Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Mối liên hệ giữa gió mùa và lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ gió mùa thịnh hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
------------------o0o------------------

ĐINH THỊ THU HUYỀN

MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÓ MÙA VÀ LƯỢNG MƯA
TRÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN
TRONG THỜI KỲ GIÓ MÙA THỊNH HÀNH

Hà Nội- Năm 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
------------------o0o------------------

ĐINH THỊ THU HUYỀN

MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÓ MÙA VÀ LƯỢNG MƯA
TRÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN
TRONG THỜI KỲ GIÓ MÙA THỊNH HÀNH
Chuyên ngành

: Khí tượng học

Mã ngành

: D440221
Người hướng dẫn : ThS. Nguyễn Bình Phong


Hà Nội- Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là sản phẩm nghiên cứu của bản thân, được xuất phát từ
yêu cầu bài toán phát sinh trong qua trình học tập để hình thành hướng nghiên cứu
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn. Mọi sự tham khảo sử
dụng trong đồ án đều được trích dẫn các nguồn tài liệu trong báo cáo và danh mục
tài liệu tham khảo. Các sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế của nhà trường, em
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2016
Tác giả đồ án

Đinh Thị Thu Huyền


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự giúp
đỡ mọi người dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian học
tập nhất là khi triển khai làm đồ án, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình.
Với một sự tri ân và lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi đến quý Thầy Cô khoa
Khí tượng Thủy văn- Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã dồn hết
tâm huyết của mình để truyền đạt tri thức cho chúng em. Tạo điều kiện tốt nhất cho
chúng em để hoàn thành đồ án này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ThS.Nguyễn Bình Phong, Phó trưởng khoa
Khí tượng thủy văn, thầy đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong thời
gian em làm đồ án này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến ThS.Phạm Minh Tiến, Phó trưởng khoa Khí

tượng Thủy văn đồng thời cũng là giáo viên chủ nhiệm của lớp em, cùng các thầy
cô giáo trong Khoa đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và bạn bè đã luôn
giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình học tập
cũng như trong cuộc sống.
Dù đã cố gắng rất nhiều để hoàn thành đồ án nhưng không thể tránh khỏi
những thiếu sót, mong thầy cô và các bạn có những ý kiến đóng góp để em có thể
hoàn thiện và phát triển đề tài hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 10 tháng 6 năm 2016
Sinh viên

Đinh Thị Thu Huyền


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG.......................................................................................................... 6
DANH MỤC HÌNH .......................................................................................................... 7
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................... 4
1.1 Khái quát khu vực nghiên cứu ................................................................................... 4
1.1.1 Vị trí địa lí .......................................... 4
1.1.2 Khí hậu Tây Nguyên .................................... 5
1.1.3 Gió mùa mùa hè và chế độ mưa ở Tây Nguyên .................. 5
1.2 Tổng quan các nghiên cứu về gió mùa, mưa gió mùa ................. 10
1.2.1 Một số nghiên cứu trên Thế giới .......................... 11
1.2.2 Một số nghiên cứu trong nước ........................... 13
CHƯƠNG 2. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................... 17
2.1 Số liệu ............................................... 17
2.1.1 Số liệu quan trắc ..................................... 17

2.1.2 Số liệu tái phân tích ................................... 18
2.2 Phương pháp nghiên cứu ................................... 18
2.2.1 Phương pháp xác định các đặc trưng thống kê .................. 18
2.2.2 Phương pháp xác định sự biến đổi của lượng mưa và gió trên khu vực . 19
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ NHẬN XÉT ....................................................................... 22
3.1 Mối liên hệ giữa gió và lượng mưa ............................. 22
3.2 Sự biến đổi của gió và lượng mưa qua từng năm .................... 24
3.2.1 Sự biến đổi của chế độ gió ............................... 24
3.2.2 Sự biến đổi của lượng mưa ............................... 25
3.2.3 Đặc điểm hoàn lưu trong những năm điển hình ................. 30
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................................... 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 35


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2. 1 Các trạm khí tượng khu vực Tây Nguyên ............................................................ 17
Bảng 3.1 Hệ số tương quan giữa tốc độ gió và lượng mưa. ................................................ 22
Bảng 3. 2 Hệ số tương quan giữa gió vĩ hướng u gió kinh hướng v và lượng mưa ............ 23


DANH MỤC HÌNH
Hình 1. 1. Bản đồ khu vực Tây Nguyên ................................................................................. 4
Hình 1. 2. Các thành phần của gió mùa Nam Á. ................................................................... 8
Hình 1. 3. Biểu đồ lượng mưa trung bình từng tháng giai đoạn 1980-2014 của các trạm
thuộc khu vực Tây Nguyên ................................................................................................... 10
Hình 3. 1. Chuẩn sai tốc độ gió và các thành phần gió trên khu vực Tây Nguyên giai đoạn
1980-2014 ............................................................................................................................ 24
Hình 3. 2. Biểu đồ chuẩn sai lượng mưa các trạm thuộc khu vực Tây Nguyên giai đoạn
1980-2014 ............................................................................................................................ 27
Hình 3.3. Phân bố tốc độ gió vĩ hướng theo mặt cắt thẳng đứng trong những năm lượng

mưa biến động mạnh............................................................................................................ 30
Hình 3. 4. Phân bố tốc độ gió kinh hướng theo mặt cắt thẳng đứng trong những năm lượng
mưa biến động mạnh............................................................................................................ 32


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam thuộc khu vực châu Á gió mùa nên hầu hết các khu vực có chế độ
mưa đặc trưng của khí hậu gió mùa, với mùa mưa gần trùng với thời kỳ gió mùa
mùa hè, mùa khô vào thời kỳ gió mùa mùa đông.
Mưa là một trong những nhân tố hết sức quan trọng đối với mọi mặt của đời
sống kinh tế, sản xuất và xã hội. Ở khu vực Tây Nguyên, mùa mưa bắt đầu từ tháng
5 và kết thúc vào tháng 10 gắn liền với hoạt động của gió mùa tây nam. Vì vậy, dự
báo lượng mưa cũng như sự biến đổi của nó có vai trò quan trọng đối với các khu
vực nghiên cứu nhất định.
Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến lượng mưa trên khu vực
Tây Nguyên đó chính là chế độ gió. Chế độ gió thay đổi dẫn đến sự thay đổi của
lượng mưa. Do đó nghiên cứu sự ảnh hưởng cũng như mối liên hệ giữa chế độ gió
và mưa gió mùa là cần thiết tới khu vực.
Để hiểu chi tiết hơn về sự ảnh hưởng của chế độ gió tới lượng mưa Tây
Nguyên, trong đồ án này em đã lựa chọn đề tài có tên là “Mối liên hệ giữa gió mùa
và lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kỳ gió mùa thịnh hành”.
Kết quả của đồ án cho thấy sự biến đổi theo thời gian của lượng mưa khá phù
hợp với sự biến đổi của gió kinh hướng, gió vĩ hướng. Nội dung của đồ án ngoài mở
đầu, kết luận và kiến nghị được bố cục trong 3 chương như sau.
 Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
 Chương 2. Số liệu và phương pháp nghiên cứu.
 Chương 3. Kết quả và nhận xét.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Khái quát khu vực nghiên cứu
1.1.1 Vị trí địa lí
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông
giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với các
tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri, Mondulkiri (Campuchia).
Vùng khí hậu Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh, từ Bắc vào Nam lần lượt là Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, thuộc sườn phía tây của dãy Trường
Sơn ( Hình 1.1)

Hình 1. 1. Bản đồ khu vực Tây Nguyên
Tây Nguyên có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình, đồng thời là ba tiểu vùng
khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước
là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông),
Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Ở phần phía bắc có cao nguyên
Gia Lai – Kon Tum cao 500-700m nằm ở phía tây nam khối núi đồ sộ Kon Tum
thượng với đỉnh vượt quá 2000m. Ở phần trung Tây Nguyên địa hình khom như 1
cái chảo úp, mà phần lớn diện tích có độ cao 300-600m , tuy có độ cao thấp hơn
nhưng nền nhiệt độ ở đây lại cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và phía Nam. Phần
nam Tây Nguyên ngăn cách với cao nguyên Đắk Lắc bởi trũng hồ Đắk Lắc, gồm 2


cao nguyên bậc thềm là cao nguyên Lang Biang cao 1500m và cao nguyên Di Linh
cao 800-1000m. Phía đông gần bờ biển nhô lên những đỉnh núi của dãy nam
Trường Sơn.
1.1.2 Khí hậu Tây Nguyên
Khu vực Tây Nguyên có nền nhiệt cao, hàng năm giữa mùa nóng và mùa lạnh
không chênh lệch nhiệt độ đáng kể, nên nhiệt độ hạ thấp do độ cao địa hình. Bức xạ
tổng cộng 150 – 170Kcal/cm2, cân bằng bức xạ năm 70 – 100 Kcal/cm2, số giờ nắng
năm 2000 – 2500 giờ. Nhiệt độ trung bình năm 24 – 280C, nhiệt độ trung bình tháng

nóng nhất tới 24 – 280C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối 37 –400C, nhiệt độ tháng lạnh
nhất 210C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 3 – 90C.
Điều đáng chú ý ở khí hậu Tây Nguyên là có 2 mùa, mùa khô và mùa mưa.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa tháng trên 200mm, mưa cực đại vào
tháng 8. Mùa khô hạn hán nghiêm trọng, từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, với
lượng mưa dưới 50mm. Lượng mưa trung bình năm 1400 – 2000mm, lượng mưa
ngày lớn nhất trên 200mm. Gió mạnh hơn vùng đồng bằng, tốc độ gió trung bình
năm 1,5 – 3,5m/s. Tốc độ gió mạnh nhất 20 – 25m/s do ít ảnh hưởng của bão. Mùa
đông thịnh hành gió Bắc, Đông Bắc.
1.1.3 Gió mùa mùa hè và chế độ mưa ở Tây Nguyên
a. Khái niệm gió mùa
Theo Khromov: “Gió mùa là hoàn lưu của khí quyển trên một phạm vi rộng
lớn của bề mặt trái đất, trong đó gió thịnh hành giữa mùa đông và mùa hè có
hướng gần như ngược nhau”.
Về hướng gió Khromov còn đưa ra một chỉ tiêu định lượng là góc tạo bởi
hướng gió thịnh hành của hai mùa phải lớn hơn hoặc bằng 1200 và góc này được gọi
là góc gió mùa.
K.Ramage (1971) đã đưa ra một số chỉ tiêu định lượng cụ thể đó là:
1. Hướng gió thịnh hành trong tháng 1 và tháng 7 phải lệch nhau một góc lớn
hơn hoặc bằng 1200.
2. Tần suất trung bình của hướng gió thịnh hành trong tháng 1 và tháng 7 phải
lớn hơn 40%.
3. Tốc độ gió tổng hợp trung bình của ít nhất một trong hai tháng phải lớn hơn
hoặc bằng 3m/s.


4. Sự luân phiên của hoàn lưu xoáy thuận với xoáy nghịch xảy ra trong hai
tháng này của hai năm liên tiếp, trên 1 vùng có kích thước 5kinh/vĩ độ phải nhỏ hơn
một lần.
Như vậy, một vùng được gọi là có gió mùa khi thỏa mãn 4 điều kiện trên.


-

 Gió mùa mùa hè
Hệ thống gió mùa bắt nguồn từ áp cao Mascaren
Gió mùa Nam Á (hay còn gọi là gió mùa Tây nam) được đặc trưng bởi các

thành phần: (1) Áp cao Mascarene, (2) Dòng xiết vượt xích đạo Đông Phi, (3)
Rãnh gió mùa, (4) Áp cao Tây Tạng, (5) Dòng xiết gió đông nhiệt đới, (6) MâyMưa gió mùa [11].
(1) Áp cao Mascaren: Áp cao Mascaren là một áp cao thuộc hệ thống áp cao
cận nhiệt đới nằm trên nam Ấn Độ Dương có tâm vào khoảng 300S và 500E trên đảo
Mascaren. Trị số khí áp trung bình trong tháng tại trung tâm vào khoảng 1024mb.
Vào thời khì mùa hè ở bán cầu bắc, tín phong đông nam từ áp cao này vượt qua
xích đạo trên khu vực đông phi thành dòng vượt xích đạo Đông Phi.
(2) Dòng xiết vượt xích đạo đông phi: là một dòng chảy vượt qua xích đạo
tầng thấp trong mùa gió mùa mùa hè. Dòng xiết Đông Phi hay dòng xiết Somali đạt
cường độ cực đại vào các tháng 7- 8 và tách làm hai nhánh ở khoảng 100 N, 600 E.
Hai nhánh này vượt qua phần Nam biển Ả Rập rồi tới miền Trung và Tây nam
duyên hải Ấn Độ. Dòng xiết này thể hiện mạnh nhất trên mực 1-1,5 km. Người ta
đã nhận thấy rằng đã có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa cường độ của dòng xiết này
với lượng mưa trên miền tây Ấn Độ
(3) Rãnh gió mùa: Rãnh gió mùa vốn là một rãnh khí áp nóng tầm thấp, là một
phần của rãnh xích đạo toàn cầu của mùa hè ở bán cầu Bắc. Khi gió mùa mùa hè
vượt xích đạo thổi tới hội tụ ở rãnh cùng với gió đông ở rìa phía cực của rãnh thì
tiềm năng của rãnh tăng lên đáng kể, nó có thể phát triển lên các tầng cao hơn đến
giữa tầng đối lưu, và rãnh thấp nóng nghèo tiềm năng trước đấy trở thành rãnh gió
mùa. Vị trí trung bình của rãnh xích đạo trong các mùa chủ yếu theo tiêu chí của
Ramage, vị trí trung bình của rãnh xích đạo biến đổi từ 180N trên vùng Tây Phi lên
đến 300N trên Tây Tạng. Rãnh gió mùa với cực tiểu khí áp có trị số khoảng 995mb
trên vùng Pakistan, kéo dài từ tây Bắc Phi đến Biển Đông. Toàn bộ vùng rãnh bao

gồm những áp thấp nóng lục địa mùa hè trên Bắc Phi, Ả Rập và cao nguyên Tây
Tạng. Nhờ gió mùa và hơi ẩm do gió mùa mang tới, các áp thấp này ở mức độ khác


nhau đều tàng trữ một năng lượng bất ổn nhất định.Vị trí của trục rãnh gió mùa biến
động rất lớn. Khi trục nằm phía nam vị trí trung bình và giới hạn phía Đông của nó
lấn sang phía Bắc vịnh Bengal thì gió mùa hoạt động mạnh. Ngược lại, khi trục rãnh
dịch chuyển về phía bắc gần chân dãy Himalaya thì đó là thời đoạn gián đoạn của
gió mùa trên hầu khắp Ấn Độ, ngoại trừ một vùng mưa lớn xuất hiện trên phần
Đông Bắc Ấn Độ .
(4) Áp cao Tây Tạng: là một cao áp tồn tại trong tầng đối lưu trên ở vùng bắc
Ấn Độ, ngay trên áp thấp gió mùa mặt đất. Vào tháng 7 cao áp này hoạt động trên
cao nguyên Tây Tạng và duy trì ở đây cho tới tháng 9. Sau đó nó di chuyển về phía
Đông Nam khi dải đốt nóng cực đại ở mặt đất và áp thấp di chuyển về phía nam và
cùng với sự bắt đầu của mùa hè bán cầu Nam.
(5) Dòng xiết gió Đông nhiệt đới Dòng gió ở rìa phía Nam của áp cao Tây
Tạng là dòng xiết gió đông nhiệt đới. Dòng xiết này duy trì từ tháng 7-9, trước khi
áp cao Tây Tạng suy yếu. Đây là một trong những đặc trưng bền vững nhất của gió
mùa mùa hè.
Nguyên nhân hình thành áp cao Tây Tạng và dòng xiết này có thể là do sự tồn
tại của nguồn nhiệt Himalaya- Tây Tạng. Một vòng hoàn lưu Hadley được nhận biết
một cách rõ ràng đang hoạt động trên vùng dòng vào của dòng gió xiết đông nhiệt
đới trên khu vực Đông Nam Á và một dòng hoàn lưu Hadley không rõ ràng ở vùng
dòng ra trên khu vực Châu Phi. Với hoàn lưu như vậy, dọc theo dòng xiết, một vùng
chuyển động thăng rộng lớn với thời tiết mây mưa phía bắc dòng xiết trên khu vực
Nam Ấn Độ và một vùng chuyển động Giáng quy mô lớn với thời tiết khô hạn trên
khu vực Băc Phi và Trung Đông.
(6) Mây và mưa gió mùa: Màn mây là thành phần quan trọng của gió mùa Ấn
Độ trên khu vực này. Trong thời kỳ gió mùa hoạt động, trên khu vực từ bờ biển phía
tây vịnh Bengal tới bắc vịnh Ả Rập, một màn mây dày đặc.



Hình 1. 2. Các thành phần của gió mùa Nam Á.
- Hệ thống gió mùa bắt nguồn từ áp cao châu Úc
Ngoài ra còn 1 hệ thống gió mùa tây nam khác bắt nguồn từ áp cao châu Úc
với các thành phần sau: (1) Áp cao châu Úc, (2) Dòng gió vượt xích đạo, (3) Gió
mùa tây nam và (4) Rãnh thấp gió mùa [11].
(1) Áp cao châu Úc: là áp cao lạnh lục địa, tồn tại bán vĩnh cửu ở dưới 30 0 của
bán cầu Nam.
(2) Dòng gió vượt xích đạo: dòng gió từ bán cầu Nam vượt xích đạo ở khoảng
110 E đi lên biển Đông.
0

(3) Gió mùa tây nam: khi dòng gió vượt xích đạo thì đổi hướng thành gió tây
nam thổi vào lục địa.
(4) Rãnh thấp gió mùa: là rãnh khí áp thấp nóng đóng vai trò hút gió, phát
triển lên cao, lượng ẩm lớn bất ổn định và có khả năng gây mưa lớn.
b. Quy luật hoạt động của gió mùa
Quy luật hoạt động của gió mùa tây nam gắn chặt với các thành phần của gió
mùa, được quyết định bởi quy luật hoạt động của các thành phần gió mùa, mà trước
hết là các trung tâm phát gió và các trung tâm hút gió. Các trung tâm phát gió là
những áp cao ở hai bán cầu, còn trung tâm hút gió là rãnh gió mùa, dải hội tụ nhiệt
đới. Khi các trung tâm phát gió và hút gió mạnh lên thì gió mùa sẽ mạnh lên và


ngược lại.
Ngày mở đầu, ngày kết thúc của gió mùa tây nam đã được nhiều tác giả
nghiên cứu với những chỉ tiêu khác nhau đã đưa ra những kết quả về ngày mở đầu
cũng như ngày kết thúc khác nhau. Tuy nhiên, sử dụng chỉ tiêu mưa của Ding Yihui
và Liu Yanju, đã xác định được ngày mở đầu của gió mùa tây nam trên khu vực Tây

Nguyên là ngày 11/5 và ngày kết thúc là ngày 14/10. Sự bắt đầu của gió mùa mùa
hè ( gió mùa tây nam) được đặc trưng bởi sự thay đổi trong lượng mưa và có thể
biến đổi từ năm này qua năm khác phụ thuộc vào hoạt động mạnh hay yếu của hoàn
lưu. Trong khi đó sự rút lui của gió mùa mùa hè xảy ra vào khoảng giữa tháng 9 đến
tháng 10, lúc này do sự di chuyển về phía Nam Bán Cầu nên có sự biến đổi mùa hè
sang mùa đông của các hoàn lưu.
Như vậy hình thế bắt đầu của gió mùa mùa hè ở Tây Nguyên là hệ quả của sự
thay đổi cấu trúc hoàn lưu quy mô lớn ở Đông Nam Á. Đến cuối tháng 4, đầu tháng
5 gió tây nam thịnh hành.
Hoạt động của gió Tây nam có liên quan nhiều đến chế độ mưa: Những năm
gió mùa Tây nam ổn định và ít biến động thì phân bố mưa cũng tương đối ổn định.
Những năm gió mùa Tây nam hoạt động mạnh thì lượng mưa có xu hướng tăng
trung bình nhiều năm. Thời kỳ gió Tây nam hoạt động mạnh thường liên quan đến
thời kỳ mưa nhiều.
c. Mưa ở Tây Nguyên
Khu vực Tây Nguyên do địa hình tương đối cao với các dãy núi chạy dài theo
hướng bắc – nam đặc biệt với dãy Trường Sơn, vì vậy sự tương phản giữa mùa mưa
và mùa khô rất sâu sắc do tác dụng chắn gió của dãy Trường Sơn. Trong thời kỳ gió
mùa mùa hè, lượng mưa năm lớn, nơi có lượng mưa lớn nhất thường nằm ở sườn
phía tây nam của các cao nguyên, ở các thung lũng khuất gió lượng mưa giảm đi rõ
rệt. Kết quả là lượng mưa mùa hè rất lớn đóng góp trên 90% lượng mưa toàn năm
và nâng cao lượng mưa toàn năm lên những giá trị thuộc loại cao ở nước ta kéo theo
đó độ ẩm mùa hè cũng rất cao thường từ 85% trở lên. Trái lại về mùa đông gió tín
phong Đông Bắc sau đi qua biển mang lượng ẩm lớn cho mưa ở bên sườn đông,
vượt qua núi sang sườn tây lại chịu hiệu ứng phơn không khí trở nên nóng và khô
hơn. Đồng thời do sự phân hóa không gian của khí hậu trong phạm vi đồi núi Tây
Nguyên, tùy vào độ cao và dạng địa hình khu vực nhỏ mà các điều kiện khí hậu sẽ
khác nhau nên yếu tố mưa cũng có sự thay đôi, chênh lệch nhau, mùa mưa ở bắc



Tây Nguyên chấm dứt sớm hơn, trong khi nam Tây Nguyên vào tháng 10. Trung
Tây Nguyên có lượng mưa nhỏ hơn bắc và nam Tây Nguyên. Khu vực nam Tây
Nguyên lượng mưa khá lớn, xấp xỉ như bắc Tây Nguyên.

Hình 1. 3. Biểu đồ lượng mưa trung bình từng tháng giai đoạn 1980-2014 của các
trạm thuộc khu vực Tây Nguyên
Biến trình mưa ở Tây Nguyên thuộc loại biến trình của vùng nhiệt đới gió
mùa: có sự phân hóa biến trình mưa ở bắc và trung, nam Tây Nguyên. Lượng mưa
tập trung vào mùa gió mùa mùa hè, chênh lệch lượng mưa giữa mùa mưa và mùa ít
mưa rất lơn.
Nhìn vào hình 1.3 cho thấy phân bố mưa trong năm thường tập trung vào thời
kỳ từ tháng 5 tới tháng 10, lượng mưa cực đại của hầu hết là vào khoảng tháng 8
đây là thời kỳ thịnh hành của gió Tây nam, cũng là thời kỳ mùa hè. Trong khi đó
mùa khô rơi vào các tháng mùa đông, lượng mưa trung bình 35 năm từ 1980 đến
2014 là rất nhỏ so với thời kỳ mùa hè. Tổng lượng mưa trong mùa mưa chiếm trên
75% tổng lượng mưa năm ở hầu hết các trạm.
1.2 Tổng quan các nghiên cứu về gió mùa, mưa gió mùa
Đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu,
tìm hiểu về gió mùa mùa hè và ảnh hưởng của nó đến lượng mưa, cho các khu vực
bị chi phối. Các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra được mối quan hệ gió mùa hè
và lượng mưa hay chế độ ẩm trên các khu vực đó. Trên thực tế trong những năm


gần đây sự biến đổi về lượng mưa đã có phần thay đổi ảnh hưởng đến đặc điểm khí
hậu của một số vùng.
1.2.1 Một số nghiên cứu trên Thế giới
Các nhà khoa học trên thế giới đã nhận thấy có sự liên hệ giữa mưa và gió
mùa. Khi có sự thay đổi của gió mùa, kèm theo lượng mưa, cường độ mưa thay đổi.
Dựa trên những tiến bộ của khoa học kĩ thuật ,áp dụng thành tựu đó nên sự tìm hiểu
về gió mùa càng dễ dàng hơn, dưới các phương pháp khác nhau như synop, thống

kê, chạy mô hình để có thể nắm bắt được chu kỳ hoạt động và khả năng chi phối
đến thời tiết, khí hậu. Dưới đây trình bày tổng quan về một số nghiên cứu về gió
mùa, mưa gió mùa và chế độ ẩm của các nhà nghiên cứu trên thế giới.
Năm 1984 , Watts và cộng sự trong bài báo “Nghiên cứu về mối quan hệ của
tốc độ gió và lượng mưa trên thềm lục địa thông qua âm thanh” [12]. Kết quả là
bằng chứng đáng khích lệ cho khả năng sử dụng các phép đo tiếng ồn môi trường
xung quanh trong việc ước tính cả tốc độ gió và lượng mưa.
Vào năm 2002, Bright và cộng sự trong nghiên cứu “Dự báo hạn ngắn về lượng
mưa trong thời kì gió mùa tây nam” đã sử dụng mô hình MM5 để dự báo lượng mưa
trên khu vực Arizona trong thời kì gió mùa tây nam [13]. Tham số hóa mây cumulus
được đưa vào mô hình để sử dụng. Dựa trên việc chạy mô hình dự báo với 97 × 97
điểm lưới với độ phân giải ngang là 36km. Mô hình này có 27 lớp thẳng đứng lên tới
độ cao 200hpa từ bề mặt. Qua đó cho thấy lượng mưa dự báo có xu hướng tập trung ở
những vùng mây Cumulus phát triển mạnh đồng thời cũng thể hiện được mối liên
quan của lượng mưa trong thời kì gió mùa Tây nam thịnh hành.
Vào năm 2008 tác giả Riser đã quan sát sự thay đổi của lượng mưa và tốc độ
gió thu thập trên khu vực Vịnh Bengal từ các trạm phao đặc biệt Argo với đề tài
“Nghiên cứu ảnh hưởng của gió mùa ở vịnh Bengan dựa trên tốc độ gió và lượng
mưa” [16]. Ngoài các cảm biến bình thường, các trạm phao Argo được đặt gói
cảm biến tự động giúp giám sát quang phổ của tiếng ồn, âm thanh dọc theo quỹ
đạo trong khoảng thời gian vài phút. Sau đó sử dụng một tập hợp các thuật toán
hiện có để ước tính tốc độ gió và tốc độ mưa từ những tiếng ồn quang phổ. Kết
quả nhận được đó là các tín hiệu gió mùa mạnh ở vịnh Bengal có liên quan chặt
chẽ tới lượng mưa.


Gần đây hơn, năm 2009 Nuijens và cộng sự đã nghiên cứu về mối quan hệ
giữa tốc độ gió, độ ẩm và lượng mưa đối lưu mực thấp. Kết quả cho thấy sự thay
đổi giữa tốc độ gió, độ ẩm và lượng mưa tương đồng lượng giáng thủy gây ra do đối
lưu sâu. Các tác giả đã nhận định rằng những cơn gió mạnh hơn, cùng với sự tăng

cường bốc hơi từ bề mặt và xáo trộn của không khí ẩm, dẫn đến những vùng đối
lưu trong các đám mây cumulus phát triển mạnh và gây ra mưa nhiều hơn [15].
Năm 2011, Conroy và cộng sự đã xác định các miền gió mùa và hệ thống gió
mùa châu Á bằng cách sử dụng phương pháp trực giao thực nghiệm (EOF) [14].
Trong nghiên cứu này, sự biến đổi của lượng mưa trong khu vực gió mùa Châu Á
được xác định thông qua lượng mưa dị tường hàng tháng. Theo đó các tác giả sử
dụng bộ số liệu bao gồm: sản phẩm tái phân tích lượng giáng thủy CMAP hàng
tháng kéo dài từ tháng 1 năm 1979 đến tháng 9 năm 2009, và các dữ liệu mưa của
sản phẩm dự án lượng mưa toàn cầu GPCP hàng tháng kéo dài từ tháng 1 năm
1979 đến tháng 7 năm 2009 và bộ dữ liệu TRMM chứa dữ liệu tốc độ giáng thủy
tính bằng mm mỗi giờ, có độ phân giải không gian 0.250 × 0.250, và kéo dài từ
tháng Giêng năm 1998 đến tháng năm 2009. Từ các số liệu mưa các tác giả lấy
căn bậc hai của mỗi lượng mưa hàng tháng, tiến hành phân phối dữ liệu. Cùng với
số liệu áp suất mực nước biển (SLP) và dữ liệu gió 850mb các tác giả thực hiện
phân tích mưa dị thường hàng tháng theo dạng lưới cho mỗi vùng trong ba bộ dữ
liệu sử dụng MATLAB, phân tích các ma trận mưa theo thời gian-không gian vào
vector riêng và giá trị riêng liên quan để tìm khu vực có mưa dị thường. Tiến hành
phân tích trên các ma trận tương quan, xem xét các khu vực có lượng mưa khác
nhau và muốn phân định vùng có lượng mưa thay đổi theo mùa. Kết quả là lượng
mưa trên toàn khu vực gió mùa châu Á là không đồng nhất, có phân bố không gian
phức tạp phụ thuộc vào chế độ gió theo mùa.
Tác giả Kripalani và cộng sự đã khảo sát sự biến đổi của lượng mưa trong
thời kì gió mùa mùa hè thông qua các mô hình khí hậu [17]. Kết quả của nghiên
cứu được sử dụng trong báo cáo lần thứ 4 của liên ban chính phủ về biến đổi khí
hậu (AR4). Kiểm tra đầu ra của 22 mô hình, thì có 19 mô hình có thể nắm bắt
được lượng mưa cực đại trong thời kỳ gió mùa mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 9),
có 2 mô hình không nắm bắt được chu kỳ biến đổi trong năm của lượng mưa, 1
mô hình còn lại là không thể mô phỏng được gió mùa mùa hè. Các biến trình mô
phỏng từ 19 mô hình với lượng mưa trung bình 500mm - 900mm và hệ số biến
thiên từ 3-13%, xu hướng dài hạn 2 năm 1 lần. Trong khi có 7 mô hình nghiên cứu



xu hướng hạn dài, 8 mô hình mô phỏng tính chất hai năm của lượng mưa gió mùa,
6 mô hình cho ra khí hậu gió mùa thế kỷ 20 thực tế nhất cho phía Nam Á, được
lựa chọn để kiểm tra dự báo tương lai theo kịch bản tăng gấp đôi CO 2. Dự báo cho
thấy sự tăng đáng kể trong mùa mưa, trung bình lượng mưa ở mức 8% và có thể
kéo dài thời gian xảy ra gió mùa.
1.2.1 Một số nghiên cứu trong nước
Ở nước ta, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang là một vấn đề nóng và cấp
thiết, có rất nhiều các tác giả quan tâm đến sự biến đổi của lượng mưa trong những
năm gần đây cũng như sự ảnh hưởng của chế độ gió đến lượng mưa. Dưới đây là
một số bài báo, nghiên cứu của các tác giả đã được công bố.
Năm 1999, tác giả Phạm Thị Thanh Hương và Trần Trung Trực đã sử dụng số
liệu mưa quan trắc lấy trung bình trượt năm ngày và gió vĩ hướng 850 hPa để xác
định thời điểm bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực Nam Bộ [3]. Cụ thể, khi
lượng mưa vượt 25 mm/ngày hoặc gió vĩ hướng 850hPa chuyển từ thành phần
hướng đông sang hướng tây thì có thể xem là xảy ra bùng nổ gió mùa. Kết quả
cũng cho thấy thời điểm bùng nổ gió mùa trên khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ
thường gắn với thời kỳ có xoáy thuận hoạt động trên khu vực vịnh Bengal.
Cũng nghiên cứu thời kỳ bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực Tây Nguyên
và Nam Bộ, năm 2001 Nguyễn Thị Hiền Thuận đã sử dụng số liệu BMRC của Cơ
quan Khí tượng Úc với độ phân giải 2.50 × 2.50 với công cụ hỗ trợ là chương trình
hệ thống dự báo và đồng hóa toàn cầu GASP (Global Assimilation and Prediction
System). Qua đó đã rút ra nhận xét là có thể dùng số liệu gió vĩ hướng mực 850hPa
để nghiên cứu bùng nổ gió mùa. Ngoài ra tác giả cũng cho thấy mối liên hệ giữa
bùng nổ gió mùa khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ Việt Nam với vùng nổ gió mùa
trên vịnh Bengal [7].
Năm 2007 trong “Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu” [10] đã chỉ ra rằng: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung
bình năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên

các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống.
Năm 2009 khi trong nghiên cứu “Xu thế biến đổi của lượng mưa ngày cực
đại ở Việt Nam giai đoạn 1961-2007”, Vũ Thanh Hằng đã sử dụng số liệu lượng
mưa ngày tại các trạm quan trắc ở bảy vùng khí hậu Việt Nam thời kỳ từ năm


1961 đến 2007 để xác định xu thế biến đổi của lượng mưa ngày cực đại. Kết quả
phân tích cho thấy, trong thời kỳ từ năm 1961 đến 2007, hầu hết trên khắp cả nước
đều thể hiện xu thế tăng lên của lượng mưa ngày cực đại, đặc biệt tăng mạnh trong
những năm gần đây, tuy nhiên trong những thời đoạn ngắn xu thế tăng/giảm là
không đồng nhất giữa các vùng khí hậu. Qua đó cũng cho thấy lượng mưa ngày
cực đại ở khu vực Tây Nguyên là nhỏ nhất và phân bố tương đối đồng đều giữa
các tháng trong năm [2].
Trong bài báo “Thử nghiệm dự báo ngày bùng nổ gió mùa mùa hè khu vực
Nam Bộ năm 2012 bằng mô hình RAMS” [8], Nguyễn Minh Trường và Bùi Minh
Tuân đã sử dụng mô hình RAMS để dự báo ngày bùng nổ gió mùa năm 2012 từ
ngày 04/05/2012 đến ngày 10/05/2012. Tâm miền tính đặt tại 190N – 950E, sử
dụng phép chiếu cực. Cấu hình miền tính bao gồm 271 bước lưới theo phương vĩ
tuyến, 221 bước lưới theo phương kinh tuyến và 30 mực theo phương thẳng
đứng. Khoảng cách giữa các điểm lưới phương ngang là 45 km. Lớp dưới cùng dày
100 m, độ dày các lớp tiếp theo bằng độ dày lớp ngay sát bên dưới nhân với 1.15.
Khi độ dày lớp thẳng đứng đạt 200m, các lớp tiếp theo đó sẽ được gán bằng 1200
m. Bước thời gian tích phân là 30s, các sơ đồ tham số hóa đối lưu Kain-Fritsch và
sơ đồ bức xạ được kích hoạt 5 phút một lần. Mô hình được sử dụng số liệu GFS với
các trường được cho trên 26 mặt đẳng áp với độ phân giải ngang 1 0 × 10 bao gồm
nhiệt độ, độ ẩm, độ cao địa thế vị, và gió. Kết quả cho thấy RAMS đã dự báo
thành công những đặc trưng chính của quá trình bùng nổ gió mùa ở khu vực này
như sự xuất hiện của hệ thống mưa quy mô lớn. Chỉ số gió tây cho ngày bùng nổ
gió mùa mùa hè khu vực Nam Bộ được định nghĩa như sau: Ngày bùng nổ gió mùa
là ngày giá trị trung bình của trường gió vĩ hướng mực 850 hPa trong miền

(100 N – 150N; 1000E – 1100E) đạt trên 0.5 m.s-1 và duy trì liên tục trong ít nhất
ba ngày tiếp theo.
Hoàng Đức Cường trong nghiên cứu “Đánh giá xu thế biến đổi khí hậu trên
khu vực Tây Nguyên” vào năm 2013 đã dựa trên cơ sở phân tích số liệu nhiệt độ,
lượng mưa cực trị, trung bình của các trạm trong khu vực Tây Nguyên thời kì 19602010. Qua đó, xác định mức độ biến đổi, xu thế biến đổi của nhiệt độ, lượng mưa
trung bình và xu thế diễn biến của các chỉ số cực đoan nhiệt độ, lượng mưa cực
đoan trong khu vực. Mức độ biến đổi nhiệt độ trung bình của Tây Nguyên tương đối
lớn trong mùa khô, nhỏ trong mùa mưa và trung bình năm. Trong khi đó, mức độ
biến đổi lượng mưa ở Tây Nguyên tương đối lớn trong mùa khô, nhỏ trong mùa


mưa và cả năm. Nhiệt độ trung bình và lượng mưa trong mùa khô, mùa mưa và cả
năm ở Tây Nguyên đều có xu thế tăng. Hầu hết các chỉ số cực đoan liên quan đến
mưa lớn đều tăng trên khu vực, ngoại trừ Ayunpa có xu thế giảm đáng kể trong
những năm qua [1].
Cũng vào năm 2013, Phan Văn Tân, Ngô Đức Thành đã chỉ ra rằng: Lượng
mưa ngày cực đại và số ngày mưa lớn, hạn hán cũng có xu thế tăng lên nhưng biến
động mạnh theo không gian và có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng khí hậu.
Lượng mưa có xu thế tăng rõ rệt nhất tại một số trạm thuộc Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên. Lượng mưa ngày cực đại tăng lên ở hầu hết các vùng khí hậu, nhất là trong
những năm gần đây. Số ngày mưa lớn cũng có xu thế tăng lên tương ứng và biến
động mạnh, nhất là ở khu vực miền Trung [6].
Năm 2015, Trần Việt Liễn trong nghiên cứu “Chỉ số gió mùa và việc sử
dụng chúng trong đánh giá mối quan hệ với mưa – Gió mùa ở các vùng thuộc lãnh
thổ Việt Nam, phục vụ yêu cầu nghiên cứu và dự báo gió mùa” bằng việc sử dụng
số liệu tái phân tích về lượng mưa của 175 trạm trong phạm vi cả nước, cùng với
các chỉ số gió mùa (dựa vào gió vĩ hướng) để phản ánh đặc trưng nhất diễn biến
của gió màu trên khu vực khác nhau và quan hệ với lượng mưa [4]. Kết quả cho
thấy chỉ số gió mùa có quan hệ cao với lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên.
Ngoài ra, khi hoàn lưu gió Tây suy yếu cũng có nghĩa là gió đông phát triển thì

lượng mưa sẽ tăng.
Năm 2015, trong bài báo “Nghiên cứu sự biến đổi của lượng mưa trong thời kì
gió mùa thịnh hành ở Nam Bộ Tây Nguyên” [5], Trần Đinh Linh đã chỉ ra rằng
lượng mưa trong thời kỳ gió mùa thịnh hành ở Nam Bộ và Tây Nguyên có sự xu thế
tăng lên theo thời gian, riêng khu vực Đông Nam Bộ thể hiện xu thế giảm nhẹ. Sự
biến động của tốc độ gió vĩ hướng và tốc độ gió kinh hướng qua từng năm là một
nguyên nhân dẫn đến sự biến động của lượng mưa trên khu vực nghiên cứu. Nghiên
cứu cho thấy các năm có tốc độ gió vĩ hướng (u) mạnh và gió kinh hướng (v) yếu
thì lượng mưa lớn; các năm có gió u yếu và gió v mạnh thì lượng mưa nhỏ và đa số
các năm có gió u mạnh hoặc gió v yếu (gió u yếu hoặc gió v mạnh) thì lượng mưa
lớn (nhỏ).
Trong bài báo “Đánh giá xu thế biến đổi khí hậu trên khu vực Tây Nguyên”
[9]. Số liệu lượng mưa tháng và ngày của các trạm tiêu biểu cho tỉnh Kon Tum,
Pleiku (Gia Lai), Buôn Mê Thuật, Đắk Nông và Bảo Đồng thời gian 1960-2010 cho


thấy: Mức độ biến đổi của lượng mưa ở Tây Nguyên tương đối lớn trong mùa khô,
nhỏ trong mùa mưa và cả năm. Trong 50 năm qua lượng mưa mùa khô, mùa mưa và
lượng mưa cả năm đều có xu thế tăng với tốc độ tăng trong mưa mùa khô ít hơn
lượng mưa mùa mưa và ít hơn nhiều so với lượng mưa cả năm.
Những nghiên cứu trong và ngoài nước đã cho thấy rằng, có rất nhiều yếu tố
tác động dẫn đến sự thay đổi của lượng mưa. Và sự biến đổi của lượng mưa đang là
một trong những vấn đề lớn được các nhà khoa hoc quan tâm, nhất là trong bối cảnh
biến đổi khí hậu đang diễn biến hết sức phức tạp. Trong bài luận này, em xin được
tìm hiểu về một yếu tố nhỏ tác động đến sự biến đổi của lượng mưa trên khu vực
Tây Nguyên, đó là chế độ gió.


CHƯƠNG 2. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Số liệu

Số liệu là nhân tố quan trọng trong mọi nghiên cứu, nhất là nghiên cứu
khoa học. Đối với nghiên cứu về lượng mưa, nguồn số liệu phản ánh độ chính
xác của nghiên cưú. Nguồn số liệu càng chính xác thì độ chính xác của nghiên
cứu càng cao.
Với đồ án này, số liệu được sử dụng là số liệu quan trắc lượng mưa tháng (7,8)
tại các trạm ở khu vực Tây Nguyên (giai đoạn 1980 – 2014) và số liệu tái phân tích
của Trung tâm Khí tượng Hạn vừa châu Âu – ERA Interim.
2.1.1 Số liệu quan trắc
Đối với số liệu quan trắc mưa tại trạm, đồ án sử dụng số liệu quan trắc lượng
mưa tháng (7,8) tại 11 trạm ở khu vực Tây Nguyên (giai đoạn 1980-2014) khi xem
xét sự biến đổi của lượng mưa trong thời kì gió mùa thịnh hành.
Bảng 2. 1. Các trạm khí tượng khu vực Tây Nguyên
STT

Tên trạm

Kinh độ trạm ( 0E)

Vĩ độ trạm ( 0N)

1

Đăk –Tô

107.833

14.650

2


Kom Tum

108.000

14.333

3

Plei Ku

108.017

13.967

4

An Khê

108.650

13.950

5

Ayunpa

108.45

13.383


6

Buôn Hồ

108.267

12.917

7

Mdrắk

108.767

12.733

8

Buôn Ma Thuột

108.05

12.667

9

Đăk- Nông

107.683


12.00

10

Đà Lạt

108.450

11.950

11

Bảo Lộc

107.817

11.533


2.1.2 Số liệu tái phân tích
Số liệu tái phân tích được lấy của trung tâm khí tượng hạn vừa châu Âu –
ERA Interim.
Số liệu ERA là số liệu trung bình tháng trong thời kỳ gió mùa mùa hè thịnh
hành (tháng 7,tháng 8) của giai đoại 35 năm 1980 đến 2014, bao gồm gió vĩ hướng
(u), gió kinh hướng (v) thu thập trên khu vực Nam Á (từ 0 đến 300N, 60 đến 1200E)
với độ phân giải 0,5×0,5 độ kinh vĩ.
Số liệu tái phân tích được tải về từ trang website:
/>Để có thể lấy số liệu từ trang này cần có tài khoản cá nhân để đăng nhập và sử
dụng số liệu. Chọn lựa số liệu tương ứng với yêu cầu, lựa chọn thời gian, tên biến
và các mực đẳng áp tương ứng. Giao diện website yêu cầu người dùng tích vào từng

phần mà cần sử dụng số liệu.
Sau khi lựa chọn xong ở các mực thời gian, các biến và các mực đẳng áp, em
tiếp tục lựa chọn định dạng số liệu với các định dạng trên lưới (Retrieve GRID) hay
lựa chọn số liệu dưới dạng định dạng file NetCDF.
Sau cùng là lựa chọn miền số liệu và độ phân giải ngang. Số liệu ERA Interim
cho phép tùy chọn miền số liệu và độ phân giải một cách dễ dàng. Với độ phân giải
ngang, tùy vào mục đích sử dung và tính toán. Người dùng có thể phân giải từ rất
tinh (0.125 × 0.125 độ kinh vĩ) đến rất thô (3 × 3 độ kinh vĩ)
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp xác định các đặc trưng thống kê
Để tính toán, phân tích những đặc trưng của một số yếu tố khí hậu đặc trưng
cũng như một số hiện tượng khí tượng và biểu diễn chúng dưới dạng các bảng và đồ
thị bằng phương pháp thống kê khí hậu theo các công thức được đưa ra trong giáo
trình “Phương pháp thống kê trong khí hậu” của tác giả Phan Văn Tân. Các đặc
trưng thống kê cơ bản được sử dụng bao gồm:
a. Trung bình số học
Giá trị trung bình số học giúp phản ánh một cách chính xác độ lơn của chuổi
số liệu. Đồng thời cũng cho thấy sự phân bố của các giá trị quan trắc xung quanh vị
trí trung bình.


Trung bình số học được xác định như sau :
1

a1 = ∑𝑛𝑡=1 𝑥 t = ̅𝑥
𝑛

Trong đó:
xt: Trị số của yếu tố x vào năm t (t = 1, 2, 3,...n)
n: Dung lượng mẫu

b. Chuẩn sai
Khi xác định được giá trị trung bình, chuẩn sai sẽ được xác định bằng một giá
trị x nào đó của chuỗi số liệu trừ đi giá trị trung bình của chuỗi số liệu đó.
∆𝑥 = xt - ̅𝑥
c. Hệ số tương quan
Hệ số tương quan đồng thời [rx(M)y(M))]
n

rx ( M ), y ( M ) 

 ( x (M )  x(M ))( y (M )  y(M ))
t 1

t

t

1

n
2
n
2
2
(
x
(
M
)


x
(
M
))
(
y
(
M
)

y
(
M
)
)

t
 t

t 1
 t 1


2.2.2 Phương pháp xác định sự biến đổi của lượng mưa và gió trên khu vực
d.

Từ số liệu quan trắc về lượng mưa tại 11 trạm thuộc khu vực Tây Nguyên từ
năm 1980 đến 2014 (tháng 7, tháng 8), để xem xét sự ảnh hưởng của chế độ gió đến
lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên trong thời kì gió mùa thịnh hành, tiến hành
tính giá trị trung bình của lượng mưa tháng 7, tháng 8 trong 35 năm, sau đó tính

chuẩn sai của lượng mưa của khu vực theo từng năm. Tương tự, với số liệu gió kinh
hướng (u) và vĩ hưỡng (v) đã có được, cũng tiến hành tính giá trị trung bình và sau
đó tính chuẩn sai của gió vĩ hướng (u) và chuẩn sai của gió kinh hướng (v) trong các
tháng 7 và tháng 8.
Để tính được chuẩn sai gió, số liệu tái phân tích được tải về từ Website cần sử
dụng phần mềm Grads để đọc file số liệu định dạng NetCDF, tính toán và chiết xuất
kết quả ra file số liệu định dạng text (file.txt) và sau đó mở file kết quả bằng Excel
để tiến hành tính toán đưa ra được đồ thị phục vụ phân tích trong đồ án.
Ví dụ để tính trung bình gió kinh hướng và vĩ hướng, để xem mối quan hệ với
lượng mưa như thế nào? Cho tháng 7 tháng 8, với các câu lệnh phù hợp được viết
trong Word Psd, có tên file.gs để khi mở OpenGrads thì phần mềm này có thể hiểu


và nhận flie.gs cần mở (định dạng mở file của grads). Khi “run” được file số liệu
cần tính thì phần mềm tự động chạy theo lệnh mà trong chương trình của file.gs đã
tạo. Đồ án này em cần sử dụng gió trung bình của kinh và vĩ hướng trung bình trong
lớp khí quyển từ bề mặt đến 700mb trên khu vực nghiên cứu là Tây Nguyên. Trong
chương trình em sử dụng hàm trung bình và các vòng lặp theo thời gian để có thể
xuất được file số liệu mới, trung bình tháng 7, tháng 8 của cả 35 năm.
Ví dụ về một chương trình trong Grads tính toán và hiển thị tốc độ gió kinh
hướng, tốc độ gió vĩ hướng cho tháng 7 như sau:
'sdfopen uvw.nc'
times =19
while (times <=427)
'set t 'times
## Xac dinh gio trung bình cua lop 1000-700mb
'um = ave(u, z=1, z=12)'
'vm = ave(v, z=1, z=12)'
## Tinh trung binh cho khu vuc Tay Nguyen
'uTN = aave(um,lon=107,lon=109,lat=11,lat=16)'

'vTN = aave(vm,lon=107,lon=109,lat=11,lat=16)'
'tdTN = mag(uTN,vTN)'
## Hien thi và xuat ket qua ra file text
'd uTN'
write ('../result/uTN7.txt',result,append)
'd vTN'
write ('../result/vTN7.txt',result,append)
'd tdTN'
write ('../result/tdTN7.txt',result,append)
times=times+12
endwhile
'close 1'


×