai trò hết sức to lớn, xây dựng nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống
tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh
hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ, lạc hậu. Mặt khác, xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa quần chúng nhân
dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn
hóa tinh thần. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao trình độ
văn hóa của quần chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn
hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao trình độ và văn hóa của quần chúng. Văn hóa vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa tạo những tiền đề quan trọng, nâng cao phẩm chất,
năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần chúng nhân dân lao động, tạo cơ
sở nâng cao năng suất lao động… Văn hóa xã hội chủ nghĩa với nền tảng là hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trở thành điều kiện tinh thần của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề văn hóa luôn có một vị trí quan trọng.

Những quan điểm của Người về văn hóa là kim chỉ nam để Đảng ta hoạch định chính
sách, sách lược phát triển văn hóa qua các giai đoạn xây dựng đất nước.
Với tầm vóc của một danh nhân văn hóa thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng quý báu về mọi lĩnh vực
trong đó có lĩnh vực văn hóa. Mang trong mình truyền thống văn hóa phương
Đông lại được tiếp thu tinh hoa của các nền văn minh trên thế giới, Hồ Chí Minh
đã đúc kết quan điểm của mình về văn hóa trong nhận định ý nghĩa của văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
13


phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá
là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” [23, tr.431].
Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã khái quát được nội dung rộng nhất
của phạm trù văn hóa. Nó không chỉ bao hàm hoạt động tinh thần của con người
mà còn cả những hoạt động vật chất mà trong đó chứa đựng, phản ánh tác động
của tư duy đến kết quả của hoạt động. Người còn ghi thêm : “Năm điểm lớn xây
dựng nền văn hóa dân tộc
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế” [23, tr.431]
Về vị trí, vai trò của văn hoá Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá có vị trí và vai
trò to lớn, quan trọng trong đời sống xã hội: Văn hoá là đời sống tinh thần của

xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; văn hóa ngang hàng với các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội; văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và
chính trị; văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Người từng nói đến
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”; “phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực
hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Phải “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người
mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc” [22, tr.173].
Người xác định rõ, trong đời sống xã hội có bốn vấn đề chủ yếu, quan
trọng ngang nhau có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau là kinh
tế - chính trị - văn hoá - xã hội. Một là, văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội,
thuộc kiến trúc thượng tầng. Trong quan hệ với chính trị, xã hội Hồ Chí Minh
cho rằng: chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói: “Xã hội thế
nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ,
14


thì văn hoá cũng bị nô lệ, bị tối tăm, không thể phát triển được”. Để văn hoá
phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước. Trong quan hệ với kinh tế
Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây
dựng văn hoá. Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển
văn hoá, kinh tế phải đi trước một bước. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá
và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi
trước”. Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính
trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Đứng
trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một
chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hoá vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát
triển xong mới phát triển văn hoá. Người cho rằng, văn hoá có tính tích cực, chủ
động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và
chính trị. Người nói: “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho

chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [1, tr.121].
Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hoá phải tham gia thực hiện
nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy chính trị và phát triển kinh tế. Văn hoá không thể
đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị
và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. quan điểm này không chỉ định hướng cho
việc xây dựng một nền văn hoá mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi
hoạt động văn hoá. Văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có
nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hoá, điều mà chủ nghĩa xã hội
và thời đại đang đòi hỏi. Văn hoá có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn
thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển như một động lực. Văn hoá ở trong kinh
tế và chính trị, có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hoá. Như vậy:
Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tác động qua lại lẫn nhau, trong đó văn hoá
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Hồ Chí Minh ý thức rõ ràng về giá trị văn hóa dân tộc - văn hóa tinh thần
và văn hóa vật chất. Bắt đầu vào con đường hoạt động cách mạng, Người đã chú
ý tới vấn đề “càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin càng phải coi trọng những
15


truyền thống tốt đẹp của cha ông”. Người ca ngợi truyền thống yêu nước,
thương người, tinh thần dân chủ, tinh thần quốc tế, đoàn kết, yêu đời, lạc quan,
nhất là ngợi ca các anh hùng và danh nhân Việt Nam. Người giáo dục: “Dân ta phải
biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” và khẳng định “phát huy vốn cũ
quý báu của dân tộc”, tức là khôi phục cái gì tốt, cái gì không tốt thì phải loại dần ra,
tránh tình trạng khôi phục cả đồng bong, rước xách thần thánh. Người khẳng định
truyền thống “nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”.
Đối với Hồ Chí Minh, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, đồng thời
phải tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, tôn

trọng phong tục tập quán, văn hóa của các dân tộc ít người. Nói đến bản sắc dân
tộc và để văn hóa dân tộc có điều kiện phát triển, Hồ Chí Minh cho rằng: Văn
hóa Việt Nam có ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa phương Đông và phương Tây
có cái gì tốt ta phải học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy
kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam
thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ.
1.1.4. Quan điểm của đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Văn hóa là lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần, một lĩnh vực cực kỳ phức
tạp, phong phú. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề phát triển văn
hóa, coi văn hóa là động lực của sự phát triển. Đặc biệt, từ khi Đề cương văn hóa của
Đảng (1943), trong từng giai đoạn cụ thể, Đảng ta luôn có những quan điểm chỉ đạo
đúng đắn trong việc phát triển văn hóa. Cụ thể như sau:
Thời kỳ 1943 - 1954
Đầu năm 1943 Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (thuộc huyện
Đông Anh, Phú Yên) đã thông qua bản Đề cương văn hoá Việt Nam do đồng chí Tổng
Bí thư Trường Chinh trực tiếp dự thảo. Đề cương xác định lĩnh vực văn hóa là một
trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam, và đề ra ba
nguyên tắc của nền văn hóa mới là Dân tộc hóa (chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và
thuộc địa), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại
hoặc xa rời quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa
phản tiến bộ, trái khoa học).

16


Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà:
Một là, nhân dân đang đói - Ngoài những kho chứa thóc mà Pháp, Nhật vơ
vét của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích

cấy lúa để trồng thầu dầu, đay và những thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến
tranh của chúng. Hơn nữa, chúng ta còn tìm thấy hai kế hoạch của bọn cầm
quyền Pháp với mục đích gây nạn đói, để ngǎn trở phong trào yêu nước và bắt
buộc đồng bào chúng ta phải làm việc như nô lệ. Hơn hai triệu đồng bào chúng
ta đã chết đói vì chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản
xuất lúa gạo. Điều đó càng làm cho tình hình trầm trọng hơn. Những người thoát
chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống. Tôi đề nghị với
Chính phủ là phát động một chiến dịch tǎng gia sản xuất. Trong khi chờ đợi ngô,
khoai và những thứ lương thực phụ khác, phải ba bốn tháng mới có, tôi đề nghị
mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ǎn
một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo.
Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn
thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trǎm đồng bào chúng ta mù
chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc
ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để
chống nạn mù chữ.
Vấn đề thứ ba - Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi
đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp.
Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến
pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển
cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có
quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống…
Vấn đề thứ tư - Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc
phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói
xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ
cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc
chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
17



xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục
lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.
Vấn đề thứ nǎm - Thuế thân, thuế chợ, thuế đò, là một lối bóc lột vô nhân
đạo. Tôi đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế ấy. Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút
thuốc phiện.
Vấn đề thứ sáu - Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào
Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín
ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết [27, tr.121-123]
Với những nhiệm vụ cấp bách trên, trong thời kỳ này, chúng ta đã đề ra
chủ trương:
Cuộc vận động thực hiện đời sống văn hoá mới. Đầu năm 1946 Ban Trung
ương vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy
tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè... mà tổng thư ký là nhà Văn
Nguyễn Huy Tưởng. Đến tháng 3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu đời sống mới giải
thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hoá quan trọng này.
Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong chỉ thị “Kháng chiến
kiến quốc” ra ngày 25/11/1945 của Ban thường vụ Trung ương Đảng, trong bức thư
về “Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện
nay” của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946 và tại
báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam” trình bày tại Hội nghị văn hoá toàn
quốc lần thứ hai tháng 7/1948. Đường lối đó gồm các nội dung:
Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc.
Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa
học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là Dân tộc, Dân chủ.
Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học, trung học, cải cách
việc học theo tinh thần mới.
Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới.
Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ
bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái
tốt của văn hoá thế giới.

Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng
chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
18


Thời kỳ năm 1955 - 1986
Trong văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) nêu rõ đường lối xây dựng
nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách
mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và
cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá tư
tưởng, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc khoa học - đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định “Xây
dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản động
của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc lột” [7, tr.88]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn
hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính
Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Đại hội V cũng trình bày rất đầy đủ về khái niệm “Con người
mới xã hội chủ nghĩa” và đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm
văn hoá”. Lúc này đây, Đảng và Nhà nước cũng cần Nhiệm vụ văn hóa: cụ thể :
“Cải cách giáo dục
Phát triển khoa học, văn hóa, nghệ thuật
Giáo dục tinh thần tập thể, xóa bỏ tàn dư phong kiến” [6,tr.99]
Như vậy, từ rất sớm Đảng ta đã nhận thức được vai trò của văn hóa. Văn
hóa là một dòng chảy liên tục, luôn đổi mới, tiếp nhận những yếu tố mới và cũng
luôn tự đào thải những yếu tố lỗi thời, những giá trị không còn ý nghĩa đối với

đời sống.
Là sản phẩm của một dân tộc có nền văn hóa lâu đời với một truyền thống
trọng văn, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
biết coi trọng văn hóa với những chủ trương, đường lối khá cụ thể phù hợp với
từng giai đoạn:

19


Nếu như ở giai đoạn tiền khởi nghĩa vào năm 1943, Đảng đã có Đề cương
văn hóa Việt Nam với phương châm sáu chữ “dân tộc - khoa học - đại chúng”
thì sau khi thống nhất đất nước, báo cáo phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu
chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đề cập đến việc “đẩy mạnh cách mạng tư tưởng
và văn hóa” và “xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” với tư cách là nhiệm
vụ thứ tám trong số chín nhiệm vụ và mục tiêu.
Sau đổi mới, lần đầu tiên cụm từ “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
đã được nhắc đến trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp vào tháng
6 - 1991. Dấu hiệu “có nền văn hóa tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc” được Cương lĩnh
xem là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
Tháng 1 - 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII) đã thông qua Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về một số nhiệm vụ văn
hóa, văn nghệ những năm trước mắt. Nghị quyết đã mở đầu một cách trang
trọng: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” [11,tr.58].
Nghị quyết này lại một lần nữa xác định: “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo
toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Tiếp tục tinh thần này, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng (họp cuối tháng 6 - 1996) đã đưa việc xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thành một trong 10 định hướng phát triển.
Trên cơ sở đó, ngày 16-7-1998, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo, mười
nhiệm vụ lâu dài và những nhiệm vụ cấp bách đến năm 2000, cùng với ba nhóm
giải pháp lớn cho toàn bộ quá trình. Đây là một nghị quyết chuyên đề sâu sắc và
toàn diện, có ý nghĩa chiến lược lâu dài về văn hóa của Đảng ta sau Đề cương
văn hóa Việt Nam năm 1943. Nghị quyết đã tạo ra một bước ngoặt trong tư duy
lý luận về vai trò của văn hóa, trở thành một cương lĩnh hành động trong việc
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
20


Quan điểm của Đảng về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, việc xây dựng một nền
văn hóa đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra như một trong những nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng. Tính chất của nền văn hóa được điều chỉnh nhiều lần
cho phù hợp với nội dung cách mạng của từng thời kì. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng, năm 1951, Đảng ta khẳng định phải “xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” [5, tr.76].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tính chất của nền văn hóa
đã được điều chỉnh lại là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất
dân tộc. Quan điểm này của Đảng được duy trì từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II (tháng 9 năm 1960) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6
năm 1991). Còn từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII trở đi tính chất của
nền văn hóa được xác định là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính chất tiên tiên và đậm đà bản sắc dân tộc có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tiên tiến là khoa học, là hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những

truyền thống văn hóa dân tộc tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống
tốt đẹp ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của đất nước. Trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, xây dựng nền văn hóa với hai tính chất tiên tiến và
đậm đà bản sắc dân tộc sẽ làm cho văn hóa Việt Nam trở thành một nền văn hóa
mang tầm thời đại, phục vụ tích cực cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời góp phần làm phong phú cho kho tàng
văn hóa của nhân loại.
Văn hóa tiên tiến phải chứa đựng trong nó tính chất hiện đại. Nền văn hóa
tiên tiến không dung nạp những nhân tố lạc hậu, lỗi thời. Nhưng hiện đại cũng
không đồng nhất với cái mới. Bàn về vấn đề này Hồ Chí Minh đã đưa ra quan
điểm: không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ
xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, không phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà
tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) cũng đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng
21


×