PHẦN MỞ ĐẦU
Điều 83 Hiến pháp 1992 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính
sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân, Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Điều 109 Hiến pháp 1992 quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực
của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành
Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Như vậy, ngay từ những quy định của Hiến pháp chúng ta đã thấy mối liên hệ
giữa Quốc hội và Chính phủ là đặc biệt quan trọng và góp phần to lớn vào việc tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong phạm vi bài viết này sẽ làm rõ phần
nào mối liên hệ giữa hai cơ quan đại diện cho hai lĩnh vực quan trọng là lập pháp và
hành pháp được quy định theo pháp luật hiện hành.Do hạn chế về thời gian và sự am
hiểu nên bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được
những ý kiến phê bình, đánh giá để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn!
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ.
1. Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Các đại biểu Quốc
hội là những công nhân, nông dân trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi
dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần
chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững nguyện vọng,
tâm tư của quần chúng…Nhiệm kì Quốc hội là 5 năm.
Quốc hội có vai trò đặc biệt to lớn trog việc xây dựng, củng cố phát triển bộ máy
nhà nước từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quyền lực nhà nước đến các
cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát. Quốc hội xem xét, lựa
chọn, quyết định những mô hình tổ chức, nguyên tắc hoạt động cho các cơ quan đó và
được cụ thể hóa bằng Hiến pháp, luật.
Ngoài ra, Quốc hội còn thực hiện chức năng giám sát tối cao nhằm đảm bảo cho
những quy định của Hiến pháp, luật được thi hành triệt để, nghiêm minh và thống
nhất. Đảm bảo cho các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định,
làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực, không chồng chéo,
chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch cửa quyền.
2. Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ do Quốc hội thành lập
ra theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục hoạt
động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Thành viên Chính phủ hoạt động dưới sự
giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội. Chính phủ cụ thể hóa Hiến pháp, luật của Quốc hội bằng các văn bản dưới luật
như nghị định, nghị quyết…
Chính phủ có nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước, thực hiện
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND.
Thủ tướng chính phủ do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội theo đề cử của
Chủ tịch nước, các thành viên khác do Thủ tướng Chính phủ giới thiệu, Quốc hội phê
chuẩn.
II. Quốc hội thành lập ra Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập của Chính
phủ có sự chỉ đạo, phối hợp một cách nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều 3
Luật tổ chức Chính phủ 2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và
bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề
nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó thủ
tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.
Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ như sau: thành viên
Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên
Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc quy định
như vậy là để đảm bảo cho các thành viên tập trung vào một công việc chính theo
nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”. Các thành viên chính phủ tập trung vào công việc
chính của họ mà không kiêm nhiệm thêm bất cứ công việc của ngành, tổ chức , cơ
quan nào khác.
Hiến pháp 1992 có quy định khá cụ thể về việc thành lập Chính phủ, đây là quy
định kế thừa có chọn lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam trước đó. Đồng thời
cũng thay đổi những quy định không phù hợp với thực tế để Chính phủ hoạt động tốt
hơn, đáp ứng yêu cầu và tình hình mới của đất nước nhằm thực hiện đúng quan điểm
về tổ chức bộ máy nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Điều này không
đồng nghĩa với việc hạ thấp vai trò, vị trí của Chính phủ, Hiến pháp vẫn quy định vị
trí “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt
Nam.
III. Chính phủ - cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất.
Chính phủ với chức năng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất được hiểu như
một cơ quan quản lý cao nhất theo ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước
CHXHCN Việt Nam. Chính phủ đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước thực hiện
hoạt động thực thi pháp luật, quản lí điều hành đất nước, cơ quan thực hiện quyền
hành pháp tối cao của Nhà nước. Hiến pháp và luật của Quốc hội muốn được thực thi
phải được Chính phủ cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, Chính phủ đề ra biện
pháp thích hợp, phân công, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế. Quy định
này nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho
Chính phủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Việc quản lý chặt chẽ hệ thống cơ quan
hành chính của cả bộ máy nhà nước bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan
hành chính trực thuộc chính phủ, UBND các cấp, cơ quan chuyên môn của UBND và
cơ quan đại diện của các bộ tại địa phương giúp cho việc thực thi Hiến pháp, pháp luật
của Quốc hội đi vào cuộc sống thực tế của người dân một cách có hiệu quả và nhanh
chóng hơn.
Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội về những nhiệm
vụ của mình. Hiến pháp 1992 quy định rõ việc Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước nhưng chỉ chịu trách nhiệm trước
Quốc hội (chỉ Quốc hội mới có quyền xem xét trách nhiệm của Chính phủ, miễn
nhiệm các thành viên Chính phủ).
IV. Nguyên tắc giám sát Chính phủ của Quốc hội.
Một chế định quan trọng của Hiến pháp các nước trên thế giới thể hiện chức năng
giám sát của Nghị viện đối với Chính phủ là việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh quan trọng của Chính phủ của chế độ đại nghị. Ở Việt Nam, chế định này cũng
được nói đến trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Quốc hội
2001. Chế định này nhằm ngăn ngừa những biểu hiện xấu của những người đang cầm
quyền, tức là bộ máy hành pháp của nhà nước.
Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 quy định, trước khi quyết định việc bãi miễn
các chức danh Thủ tướng, Phó thủ trướng, Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội
với các chức danh đó. Trong trường hợp người đảm nhiệm chức danh nêu trên bị mất
tín nhiệm, thì Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm (Điều 84).
Điều 88 Luật tổ chức Quốc hội 2001 quy định rõ: Trong trường hợp không đủ quá
nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu
hoặc để nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét , quyết định
việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người không được Quốc hội tín nhiệm. Ở đây
chế định tín nhiệm đã được Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội tách thành tín nhiệm
và mất tín nhiệm. Trong trường hợp mất tín nhiệm mới được tổ chức bỏ phiếu bãi
nhiệm nên có thể gây ra tình trạng mất tín nhiệm mà Quốc hội vẫn không bãi nhiệm
được. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ
chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thành viên của Chính phủ có thể
bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo quy định của pháp luật. Quy
định này làm cho các thành viên Chính phủ làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, đảm bảo cho hiệu quả của cơ quan hành pháp, chống lại những biểu hiện
quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền…
Mối quan hệ trách nhiệm, giám sát của Quốc hội và Chính phủ thể hiện rất rõ qua
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với các bộ trưởng và thành viên Chính
phủ - đây là một hình thức thực hiện chức năng giám sát. (Điều 49 Luật tổ chức Quốc
hội 2001). Gần đây, vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội cũng như việc trả lời của
các bộ trưởng có nhiều tiến bộ rõ rệt. Cụ thể, về phía đại biểu Quốc hội, câu hỏi được
nêu ra một cách xác đáng hơn, rõ ràng, cụ thể hơn. Về phía các vị bộ trưởng bước đầu
đã nhận thấy trách nhiệm của mình trong lĩnh vực mà họ phụ trách (mặc dù có những
lỗi không phải do bộ trưởng gây ra). Để cho chất vấn của đại biểu ngày càng phát huy
tác dụng thì vấn đề tiếp theo cần phải làm rõ là các vị bộ trưởng cần phải sửa đổi
khuyết điểm đã được thừa nhận như thế nào. Hoạt động chất vấn có thể đi đến chỗ
quy kết trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm. Hình thức giám sát này của đại
biểu có hiệu năng, tác dụng hơn các hình thức khác ở chỗ nó sẽ phát huy được công
luận, một khi phiên họp được truyền hình trực tiếp cho công chúng. Trong trường hợp
chất vấn không được trả lời một cách thỏa đáng tại kì họp, Quốc hội có thể bỏ phiếu
tín nhiệm bộ trưởng. Trường hợp khác, Quốc hội có thể giao cho các ủy ban, Hội
đồng hoặc thành lập các đoàn công tác lâm thời điều tra lại vấn đề có liên quan đến
chất vấn và trả lời chất vấn của những người có liên quan đến chất vấn và trả lời chất
vấn của những người có trách nhiệm và báo cáo lại kết quả điều tra để Quốc hội xem
xét tại kì họp tiếp theo. Theo nghĩa này thì chất vấn sẽ được đẩy đến cùng, mà không