Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc thái ở huyện yên châu, tỉnh sơn la trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.25 KB, 56 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và gửi lời
biết ơn chân thành nhất tới cô giáo – Thạc sĩ Giáp Thị Dịu, giảng viên khoa Lí Luận
Chính Trị, trường Đại học Tây Bắc người đã hướng dẫn và giúp đỡ em tận tình trong
suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Phòng khoa học, Ban chủ nhiệm khoa Lí
Luận Chính Trị, thư viện trường Đại học Tây Bắc và các bạn sinh viên lớp k52 Đại học
giáo dục Chính Trị trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện, động viên và khuyến khích em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin trân thành cảm ơn các cơ quan ban ngành đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về tài liệu để
phục vụ cho đề tài: phòng dân tộc huyện Yên Châu, phòng Văn Hóa huyện Yên Châu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2015
Tác giả:

Hà Đức Anh


DANH MỤC VIẾT TẮT

Nxb :

Nhà xuất bản.

PGS :

Phó giáo sư.

CNH :


Công nghiệp hóa.

HĐH :

Hiện đại hóa.

VACR:

Vườn ao chuồng rừng.

ĐCS :

Đảng Cộng Sản.

NQTW :

Nghị quyết trung ương.

XHCN :

Xã hội chủ nghĩa.

VH – TT :

Văn hóa - Thông tin.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ..........................................................3
3.1 Mục đích nghiên cứu: .................................................................................................3
3.2 Nhiệm vụ:....................................................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................3
4.1 Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................................ 3
4.2 Phạm vi nghiên cứu: ...................................................................................................3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................................3
5.1 Cơ sở lý luận: ..............................................................................................................3
5.2 Phương pháp nghiên cứu: ...........................................................................................4
6. Đóng góp khoa học của luận văn .................................................................................4
7. Ý nghĩa của luận văn ....................................................................................................4
8. Kết cấu của luận văn .....................................................................................................4
CHƯƠNG 1: BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI TÍNH TẤT YẾU KHÁCH
QUAN CỦA VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NÓ .......................................................5
1.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái .............................................................................5
1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái ........................................................................5
1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái........................................................................................5
1.1.1.2. Người Thái ở Yên Châu ......................................................................................6
1.1.2. Văn hóa của dân tộc Thái. ......................................................................................6
1.1.2.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa. ....................................................................................6
1.1.2.2. Văn hóa của dân tộc Thái ....................................................................................8
1.1.2.3. Bản sắc của văn hóa dân tộc Thái. ....................................................................22
1.2. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc
Thái..................................................................................................................................23
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của việc kế thừa ............................................................ 23
1.2.2. Sự cần thiết phải kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái trong giai
đoạn hiện nay ..................................................................................................................25



CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA
DÂN TỘC THÁI Ở YÊN CHÂU TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY ................................................................................................................................ 27
2.1. Thực trạng của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở huyện
Yên Châu tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. Nguyên nhân của nó. .......................27
2.1.1. Thực trạng của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Yên
Châu tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay ....................................................................27
2.1.2. Nguyên nhân của thực trạng .................................................................................36
2.2. Giải pháp nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Yên Châu
tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. ............................................................................39
2.2.1. Một số định hướng lớn. ........................................................................................39
2.2.2. Một số giải pháp cơ bản........................................................................................42
2.2.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, xây dựng cơ sở vật chất của văn
hóa của đồng bào dân tộc Thái ở Yên Châu...................................................................42
2.2.2.2. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho hoạt động văn hóa ..43
2.2.2.3. Nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc Thái ở Yên Châu. ............................... 43
2.2.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao làm công tác văn hóa ......................44
2.2.2.5. Nâng cao ý thức giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa trong cộng đồng
dân tộc Thái ở Yên Châu ................................................................................................ 45
2.2.2.6. Lập kế hoạch cụ thể, toàn diện và lâu dài cho công tác gìn giữ, kế thừa và phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Yên Châu........................................................46
2.2.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác quản lý văn hóa
nói chung; sự quản lý của các cấp chính quyền trong công tác quản lý các di sản văn
hóa nói riêng của đồng bào dân tộc Thái ở Yên Châu hiện nay ....................................47
KẾT LUẬN ....................................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................51


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của xã hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ
văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc
dân tộc thể hiện trong hệ giá trị của văn hóa dân tộc, nó biểu hiện và định hướng cho
sự lựa chọn trong hành động của con người. Những giá trị văn hóa là thước đo trình độ
phát triển và đặc tính riêng của mỗi dân tộc “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là
một dân tộc thật sự hình thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thì nền văn
hóa ấy không có sức sống thật sự của nó” [3.16].
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa
đang diễn ra lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc
gia khác không thể không tham gia vào xu thế đấy. Kinh tế thị trường với những ưu
điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của
các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc
Thái ở Yên Châu. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống của
người Thái, còn có những yếu tố không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu
văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái nói chung, và
người Thái ở Yên Châu nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn
giữ được bản sắc. Vấn đề khác quan trọng hơn cả, đó là chúng ta đang phấn đấu để
có được sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, các vùng miền trên cả nước. Để
đạt được điều này phải kết hợp nhiều yếu tố, trong đó văn hóa chiếm vai trò, vị trí
hết sức quan trọng, không thể có bình đẳng dân tộc nếu như không giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta, bởi lẽ: "Vấn đề dân tộc là vấn
đề văn hóa, đừng tìm vấn đề dân tộc ở chỗ khác" [7.10].
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần công sức
nhỏ bé vào mục tiêu của cả nước nói chung, và huyện Yên Châu nói riêng, tôi chọn
vấn đề “Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Huyện Yên
Châu, tỉnh Sơn La Trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

1



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm tiêu biểu như:
"Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994.
"Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002.
"Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc",
Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa
Thông tin, 2003.
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình:
“Nghệ thuật trang phục Thái”, Lê Ngọc Thắng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
1990. "Văn hóa Thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội, 1995."Bản Mường - một cấu trúc xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học
trình bày tại hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996),
Cầm Trọng. Đề tài khoa học KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa Bản dân tộc Thái Đen,
trên cơ sở đó đề xuất nội dung, giải pháp xây dựng mô hình Bản văn hóa", 1999,
UBND tỉnh Sơn La. "Vài nét về người Thái ở Sơn La", Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội, 2002.
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm
chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Thái ở
nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá
trị văn hóa, phong tục tập quán của người Thái (nói chung), người Thái ở Yên Châu
(nói riêng) nhằm giới thiệu về người Thái; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn
hóa dân tộc Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung
hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; đã đề cập đến thực trạng và một số giải
pháp cho sự phát triển văn hóa các dân tộc Tây Bắc nhưng cũng chỉ là những giải pháp
mang tính định hướng chung cho các dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa
dân tộc Thái ở góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới

góc độ triết học, chưa bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Thái một cách khái quát.
Vì thế tôi chọn tôi chọn đề tài “Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân
tộc Thái ở Huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La Trong giai đoạn hiện nay” để tìm hiểu và
2


đi sâu để thấy rõ hơn được bản sắc văn hóa đân tộc Thái, và trong quá trình hiện đại bị
ảnh hưởng hưởng như thế nào đến bản sắc văn hóa của dân tộc. Để nêu ra những giải
pháp phương hướng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thái hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái
hiện nay (qua thực tế ở huyện Yên Châu), luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản
nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở huyện Yên Châu, tỉnh
Sơn La trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ:
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái và tính tất yếu khách quan của
việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái.
Hai là, đánh giá thực trạng vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái
ở Tây Bắc hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế...khảo sát ở huyện Yên Châu).
Ba là, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và đề ra một số giải pháp cơ bản, nhằm
kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Yên Châu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là văn
hóa dân tộc Thái ở huyện Yên Châu tỉnh Sơn La, trên góc độ triết học.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Thái ở

Yên Châu mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá
trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái ở Yên Châu nhằm kế thừa và
phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận:
Thực hiện đề tài này, chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa và
chính sách phát triển văn hóa, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu.
3


5.2 Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch,
điều tra, so sánh... nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Đề tài góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Thái ở Yên Châu; phân
tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Thái dưới góc độ triết học. Qua
đó đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc
văn hóa của dân tộc Thái ở Yên Châu trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Đề tài giúp phần nào thấy được tầm quan trọng của bản sắc văn hóa của dân tộc
Thái nói chung và dân tộc Thái ở huyện Yên Châu nói riêng, và khẳng định ý nghĩa
những giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa và kế thừa nó.
Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu cho việc hoạch định chính sách và quản lý
văn hóa ở Yên Châu.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Đề tài
gồm 2 chương, 4 tiết.

CHƯƠNG 1: Bản sắc văn hóa của dân tộc thái tính tất yếu khách quan của việc
kế thừa và phát huy của nó.
CHƯƠNG 2: Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dan tộc Thái ở
Yên Châu tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay.

4


CHƯƠNG 1
BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN
CỦA VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NÓ
1.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái
1.1.1. Một vài nét về lịch sử dân tộc Thái
1.1.1.1. Lịch sử tộc người Thái
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự nhận
mình bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái.
Dân tộc Thái có dân số khá đông đảo, theo con số thống kê năm 1973 là trên 36
vạn người. Đến năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725 người sống trải khắp
vùng quê miền Tây và Tây Bắc Việt Nam. Bắt đầu từ phía Đông với miền đất người
Thái gọi là mường Lò quê tổ ở Tây Bắc tỉnh Yên Bái (nay chia thành ba huyện thuộc
tỉnh Yên Bái: Văn Chấn, Mù Căng Chải, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ). Sang phía Tây
gồm toàn bộ địa phận ba tỉnh Lai Châu, Điện Biên và Sơn La.
Theo truyền thống, Thái Đen và Thái Trắng có tục thờ Mẹ - Cha gắn với biểu
tượng thần linh Rồng - nước và Chim - cạn trong cúng Mường chéo ngược như sau:
Mường Thái Đen thờ: Mẹ - Rồng - nước > < Cha - Chim - Cạn
Mường Thái Trắng thờ: Mẹ - Chim - Cạn > < Cha - Rồng - Nước
Điều này cho thấy mối liên giữa văn hóa biểu tượng cội nguồn giữa người Thái
với truyền thuyết thủy tổ người Việt (Kinh): “Mẹ thủy tổ người Kinh là bà Âu Cơ
thuộc giống Tiên (Chim lạc) ở đất, và Cha thủy tổ là ông Lạc Long Quân thuộc loài
Rồng - nước (Thủy tộc (biển). Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con

trai, khi khôn lớn thì năm mươi con trai theo cha xuống biển và năm mươi con trai
theo mẹ về núi” [12. 23]. Từ đây, ta có thể hình dung được bức tranh về sự hình
thành, và phát triển văn hóa cội nguồn của hai nhánh. Người thuộc nhóm nói tiếng
Thái có liên hệ với Người Việt (Kinh) trong lịch sử hàng ngàn năm hình thành và
phát triển:
Trong khi Mẹ thủy tổ hay thần Mẹ của nhánh người Thái Trắng ở cùng nhóm
nữ với bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn thì Mẹ thủy tổ,
hay thần Mẹ của ngành người Thái Đen sẽ ở nhóm Nữ của tập đoàn người có đại diện
nhóm Nam là ông Lạc Long Quân mang biểu tượng Rồng - nước. Ngược lại, Cha thủy
tổ hay thần Cha của ngành người Thái Trắng cùng nhóm Nam là ông Lạc Long Quân
5


mang biểu tượng Rồng Nước thì Cha của nhánh Thái Đen sẽ ở nhóm Nam có đại diện
nhóm Nữ là Bà Âu Cơ trong tập đoàn người mang biểu tượng Chim - cạn [24].
Dân tộc Thái chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh lại chia thành nhiều nhóm
khác nhau:
Lịch sử phát triển của người Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn năm,
nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa lưỡng phân,
lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất.
1.1.1.2. Người Thái ở Yên Châu
Vào thế kỉ thứ XIII, tương đương với thời kì người thái di cư từ nước Lào sang
địa bàn Mường Sang (Mộc Châu), Yên Châu có tên gọi là Mường Vạt. Khi ấy, trung
tâm Mường Vạt đóng ở Chiêng Khoóng (nay thuộc tiểu khu 5 thị trấn Yên Châu) nên
Mường Vạt còn có tên gọi là Chiềng Khoóng. Ngoài ra, Mường Vạt cong có cách giải
thích nữa: Theo cuốn Người thái ở Tây Bắc Việt Nam của Cầm Trọng, người thái ngày
xưa theo Đạo Phật. Phật tiếng thái gọi là Vạt. Người Thái ở Yên Châu người ta gọi là
Thay Vạt. Trung tâm Mường Vạt là bản Mương Vạt nên có thể gọi Vạt tức là người tứ
đất Phật (Vạt) và theo đạo Phật (Mường Vạt là mường của người từ đất Phật sang).
Dân tộc Thái chia thành nhiều nhánh:

Thái Đen (Thay Đăm): Cư trú hầu hết ở các xã trong huyện như: Chiềng Dông,
Chiềng Sàng, Chiềng Pằn, Viêng Lán, Sặp Vạt, Chiềng Khoi, Chiềng Hặc, Mường Lựm,
Phiêng Khoài, Chiềng On, Yên Sơn và Thị trấn Yên Châu.
Thái Trắng: (Thay Đón hay Thay Khao) Cư trú chủ yếu ở 2 xã: Tú Nang, Lóng
Phiêng.
1.1.2. Văn hóa của dân tộc Thái.
1.1.2.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa.
- Văn hóa: Là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ này
không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các ngành khoa học khác
nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó cũng còn nhiều ý kiến, vì thế trên thế giới hiện
nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa
là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong
quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều
chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện
của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
6


Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử
dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [11. 431].
Ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai
nghĩa, hai cấp độ khác nhau: ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa
của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người tộc danh, là một chi tiết của
văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc
người (Nation) sống trong cùng một quốc gia.
Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so sánh nền

văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để xác định bản sắc
văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong tục, tập quán, lối
sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân, thiện, mỹ” [20.19]
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền
xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy
lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên
bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc.
Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là
nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân
tộc ấy sẽ mất tất cả” [21.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh
mất chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc
của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc
văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi
dân tộc.
- Bản sắc văn hóa:
Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành phẩm
cách đặc biệt của một vật [13].
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền văn
hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một dân tộc. Những
nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, vật thể
7


và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với chính điều kiện môi sinh mà dân
tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát triển khác nhau của một dân tộc.
Những giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó
không những không mất đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái
đẹp, cái phù hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn
hóa dân tộc mình, làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác. Khi nói đến một trong
những nét đặc trưng văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân tộc nào mà

không cần phải gọi tên.
Bản sắc văn hóa là một sức mạnh, là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân
năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản
sắc văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình:
Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể
mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được tiếng nói của
mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa
của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa
khóa của tự do, độc lập [2. 48].
“Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong sáng
tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với
điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…trong quá trình
vận động không ngừng của dân tộc đó” [6. 37].
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều tầng,
nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to lớn là
nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc. Nguồn nuôi dưỡng vô tận tâm hồn và đời sống
tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là kho của cải vô giá, di sản vô cùng quý báu
của văn hóa Việt Nam. Việc nhận diện đúng về bản sắc văn hóa mỗi dân tộc và các
dân tộc thành viên là việc làm hết sức có ý nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế thừa và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có sự chặt chẽ, hài hòa và thực hiện theo định hướng,
đường lối của Đảng, Nhà nước và ý thức dân chủ tự nguyện của nhân dân.
1.1.2.2. Văn hóa của dân tộc Thái
Nói đến văn hóa của dân tộc Thái là ta nói đến hệ thống những giá trị văn hóa do
chính cộng đồng tộc người đó tạo ra và là sản phẩm của con người bao gồm nhiều lĩnh
vực khác nhau: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa thiết chế xã hội...Như
8


đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ trình bày những giá trị văn hóa đặc
trưng thuộc về văn hóa của dân tộc Thái:

Trước hết, nói đến văn hóa của dân tộc Thái là phải nói đến một loại hình văn
hóa thung lũng. Bởi lẽ, với những đặc điểm đặc thù về điều kiện tự nhiên của miền
Tây Bắc đã hình thành nên một nền văn hóa tương ứng, đó là loại hình văn hóa thung
lũng.
Nói đến văn hóa thung lũng, nghĩa là muốn nói đến mối quan hệ giữa tộc người
này với môi trường sinh sống là thung lũng lòng chảo. Điều này cũng nói lên khả năng
thích nghi của con người với tự nhiên bằng văn hóa của mình. Văn hóa thung lũng của
dân tộc Thái có các đặc trưng sau:
Cảnh quan địa lý là những thung lũng lòng chảo lọt vào vùng núi cao, rừng sâu,
dầy khe, vực, sông suối cắt xẻ địa hình. Khí hậu hai mùa rõ rệt.
Vùng sườn dốc nằm ở vành đai của các lòng chảo thì làm nương theo các
phương pháp phát, đốt, chọc lỗ, tra hạt, có tác dụng bổ sung vào hệ thống trồng trọt.
Đây là đặc trưng chủ yếu nhất trong toàn bộ hệ thống văn hóa thung lũng của dân tộc.
Đây là nền văn hóa tiền công nghiệp, được hình thành từ lao động tự cung tự cấp,
chưa đạt tới trình độ trong đó chứa đầy chất men cần thiết để kích thích sự phát triển
xã hội.
Tóm lại, người Thái là một trong những dân tộc có khả năng thổi vào tự nhiên một
sức sống mới khác với tự nó. Khả năng ấy chính là chiều dầy của văn hóa phát triển thành
truyền thống. Giờ đây, khi mà khoa học phát triển mạnh và thì liệu có thể giữ gìn và phát
huy được dòng truyền thống này không Điều này còn phụ thuộc vào khả năng phát huy
bản lĩnh và bản sắc dân tộc đã tạo ra được các mô hình thích nghi mới trong hệ sinh thái
nhân văn của mình.
- Các giá trị văn hóa vật chất:
+ Văn hóa nông nghiệp: Sống với điều kiện tự nhiên môi sinh có nhiều điểm đặc
thù cho nên, định hướng tác động trong khai thác tự nhiên truyền thống của người Thái
là đồng ruộng lòng chảo và nương rẫy trên sườn núi. Hàng ngàn năm nay, dân tộc này
đã có những biện pháp dẫn thuỷ nhập núi điền, đúc rút được tập quán làm thuỷ lợi
bằng biểu tượng ngôn ngữ (điều mà không phải bất cứ cộng đồng người làm ruộng nào
cũng làm được). Người Thái có bốn chữ nói lên bốn giải pháp: Mương, Phai, Lái, Lin.
Yếu tố đầu tiên trong văn hóa mưu sinh của tộc người Thái là việc làm ruộng nước, nó

9


trở thành động lực phát triển lịch sử cộng đồng tộc người theo mạch vừa tụ cư, vừa
định cư, lan tỏa chung cho cả nhóm nói tiếng Thái.
Giải pháp nước (văn hóa Thủy lợi) được người ta đặt lên hàng đầu trong việc làm
ruộng nước.
+ Công cụ lao động: Trong sáng tạo văn hóa trên cánh đồng lòng chảo và làm
nương rẫy trên các sườn dốc, dân tộc này chỉ cần có bốn công cụ kép có lưỡi kim loại
là: Dao (mịt hay pạ), rìu (khoan), cày (thay), và mai (lủa).
Từ rất lâu dân tộc này đã coi con dao là công cụ lao động quan trọng bậc nhất
trong việc tạo ra những giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Có nó, người ta
lấy gỗ, tre dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày, dùng
để chế biến thức ăn, phát cây cỏ, làm nương rẫy...Trong cung cách làm ăn ấy, dao
được xem như công cụ vạn năng hầu như lúc nào cũng được người chủ mài sắc.
Cày và Mai là công cụ không thể thiếu được trong sản xuất trên đồng áng của
dân tộc Thái. Theo truyền thống, cày và mai là công cụ lao động của nam giới vì cho
rằng đây là công việc nặng nhọc, phụ nữ kiêng không sử dụng công cụ này. Ngoài dao,
rìu việc làm nương còn có các công cụ khác như chiếc cuốc, vách, thuổng. Công cụ để
gieo hạt là chiếc gậy vót nhọn để chọc lỗ tra hạt. Trong quá trình làm ruộng còn có
chiếc bừa, theo cách làm ăn xưa thường làm bừa răng gỗ. Công cụ thu hoạch gồm có:
liềm, nhíp, néo, ván đập lúa và quạt đan tay bằng tre, nứa...
+ Nhà ở: Theo truyền thống thì người Thái ở nhà sàn làm bằng gỗ, tre, nứa…lợp
bằng cỏ tranh. Họ hiểu, không chỉ riêng dân tộc mình ở nhà sàn, nhưng ở trong tâm
thức vẫn coi đây như một trong những nét văn hóa của dân tộc mình. Điều này được
biểu hiện trong câu tục ngữ: “nhà Thái - nhà có gác - đầu hồi có cột”. Nhà sàn của
người Thái không phải dùng đến một mẩu sắt nào trong thiết kế xây dựng. Thay vào
những cái đinh đóng là cả một hệ thống dây chằng, buộc, thắt khá công phu và tinh
xảo bằng lạt tre, giang, mây và một số loại vỏ cây chuyên dụng. Để nối các cột kèo,
người ta dùng những đòn dầm xuyên suốt các lỗ đục của các cột làm cho ngôi nhà rất

chắc chắn, đủ sức chống nắng, mưa, gió, bão... Nếp nhà sàn là một đơn vị không gian
chứa đựng tế bào của xã hội. Đó có thể là một gia đình nhỏ gồm một cặp vợ chồng và
con cái chưa đến tuổi trưởng thành, cũng có thể là tổ hợp gia đình lớn có từ hai cặp vợ
chồng trở lên và đàn con cháu của họ. Dù gia đình nhỏ hay lớn, đều có một sự thống

10


nhất cộng đồng tộc người trong giải pháp nội thất xử lý phân chia mặt bằng thành khái
niệm:
Phân đôi không gian dọc theo chiều đòn nóc thành hai phần. Tục ngữ Thái có
câu “đầu gối đất, chân kề nước” quy định tập quán nơi ngủ thống nhất quay đầu về
sườn núi, đó cũng là “mé đầu” hay “phía trên” của thân nhà; duỗi chân về phía cánh
đồng hay dòng suối, sông con, đây là “mé chân” hay “ phía dưới”. Từ đó, nẩy sinh
việc bố trí, sắp xếp thành một nửa là các gian ngủ của gia đình. Trong nửa phía trên
(đầu) chủ nhà bao giờ cũng nằm kề sát gian thờ tổ tiên, tục gọi là “ngủ cài hóng”. Nếu
là gia đình lớn thì tiếp đó là gian ngủ theo thứ tự con cả đến con thứ…nửa phía dưới
(chân) là nơi để tiếp khách, đặt bếp núc và giành cho sinh hoạt ban ngày.
Phân đôi bổ ngang theo chiều quá giang. Một bên là cầu thang dẫn lên lan can đi
vào cửa chính bên hồi để vào nội thất. Đầu tiên sẽ thấy “phía trên” có gian thờ tổ tiên
như được giấu kín trong buồng có vách ngăn - hóng; đối diện ở phía dưới có khoang
gọi là “gian cửa sổ tựa” để ngồi tựa hóng mát, tiếp khách lạ và quý, đọc và viết lách
khi cần thiết. Giữa nhà, nơi giáp với chân chỗ ngủ của chủ nhà thường đặt thêm một
bếp để sum họp gia đình. Nửa này tính từ phía giữa gian nhà đổ về phía lan can hồi
được gọi là “quản”, quy định giành chủ yếu cho các sinh hoạt đàn ông. Một bên cầu
thang dẫn lên sàn phơi và nơi đặt nước dùng. Sàn phơi là nơi để thanh thiếu nữ ngồi
kéo sợi, làm vải và là nơi ngồi tâm tình cùng người yêu vào buổi tối. Qua cửa chính
vào nội thất ở “phía dưới” sẽ tiếp ngay với bếp ăn hàng ngày và đối diện về “phía trên”
là nơi trang điểm và sinh hoạt của phái đẹp - gọi là “cửa sổ gương”. Nửa này tính từ
giữa nhà đổ về phía sàn phơi gọi là “chan” quy định giành chủ yếu cho các sinh hoạt

đàn bà, gắn với công việc nội trợ.
+ Vải vóc và các biểu hiện văn hóa: Theo truyền thống của dân tộc Thái, theo
phân công tự nhiên thì việc làm ra vải là lao động chủ yếu của nữ giới. Tập quán, xã
hội Thái đã rèn luyện cho người phụ nữ một tay nghề làm vải rất tài hoa, là con gái
Thái thì không được phép ngừng tay làm vải và phải đạt tới trình độ tinh xảo như câu
tục ngữ: “xấp đôi tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã thành hoa lá”. Nếp sống xưa
cho rằng: Biết làm vải thì mới là phụ nữ, bằng không thì cho dù người phụ nữ đó dù có
chăm chỉ mọi việc khác đến đâu, cũng bị xã hội cho là chây lười, thường thì không ai
muốn lấy làm vợ. Người đàn bà sành nghề làm vải thì được bản mường tặng danh hiệu
“Đàn bà tám cạnh sắc nét”.
11


Trong văn hóa dân tộc Thái, vải vóc chứa đựng bốn khái niệm:
Thứ nhất, nó được coi như vật tượng trưng cho phái đẹp. Người Thái có câu thành
ngữ “thân hình cao thanh, óng ánh trong, tựa giải lụa”, và cái nết của người đẹp đó là:
“Vui làm vui ăn. Vui quay xa thành sợi. Vui kéo sợi ươm tơ”.
Thứ hai, nó là vật dùng trong suốt cả cuộc đời một con người.
Thứ ba, vải vóc là vật tượng trưng cho sự giàu sang trong xã hội. Trong cuộc
sống thường ngày, người ta coi vải vóc là sản phẩm quý. Tuy giá trị của nó kém vàng,
bạc, châu báu nhưng xét về yếu tố xã hội chứa trong nó, thì các sản phẩm này có giá trị
như nhau. Bởi thế, hiện tượng coi tiền bạc hơn phúc đức cha, mẹ mới bị dư luận lên án
mạnh mẽ.
Thứ tư, vải vóc là văn hóa kỹ thuật mà người sản xuất phải trải qua quá trình hiểu
biết mới làm ra được. Bởi việc làm ra vải là cả một quá trình dài có thể chia làm hai
giai đoạn chính trong đó bao gồm nhiều những công việc khác nhau: Trước hết là
trồng bông và từ bông dệt thành vải. Sau đó là công đoạn nhuộm sợi cũng rất phức tạp
và cầu kỳ. Tấm thổ cẩm là một dải vải hoa văn dày, màu sắc tươi mát, phong phú,
trong đó, màu đỏ đóng vai trò chủ đạo được nhuộm bằng cánh kiến nấu pha với nhựa
cây rừng.

Khung cửi Thái không thể dệt được vải khổ rộng quá 50 cm, cách đo vải thì tính
bằng đốt tay, nắm tay, khuỷu tay, một bên sải và sải tay. Cứ 4 sải thì được một đơn vị
gọi là Chầu, 10 chầu một đơn vị gọi là Ton. Khi đã có vải vóc, người phụ nữ Thái lại
phải đảm bảo biến các nguyên liệu này thành sản phẩm tiêu dùng, đáp ứng các yêu cầu
khác nhau của đời sống. Điều này đòi hỏi ở họ có sự hiểu biết để thể hiện làm sao cho
mỗi thành phẩm có thể chứa đựng được bản sắc văn hóa dân tộc mình...
+ Trang phục: Người khác dân tộc đã không sai khi đã nhận xét rằng, người Thái
là một cộng đồng tộc người biết mặc và mặc đẹp. Trang phục của họ phân biệt theo
giới; trang phục thường ngày với lễ phục; khi chết và để tang; lúc đi làm ngoài đồng,
nương rừng với ở nhà; mùa nóng bức với những tháng đông lạnh giá trong năm; hai độ
tuổi chưa thành niên với khi đã trưởng thành và khi nhắm mắt xuôi tay.
Nam giới: Cách ăn vận truyền thống của nam giới dân tộc Thái là: Khi đã lớn thì
mặc quần ta, không dải rút mà khâu cạp để thắt dây lưng, quần chỉ có hai loại quần dài và
quần đùi. Áo thì có hai kiểu: thường ngày và lễ phục.

12


Thường ngày, mặc áo cánh mang tên “mở lòng” có đính cúc hoặc khuy tết bằng
dây vải, hai bên sườn giáp hông có đường xẻ để thân áo không bị bó sát vào người, ở
đây người ta đính thêm vật trang trí, gọi là “quả chỉ”. Mặt trước ta thấy túi ở mé dưới
hai vạt. Nếu là áo người Thái Đen thì có thể có hoặc không túi ngực bên trái, nhưng áo
người Thái Trắng ở phía Bắc thì phải có. Không phân biệt Thái Đen hay Thái Trắng,
bộ quần áo nam phục thường ngày thường là màu đen.
Lễ phục, kiểu quần không đổi, nhưng người ta mặc áo dài, cắt theo kiểu xẻ nách
tương tự như áo dài của người Kinh.
Nữ giới: Trang phục nữ Thái đượm vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này
luôn chiếm ưu thế rõ rệt trong các nét văn hóa độc đáo của dân tộc Thái. Nó không
những đẹp về kiểu dáng mà hơn hết, nó còn làm tăng vẻ đẹp trời ban cho người phái
nữ: “Y phục Thái nổi tiếng bởi sự hài hòa giữa cái che và cái phô ra, giữa cái giản dị

mà không kém phần lộng lẫy”[14. 34]. “Và cũng nhờ lẽ đó mà cụm từ “cô gái Thái”
đã trở thành ngôn ngữ biểu tượng văn hóa Việt Nam” [16. 145]. Đã là nữ giới đã
trưởng thành thì mặc váy khâu liền (váy ống) dài chấm gót chân, không có màu nào
khác ngoài màu đen. Mép dưới ở bên trong lòng váy thì được táp một dải vải bề rộng
từ 3 - 4cm, màu phổ biến là đỏ, ngoài ra có thể là màu xanh, vàng, hoa...nhưng tuyệt đối
không phải là màu trắng. Đầu váy có cạp, khâu bằng dải vải màu đỏ, trắng hoặc xanh,
miễn không đồng màu đen với thân váy để khi mặc dễ nhìn thấy phần bắt buộc phải dùng
dải thắt lưng phủ ở bên ngoài. Dải cạp là để gập mép sao cho váy bó sát thân eo, làm
đường thắt lưng nổi cộm rõ vòng eo.
Nói đến bộ trang phục nữ, ta không thể không kể tới dải thắt lưng dệt bằng sợi tơ
tằm có chiều dài hơn 2m. Nó không chỉ là vật để thắt giữ váy xiết vào thân mà còn là chỗ
để tạo dáng thắt đáy lưng ong của phái đẹp. Màu thắt lưng là tín hiệu xác định hai độ
tuổi. Nếu như ở tuổi niên thiếu đến tuổi 30 người ta dùng thắt lưng màu xanh, những lứa
tuổi sau đó chuyển sang màu tím.
Trang phục nữ Thái Đen còn có khăn Piêu màu đen, hai đầu có thêu những hoa
văn hình kỷ hà bằng chỉ nhiều màu sắc có những chùm hoa vải tết hoặc thêu gọi là cút.
Truyền thống cút piêu phải lẻ để xếp thành chùm 3, 5 để biểu thị sự trung thành của
người đàn bà với chồng con (số lẻ là tượng trưng cho sự chung thủy và số chẵn là lứa
đôi), không xếp chẵn vì cho rằng số chẵn đôi lứa rẽ hai ngả. Nữ Thái trắng không chít
khăn piêu mà thường mua khăn vuông len hoặc khăn bông trắng để cuốn.
13


Kiểu tóc của phụ nữ Thái cũng phân biệt hai ngành đen và trắng. Khi chưa
chồng, nữ Thái Đen búi tóc đằng sau gáy (khót phôm), khi có chồng thì búi tóc ngược
lên đỉnh đầu để hơi nghiêng về phía bên trái (tằng cẩu). Chồng chết, trong thời gian để
tang thì búi ở lưng chừng giữa đỉnh đầu với gáy gọi là búi tóc kiêng, hết tang lại búi
tóc ngược như khi chồng còn sống. Nữ Thái trắng thì không dùng tóc làm tín hiệu báo
có hoặc không chồng mà chỉ búi đằng sau hay cuốn vấn trên đầu, nhưng không vấn
bọc khăn như kiểu nữ người Kinh mà ở đằng sau, búi tóc được hạ xuống thấp để lăn đi

lăn lại trên vai.
+ Văn hóa ẩm thực:
Ăn: Trong tiếng Thái, lương thực gọi là Khảu (dịch sang tiếng việt là lúa, gạo,
cơm). Nếu như người Kinh cơm xôi (cơm nếp) là thứ ăn lót dạ hoặc dùng trong các
nghi thức tập quán như cúng lễ, cưới xin...thì người Thái coi xôi là cơm ăn thường
ngày. Đây là một nét đặc trưng và in đậm trong văn hóa tộc người. Công thức ăn uống
của người Thái là: xôi đồ chấm chẻo, măng rau đồ, thịt cá nướng, cơm lam, thịt - cá
làm chua, lạp sống hoặc chín, gỏi, mọk…
Từ gạo chế biến thành cái ăn đã biểu hiện rõ bản sắc cộng đồng tộc người. Cách
chế biến cổ xưa hơn cả là cơm nếp lam, cơm lam có mùi hương sắc đặc biệt và hương
vị thơm ngon bổ dưỡng.
Lương thực chính là xôi nếp, nên dụng cụ bếp núc chính là ninh đồng hay chõ.
Chõ để xôi cơm thì lấy khúc thân cây gỗ để đục, và đồ rau thì làm bằng khúc cây
bương. Trong gia đình người Thái ninh đồng là một trong bốn thứ của gia truyền, và
theo tập quán thì chiếc chõ còn là vật chứa đựng “điều cấm kỵ”. Dùng với cơm xôi,
người Thái có hệ thực phẩm được chế biến từ ba nguồn gọi chung: Rau, cá, thịt lấy
trong thiên nhiên hoặc do con người sản xuất ra. Ngoài ra, cá thịt thường được chế
biến bằng cách nướng với các loại gia vị riêng tạo nên mùi vị thơm ngon, độc đáo
riêng có của món ăn dân tộc Thái mà ai đã thưởng thức một lần thì không bao giờ
quên.
Uống: Người Thái đã biết uống trà từ rất lâu, nhưng đáng nói nhất là Rượu.
Rượu là thức uống trong các dịp vui buồn và là vật tượng trưng của các nghi thức.
Do đó, trong sinh hoạt cuộc sống, với ý nghĩa nào đó, dân tộc này đã xem nó như
một nghi thức cần thiết ngang tầm với cơm. Họ dùng rượu khi đón tiếp bà con và
tiếp khách, nghi thức và cúng lễ, cưới xin và hội hè, ngâm thuốc và để uống tăng
14


lực, cuối cùng là tang ma. Nhìn tổng thể một bản sẽ thấy không có ngày nào không
có người uống rượu, nên có thể coi đây là thức dùng quanh năm.

Rượu Thái có hai loại chính - rượu cất (lảu xiêu), rượu cần (lảu xá) và hai loại
phụ. Kỹ thuật làm rượu cũng rất công phu cầu kỳ, rượu làm ra rất thơm ngon (nổi tiếng
là rượu Mường Thanh, Điện Biên). Rượu cần và tục uống rượu cần là nét văn hóa rất
độc đáo của dân tộc Thái, mà hầu như ai cũng hâm mộ. Vị vừa ngọt, vừa cay và hăng,
thơm khó quên. Đồng bào mời rượu bằng những lời có cánh, bằng thơ, bằng hát và
bằng cả tấm lòng mình.
- Các giá trị văn hóa tinh thần:
+ Ngôn ngữ và văn tự: Người Thái là một cộng đồng tộc người có ngôn ngữ
riêng, có chung cội nguồn ngôn ngữ với tiếng nói của các dân tộc: Tày, Nùng, Lào,
Lự, Bố Y, Sán Chay ở Việt Nam; với tiếng Lào và Thái Lan; với tiếng Choang và
tiếng Thái ở miền Nam Trung Quốc. Về mặt cấu trúc ngôn ngữ, ta có thể thấy tiếng
Thái nổi bật lên một số nét cơ bản như sau:
Đây là thứ tiếng phát triển, đã sớm hình thành ngôn ngữ văn học và có thể diễn
đạt được sự vật tự nhiên, xã hội mà con người cần nhận thức. Đương nhiên, để thực
hiện điều đó người Thái đã du nhập, vay mượn các yếu tố ngôn ngữ sắc tộc khác.
Trong đó, có phần đóng góp của tiếng Việt hiện nay là quan trọng và chiếm tỉ lệ nhiều
nhất. Song, đây là một loại ngôn ngữ chưa được nghiên cứu một cách tường tận để có
thể có được một nền ngữ pháp cũng như từ điển. Do đó, ngôn ngữ Thái mới chỉ đạt ở
trình độ văn hoá dân gian, chưa có được một nền ngôn ngữ bác học.
Có ngôn ngữ, văn tự người Thái đã xây dựng được một nền văn hóa của mình. Có
thể coi đây là sự tổng kết quá trình tư duy các quá trình tự nhiên, xã hội bằng hình tượng
của nghệ thuật ngôn ngữ, cấu tạo thành ba luồng cơ bản:
Văn học dân gian truyền miệng gồm: Các câu truyện thần thoại, giúp ta có thể
hình dung được về bức tranh lịch sử của dân tộc Thái. Các câu truyện cổ tích mang nội
dung đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người nghèo và kẻ giầu, giữa người lao
động trí tuệ và kẻ ngồi mát ăn bát vàng...và kết quả bao giờ cũng khẳng định sự toàn
thắng của yếu tố thiện và người lao động chăm chỉ. Thành ngữ, ngạn ngữ, tục ngữ và
dân ca phát triển, ngôn ngữ Thái mới thoát khỏi chỉ có lớp từ vựng cơ bản để vươn tới
tri thức văn học. Theo cộng đồng tộc người này thì có văn hóa nghĩa là biết nói, biết


15


viết, sử dụng thành ngữ, ngạn ngữ, tục ngữ, dân ca hợp ngữ cảnh và ngược lại. Bởi họ
cho rằng: “ngôn ngữ là sự gạn lọc tinh khiết của tư duy”
Văn học được ghi chép thành văn: Khi nói đến văn hóa Thái không thể không nói
đến những pho sách cổ - tài sản vô giá không chỉ của dân tộc Thái mà của cả dân tộc Việt
Nam. Những pho sách cổ này nêu ba chủ đề lớn như sau:
Những tác phẩm nói về lịch sử xã hội, như cuốn sách nhan đề “Kể chuyện bản
mường” (Quăm tô mương). Tác phẩm này đã được dịch ra và xuất bản bằng tiếng Việt.
Cùng đó, còn có các tập thơ lịch sử nhan đề Dựng mường lớn (Phanh mương luông),
Dựng mường nhỏ (Phanh mương nọi), đặc biệt là tập sử thi nổi tiếng nhan đề: Những
bước đường chinh chiến của cha ông (Táy pú xớc)…và rất nhiều những tập thơ như:
Chống giặc cờ vàng (1873- 1880); Cuộc nổi dậy của người tù Sơn La do Cai Khạt
đứng đầu (1911), Cuộc nổi dậy chống Pháp ở Sầm Nưa - Sơn La (1914 - 1916)…
Những tác phẩm văn học bằng thơ rất nhiều. Đến nay, đã có một số tác phẩm được
biên dịch và xuất bản như Xống Chụ Xon Sao, Khun Lu Nàng ủa, Tán Chụ Xiết
Xương là những tác phẩm rất nổi tiếng. Trong đó, phải kể đến tập truyện thơ: Tình
Ca - tập thiên tình ca tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) không chỉ đạt đỉnh cao
trong loại hình văn học này mà cho cả nền văn học cổ điển Thái Việt Nam.
+ Nghệ thuật: bao gồm có họa tiết trang trí và múa.
Họa tiết trang trí bao gồm có: Họa tiết điêu khắc gỗ và đan mây, tre và họa tiết
trên vải. Họa tiết điêu khắc gỗ thể hiện ở các họa tiết điêu khắc gỗ mang tên Khau Cút
treo trên hai đầu hồi mái nhà sàn của một số nhóm Thái. Xưa, đã có thời nhìn vào bộ
trang trí này người ta biết được vị trí xã hội của chủ nhà. Họa tiết điêu khắc còn thực
hiện trên khung và tấm chắn cửa sổ và các họa tiết trang trí trên các mặt dụng cụ dùng
để làm thức đựng, đồ đựng...Các mẫu hoa văn tuy nhiều hình, nhiều vẻ nhưng đều gọi
chung bằng một tên chung là hoa văn Ăm.
Múa: Người Thái từ lâu đã nổi tiếng trong các điệu dân vũ. Khi nói đến người
Thái, người Việt không mấy ai không hình dung các cô gái đẹp, trang phục hoàn

chỉnh, thanh cao, mềm mại, cuốn hút trong các điệu múa mang tên xòe của mình. Và
như thế, múa xòe đã trở thành một trong những biểu hiện đặc trưng văn hóa cụ thể,
thật sự đậm đà bản sắc dân tộc Thái. Múa xòe vô hình chung trở thành sự thừa nhận
mang tính truyền thống, đối với nền nghệ thuật của người Thái như một loại hình vũ
điệu. Sở dĩ có điều đó, là vì nền nghệ thuật folkore này đã phát triển đạt tới sự phân
16


chia thành hai cấp độ: Múa tập thể dân dã mà tiêu biểu là múa xòe vòng; múa biểu
diễn hay múa phong cách mà đặc trưng là sự phô trương tối đa vẻ đẹp của hình tượng
văn hóa- cô gái Thái Việt Nam. Có thể kể một số điệu múa phổ biến như: múa xòe,
múa sạp, múa nón, múa chai, múa khăn, múa quạt…
+ Âm nhạc: Nhìn chung âm nhạc thái thể hiện bằng ba cách: Thanh nhạc, nhạc
khí và bộ gõ.
Người Thái phô diễn thanh nhạc bằng nhiều dạng khắp (hát, hò, ngâm). Với
người Thái, khắp mang nghĩa gốc là hát thơ, cộng đồng tộc người này đã dùng thơ để
hát. Từ đó với cộng đồng tộc người này có thể coi thơ đã quy định giai điệu của ca.
Song, sự đa dạng dân ca đều có những nét cơ bản mang đặc trưng thanh nhạc Thái.
Thanh nhạc Thái chia các loại hình cơ bản là: Khắp xư (còn gọi là hát chữ); Khắp
mo - dùng trong lễ nghi và diễn ca sử thi Táy Pú Xớc toát lên vẻ trang nghiêm, mạnh
mẽ; Khắp chương - dùng cho giọng nam trung, nam trầm diễn các tập sử thi anh hùng
ca; Khắp một - là tiếng Thái dùng để làm ma thuật chữa bệnh, loại hình thanh nhạc đã
mang tính cảm thụ tôn giáo làm người nghe sùng bái các điều tín, và Khắp xe - hát
múa.
Nhạc khí: Người Thái dùng âm thanh, nhịp điệu của các nhạc khí để thổ lộ tư
tưởng, tình cảm của mình trên sự phô diễn nhạc cụ như chơi nhị hay tính tảu, đàn môi,
pí, sáo và tiêu. Bộ gõ: có trống, chiêng, chũm chọe và nhạc, bộ ba hòa vào nhau tạo
thành dàn nhạc nhịp, nhạc xâu lại thành chùm để đeo trên ngón tay, gõ nhịp cho hát
then và múa xòe.
+ Tôn giáo, tín ngưỡng: Người Thái có ngôn ngữ và văn tự, có tư duy và văn hóa

nhưng không theo một tôn giáo nghiêm ngặt nào như đạo Phật, đạo Hồi, đạo Thiên
chúa...Vì xã hội người Thái ở Việt Nam nói chung, người Thái ở Yên Châu nói riêng
không hình thành tư duy trên con đường đó mà theo một hướng riêng của mình. Có thể
nói, dân tộc Thái là dân tộc có tín ngưỡng đa thần. Tín ngưỡng của người Thái chưa
phát triển thành tôn giáo riêng nhưng họ cũng không chịu ảnh hưởng hay du nhập vào
mình các tôn giáo khác. Nằm trong phạm trù tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng dân gian
Thái tập trung trong các trong các phong tục tập quán, lễ nghi xoay quanh sự thể hiện
nhận thức về: đường sống, đường chết và đường thần linh.
Đường sống: Nhận thức về đường sống theo tâm linh Thái được bắt đầu từ quan
niệm sinh ra con người. Người mẹ đã nhận con của mình từ bà Then mang tên Me
17


Bảu, bà có khuôn chuyên đúc rồi dập thành hài nhi trai hay gái rồi giáng xuống đầu
thai vào các bà mẹ ở cõi trần. Mọi thủ tục chuẩn bị đường sống cho một con người đã
hoàn tất ở cõi trời và theo mạch tâm linh ấy. Tín ngưỡng người Thái cho rằng con
người sống nhờ có linh hồn. Họ quan niệm mỗi bộ phận cơ thể có một linh hồn và con
người có tất cả có 80 linh hồn được chia thành hai nửa như câu ngạn ngữ: “30 hồn ở
mặt trước, 50 hồn ở mặt sau”, nhiều linh qui về một, mang tên hồn người ngụ ở đỉnh
đầu chỗ có chỏm xoáy tóc, vị trí đó đặt tên là đỉnh hồn. Khi ở bên thể xác, hồn như
bóng nên gọi là kép bóng hồn, bóng hồn bao quanh thân thể như người mặc áo. Tập
quán của người Thái, áo là vật tượng trưng cho linh hồn. Cho nên, trong tất cả các lễ
nghi tôn giáo, tín ngưỡng Thái, cạnh mâm cúng bao giờ cũng đặt áo của chủ hồn (thân
chủ). Xưa nay, dân tộc này vẫn tin và thờ lực lượng siêu tự nhiên mà thuật ngữ Thái
gọi là Phi (ma), tất cả các phi đều trú ngụ ở một thế giới gọi là Mường Phi (mường
ma), mường ma được quan niệm như một thế giới vĩnh hằng bất biến. Cách giải thích
này trùng lặp với thuyết cho rằng linh hồn là bất tử. Ngược lại là Mường Người thì tồn
tại theo sự biến động theo từng thế hệ con người. Linh hồn, lúc tách khỏi thân sống trở
thành bản thể riêng gọi là phi khoăn, dùng để chỉ khái niệm hồn hay linh hồn sống của
người, vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, như triết học gọi là vật linh giáo. Chúng có thể

tạm thời tách khỏi thể xác nhập cõi trời đất mà đường sống của thân chủ vẫn tồn tại.
Theo quan niệm tâm linh Thái, sự sống không có gì thiêng hơn linh hồn nên có những
tập quán pháp kiêng kỵ, không được phép vô tình hay hữu ý vi phạm. Tâm linh Thái
cho rằng sự sống vốn do trời tạo ra và giáng xuống trần gian tạo thành người và ngược
lại cái chết của con người lại bắt đầu từ trần gian trở về trời.
Đường chết: Theo quan niệm tâm linh Thái, đường chết được giải thích phân
thành hai trường hợp: đường chết không bình thường và chết bình thường. Theo đó,
linh hồn sau khi lìa thể xác đã tan, hóa thành phi (ma) ngụ ở nhiều vị trí khác nhau
trong cõi chết để rồi tiếp tục gây ra điều ác hay điều thiện ở cõi sống. Nếp nhà sàn để ở
mang thêm tên tâm linh “nơi chứa dựng cái minh cái hồn của mình”, không gian tâm
linh đó được cộng đồng tộc người này thu nhỏ lại thành gian “hóng” của nếp nhà ở
mỗi gia đình, nó trở thành chỗ hội tụ của tổ tiên để con cháu thờ phụng. Do có quan
niệm linh hồn bất tử, nên dân tộc này có tục thờ cúng tổ tiên, coi đó là tôn giáo tín
ngưỡng chính.

18


Đường thần linh: Về tâm linh: đường sống, đường chết còn có quan hệ khăng
khít với thần linh và không gian chứa đựng nó. Với người Thái phi bản, phi mường
(thần bản, thần mường) gộp lại được miêu tả thành ba phần:
Phần hồn trong không gian tâm linh mường.
Phần chảu sửa trong không gian tâm linh mường.
Phần thần, ma trong không gian tâm linh mường.
Theo người Thái, vũ trụ có ba tầng: Tầng trên, phi ở có tên Mường Phạ (mường
Bôn), ngoài ra còn có các vị Then nên còn gọi là Mường Then. Tầng giữa, người ở có
tên Mường Lum (tức cõi trần) và tầng ba là tầng dưới lòng đất của các loài phi nhỏ trú
ngụ, khác với các phi ở tầng trên.
Khi nói đến phong tục tập quán Thái, không thể không kể đến một trong những
phong tục truyền thống đặc trưng của người Thái được thể hiện trong tục cưới xin. Các

đôi trai gái yêu nhau, khi đã quyết định đi đến hôn nhân thì sẽ tổ chức cưới. Theo
phong tục truyền thống người Thái thường tổ chức cưới 2 lần. Lần thứ nhất cưới tại
nhà gái - còn gọi là “đoong khửn”, nhà trai mang đồ cúng, lễ vật đến nhà gái, sau đó
chú rể ở lại sinh sống tại nhà gái trong vòng 3 năm (tùy thuộc vào hoàn cảnh từng gia
đình mà quyết định số năm ở rể). Người Thái quan niệm người con rể phải ở lại nhà
gái làm lụng, để trả ơn bố mẹ vợ đã sinh ra và nuôi dưỡng cô dâu. Hết thời gian ở rể,
nhà trai giết trâu, bò tổ chức cưới lần 2 “đoong lông” để đón cô dâu về nhà chồng, khi
đó cô dâu mới chính thức thuộc về gia đình nhà chồng. Cưới xin phải qua các trình
tự: đi dạm (pay tộ), đi hỏi (pay tham), đám cưới đưa rể về nhà gái (sống khươi), lễ
ghép chăn (sú phả), lễ búi tóc ngược cho cô dâu khi đã có chồng (tằng cẩu - với
người Thái Đen). Sau đó là lễ cưới chính thức, cuối cùng là lễ đưa dâu về nhà
chồng mới hoàn thành các thủ tục hôn nhân. Khi sinh con người Thái thường đặt
tên con vào đầu tháng.
Ngoài những nội dung nổi bật trên, văn hóa của người Thái còn thể hiện rất rõ
trong các lễ hội truyền thống. “Lễ hội ném còn” là nơi quy tụ nhiều chàng trai, cô
gái từ nhiều bản mường lân cận, là cơ hội tốt để nhiều đôi trai gái làm quen với
nhau.
Cũng như các dân tộc khác, đồng bào Thái có nhiều hình thức sinh hoạt cộng
đồng trong gia đình, trong bản, trong mường. Đó là các lễ, tết, hội hè của dân tộc
như tết Kin tón ú vào ngày mồng 5 tháng 5, Kin trết xíp xí vào ngày 14 tháng 7 âm
19


lịch. Đó là tục xên bản, xên mường (cúng bản, cúng mường) vào khoảng tháng ba
âm lịch hàng năm, được đồng bào rất coi trọng. Tục này vừa có yếu tố phồn thực và
tâm linh, đây là ngày tết, ngày hội to nhất, vui nhất trong năm.
- Các giá trị văn hóa với tư cách là thiết chế xã hội:
+ Gia đình: gười Thái gọi gia đình là hươn và được phân thành hai loại hình:
Tiểu gia đình phụ hệ - Chỉ một đơn vị tế bào xã hội, được hợp bởi một cặp vợ
chồng có thể đã, chưa hoặc không có con. Nếu có thì chúng cũng chưa trưởng thành,

chưa đủ các điều kiện để lập gia đình riêng. Tiểu gia đình phụ hệ Thái, đến nay vẫn
giữ những tập quán của mối quan hệ thân thuộc trong họ hàng. Khi hai cá thể nam, nữ
đã thiết lập thành một tổ hợp gia đình, thì lập tức mỗi cá thể ấy sẽ hình thành cho mình
một tập quán quan hệ ba chiều là: ải nọng- Lung ta- Nhinh xao. ải nọng (những anh
em trai cùng một hàng thế hệ với chồng có gốc từ một ông tổ, tương đương với cách
hiểu của người Việt là họ Nội). Khi các chị, em gái đã thành lập gia đình riêng, nhóm
những anh em trai của họ sẽ tổ hợp thành cộng đồng thuật ngữ hệ thống thân tộc gọi là
Lung ta (họ bên Ngoại). Những anh em trai bên vợ lập gia đình riêng, thì những anh
em cọc chèo của họ sẽ tổ hợp thành nhóm thân tộc có thuật ngữ Nhinh xao tức họ nhà
rể, theo nghĩa sát là họ các cô gái. Tục ngữ Thái còn cho rằng sự gắn bó khối anh em
trong cộng đồng (ải nọng) tạo sức mạnh vô địch. Tình nghĩa anh em vừa xem như tự
nhiên vừa xem như đạo đức làm người vì: “Dao nào chặt được dòng nước đổ từ lòng
máng; anh em dù cách trở nơi chín chợ, chín hàng cũng vẫn là anh em”, khác với quan
hệ vợ chồng “anh em dù có gặp phải đường xấu cũng không chia lìa; vợ chồng chỉ cần
phật ý, một buổi cũng thành dưng”. Nổi trội trong gia đình Thái, là sự bảo lưu tàn dư
mẫu hệ trong chế độ gia đình quyền Cha, trong đó đặc biệt xem trọng chế độ quyền
cậu. Người Thái ở Tây Bắc chế độ này có vẻ đậm hơn và có thể coi là một điểm đặc
thù, có thể thấy qua câu tục ngữ: “Nếu phải bỏ màn đành bỏ chăn; nếu phải bỏ Lung ta
ta đành bỏ ải nọng”. Trong một gia đình Thái tất cả đều do người chồng, người cha
quyết định, nhưng người vợ, người mẹ vẫn có một chỗ đứng vững vàng. Phải chăng,
đây là ưu điểm của truyền thống gia đình Thái. Nó thể hiện quyền bình đẳng nam, nữ
trong gia đình cần được kế thừa và phát huy cho phù hợp với điều kiện mới.
Từ lâu gia đình hạt nhân đã trở thành tế bào kinh tế - xã hội Thái, là mô hình gia
đình phổ biến nhất trong xã hội Thái từ trước tới nay, nó tồn tại trong phong tục tập
quán, nếp sống và tư duy về mối quan hệ thân thuộc được gọi là ba họ. Là người Thái,
20


bất cứ cá nhân và hạt nhân gia đình nào không giữ được nề nếp, vô tình hay hữu ý làm
trái các quy định phong tục tập quán: ải nọng - lung ta - nhinh xao chắc chắn sẽ bị xã

hội lên án, chê trách.
Đại gia đình phụ hệ: là đơn vị kinh tế - xã hội tổ hợp bởi ít nhất có hai gia đình
hạt nhân. Trong đó, những người chồng cùng chung hệ dòng cha nên gọi là đại gia
đình phụ hệ. Mô hình gia đình này không phổ biến, ta có thể hình dung nó như những
dấu chấm nhỏ điểm xuyết trên nền gia đình hạt nhân phổ biến và phủ khắp mọi nơi.
Hiện nay, mô hình gia đình này còn rất ít theo nghĩa trọn vẹn của nó. Nó có những đặc
điểm cơ bản đó là: Các gia đình nhỏ trong đại gia đình bao gồm tất cả các nhóm ải
nọng trong cùng một ông tổ sinh ra, vẫn ở chung trong một nóc nhà gọi là chua hươn.
Ông tổ ấy chính là người mang cái tên thuật ngữ hệ thống thân tộc là Pấn. Người đứng
đầu gia đình lớn mang tên là Chưởng cốc hay Phủ cốc có nghĩa "người làm gốc của
họ". Từ đời cha trở lên thế hệ khác, hễ ai còn sống thuộc chi trên là anh thì người đó
mặc nhiên là Chưởng cốc. Đây là tập quán bất di bất dịch và không có ngoại lệ. Trong
gia đình lớn như vậy, các gia đình chỉ là thành viên không phải là một đơn vị kinh tế xã hội riêng biệt mà thống nhất. Mọi tài sản có trong gia đình đều là của chung, mọi
nhu cầu tiêu dùng trong gia đình đều dùng của chung, mọi vấn đề của gia đình nhỏ đều
coi như việc chung của cả gia đình. Các gia đình hạt nhân phải có trách nhiệm giúp đỡ
việc thực hiện tiêu dùng cho thật tốt. Về mặt tâm linh, ngoài chỗ thờ đẳm trong nhà,
các gia đình lớn còn có nghĩa địa chung gọi là heo đẳm, ở đó người chết được chôn
theo thế hệ rõ ràng, quy củ.
+ Bản mường: Chỉ một loại hình tổ chức xã hội đã từng tồn tại phổ biến ở khắp
miền Nam Trung Hoa và bán đảo Đông Dương của người nói tiếng Thái. Riêng người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam, cơ cấu tổ chức xã hội này chính thức xuất hiện thành văn
bản ghi bằng chữ Thái cổ cách đây hàng ngàn năm, khoảng thế kỷ thứ X.
Mường: Tổ chức xã hội của mường theo mô hình cơ cấu vòng đồng tâm xoay
quanh trục, đã được thể hiện một cách hoàn thiện trong hệ thống tổ chức một châu
mường và sự quy tụ các châu mường về một mối. Mỗi mường có Chảu Mường là
người đứng đầu và cai quản chung, dưới Chảu Mường là các Phìa, Tạo đứng đầu và
cai quản các Phài và bản. Mường là một cơ cấu tổ chức chính quyền mang những nét
đặc trưng rất Thái ở nước ta. Là tổ chức xã hội dựa trên quan hệ lãnh thổ và sở hữu, có
đường ranh giới rõ rệt, mang tên đất mường. Với các gia đình hạt nhân, tổ chức
21



×