Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Quản lý tài chính ở trường trung cấp hà nội theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.99 KB, 102 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ NHUNG

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG
TRUNG CẤP HÀ NỘI THEO HƯỚNG Tự CHỦ
VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Quản lý tài chính ở trường Trung cấp Hà Nội theo hướng tự chủ và
trách nhiệm xã hội ” là công trình nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý
thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn tại trường Trung cấp Hà Nội và dưói sự hướng dẫn
khoa học của PGS, TS. Nguyễn Xuân Thức.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
HàNỘỈ, ngày 30 tháng 6 năm
2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhung



Tôi xin chân thành cảm ơn PGS, TS. Nguyễn Xuân Thức, người thày đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn khoa Quản lý Giáo dục, phòng Sau Đại học trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô đã giảng dạy, truyền cảm hứng học tập,
nghiên cứu cho tôi trong suốt quá trình tôi học tại trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Hiệu trưởng, các cán bộ quản lý và các quý thầy cô
của trường Trung cấp Hà Nội, xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè
đã động viên, giúp đỡ, góp ý cho tôi trong quá trình tôi thực hiện và hoàn thành luận
văn này.
Luận văn không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp
ý của các quý thày cô và các bạn đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
HàNỘỈ, ngày 30 tháng 6 năm
2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhung


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN LỜI
CAM ĐOAN MỤC
LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

1.3.1.
1.1.

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO HƯỚNG Tự CHỦ VÀ TRÁCH NHIỆM


1.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHULUC
TT

Chữ viết tắt

Nội dung

1

CBQL

Cán bộ quản lý

2

GDĐH

Giáo dục đại học

3

GV

Giáo viên

4


TNXH

Trách nhiệm xã hội

Tên bảng, biểu

Trang


Bảng 2.11. Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan đến quản lý tài chính


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1.

Quản lý tài chính là một bộ phận cấu thành trong công tác quản lý nhà

trường và gắn bó mật thiết với các lĩnh vực quản lý khác, như quản lý chương trình
đào tạo, quản lý nhân sự, quản lý tổ chức các hoạt động phục vụ cộng đồng. Nó là một
công cụ quản lý quan trọng, chi phối toàn bộ hoạt động của nhà trường. Quản lý tài
chính có chức năng đảm bảo cho các hoạt động của nhà trường được thực hiện theo
đúng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và quy mô, loại hình đào tạo. Đồng thời, công tác quản
lý tài chính cũng bị tác động bởi cơ chế tài chính, các quy định của Nhà nước, nguồn
kinh phí cùng các yếu tố khách quan khác.

1.2.


Trường Trung cấp Hà Nội thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa

Ngành nghề Nông thôn Việt Nam, được nâng cấp từ trường Trung cấp Kinh tế - Công
nghệ Giao thông Vận tải theo quyết định số 42/2013/QĐHH do Hiệp hội Doanh
nghiệp nhỏ và vừa Ngành nghề Nông thôn Việt Nam kí ngày 22 tháng 5 năm 2013.
Trong quá trình hoạt động, trường đã lập kế hoạch huy động, sử dụng và quản lý
nguồn tài chính, thực hiện mục tiêu công khai, minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả. Đồng
thời, trường đã ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ quy định cụ thể các định mức chi
tiêu, làm căn cứ để điều hành và quản lý mọi hoạt động tài chính.
Tuy nhiên việc thực hiện các hoạt động quản lý tài chính trong những năm qua
còn bộc lộ một số nhược điểm như kế hoạch thu chi chưa thật sự chủ động, chưa phát
huy hết hiệu lực, hiệu quả của công tác tài chính đối vói các hoạt động của trường.
Khâu đánh giá hiệu quả một số hoạt động đào tạo kể cả hiệu quả về mặt tài chính
nhằm rút kinh nghiệm về công tác tổ chức, phân bổ nguồn tài chính chưa được tiến
hành thường xuyên. Công tác nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu xã hội chưa được đặt ra
đúng mức, thiếu kế hoạch chiến lược định hướng khai thác nguồn thu.
Do vậy để nguồn tài chính thực sự góp phàn mang lại hiệu quả cho các hoạt
động của nhà trường cần thực hiện các giải pháp đổi mới toàn diện, phát huy quyền tự


7

chủ, tự chịu ttách nhiệm ttên tất cả các lĩnh vực quản lý; hoàn thiện và tăng cường
công tác quản lý tài chính trong nhà trường. Trên cương vị công tác và kiến thức đã
được trang bị trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, tôi chọn đề tài “Quản lý tài chính ở trường Trung cấp Hà Nội theo hướng tự
chủ và trách nhiệm xã hội” để thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo
dục.


2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý tài chính ở trường Trung cấp Hà Nội theo
hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội nhằm góp phàn nâng cao hiệu quả hoạt động quản
lý tài chính của nhà trường nhằm đáp ứng sự phát triển của trường trong giai đoạn
hiện nay.

3. Khách thể và đối tượng nghiền cứu
3.1.

Khách thể nghiên cứu: Quản lý tài chính ở trường trung cấp theo hướng
tự chủ và trách nhiệm xã hội.

3.2.

Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý tài chính ở trường trung cấp
theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội.

4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và áp dụng các biện pháp quản lý tài chính theo hướng tự chủ và
trách nhiệm xã hội thì sẽ nâng cao được hiệu quả quản lý tài chính ừong nhà trường.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.

Xác định cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở trường trung cấp theo
hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội.

5.2.

Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý tài chính ở trường Trung cấp Hà

Nội.

5.3.

Đề xuất biện pháp quản lý tài chính ở trường Trung cấp Hà Nội theo
hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội.
Khảo nghiệm về nhận thức tính cần thiết và khả thi của biện pháp quản lý tài


8

chính.

6. Giói hạn phạm vi nghiên cứu
6.1.

Nghiên cứu biện pháp quản lý tài chính theo hướng tự chủ và trách
nhiệm xã hội của Hiệu trưởng trường Trung cấp Hà Nội.

6.2.

Khách thể khảo sát bao gồm: Cán bộ quản lý (CBQL) và giáo viên
(GV).

6.3.

Địa bàn khảo sát: Trường Trung cấp Hà Nội.

6.4.


Thòi gian lấy số liệu: 2013-2016.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.
-

Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp tổng quan lý luận để xây dựng tư liệu khoa học, tìm hiểu những thành
tựu lý luận đã có, quán triệt các văn kiện của Đảng và Nhà nước về giáo dục, quản lý
giáo dục và quản lý tài chính.

-

Phương pháp phân tích lịch sử-logic để đánh giá, chọn lọc những quan điểm, quan
điểm thích hợp với đề tài.

-

Phương pháp tổng hợp và khái quát hóa lý luận để xác định phương pháp luận, hệ
thống khái niệm và quan điểm khoa học, logic và khung lý thuyết của nghiên cứu.

7.2.
-

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tía bằng bảng hỏi, phỏng vấn, quan sát dành cho đội ngũ nhân viên,
giáo viên, cán bộ quản lý trong trường Trung cấp Hà Nội.

-


Phương pháp tổng kết kinh nghiệm bằng các kĩ thuật phân tích dữ liệu thống kê, hồ sơ
quản lý... để đánh giá, chọn lọc và sử dụng những bài học kinh nghiệm từ các trường
về quản lý tài chính.

-

Phương pháp chuyên gia lấy ý kiến đánh giá của các chuyên gia, những nhà quản lý
giáo dục, quản lý tài chính, giáo viên về biện pháp quản lý tài chính theo hướng tự chủ
và trách nhiệm xã hội (TNXH).

7.3.

Các phương pháp toán thống kê


9

Sử dụng các công thức toán thông kê để xử lý số liệu, định lượng kết quả
nghiên cứu nhằm rút ra các nhận xét khoa học về quản lý tài chính.


CHƯƠNG 1. Cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở
TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP THEO HƯỚNG
Tự CHỦ VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI

1.1.

Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1.


Các nghiên cứu về tự chủ và trách nhiệm xã hội
Trên thế giới, các trường đại học được giao quyền tự chủ từ rất sớm, phù họp

với quy luật quản trị đại học. Từ những năm 1810, nguyên lý về tự chủ của đã được
hình thành, với những tiền đề tự do giảng dạy và tự do học tập, đại học cần được tự
chủ không có sự can thiệp của Nhà nước.
Salmi, J. (2009] cho rằng: “Khái niệm, bản chất, nội dung tự chủ được quy
định rõ ràng, mọi cơ sở giáo dục đều có thể thực hiện”. Nhà nước luôn tạo mọi hành
lang pháp lý để mọi cơ sở giáo dục thực hiện tốt quyền tự chủ. Tự chủ tạo cho các
trường một môi trường quản lý thuận lợi, để từ đó phát triển tự do học thuật, tập trung
nhân tài và huy động nguồn lực tài chính [50].
Thomas Estermann và Terhi Nokkala, (2009) cho rằng: Tự chủ là một khái
niệm được hiểu khác nhau khắp Châu Âu. Quyền tự chủ bao gồm những vấn đề gì
hoặc cách thức thực hiện khác nhau tùy thuộc vào quan điểm (trường đại học hoặc cấp
quan điểm chính sách). Trong khi có sự chấp nhận rộng rãi khái niệm rằng: “Quyền tự
chủ đòi hỏi trách nhiệm như là một đối trọng và cần có một khuôn khổ cho các trường
đại học, trong đó họ có thể hoạt động” và cuộc tranh luận về chính xác về bản chất và
mức độ trách nhiệm vẫn được diễn ra [51].
Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề tự chủ và hách nhiệm xã
hội ở Việt Nam như của Hayden và Thiep trong “Institutional autonomy for HE in
Vietnam” cho rằng sự đổi mới giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam gắn với đổi mới
quản lý và đảm bảo tự chủ cho đại học. Nghiên cứu chỉ rõ tự chủ đại học chịu thách
thức không chỉ do sự miễn cưỡng đối với việc từ bỏ sự kiểm soát trực tiếp của một bộ
phận quản lý GDĐH mà còn do sự nhận thức chưa đầy đủ hàm ý thực sự của tự chủ,


cả những đòi hỏi liên quan đến TNXH cũng như cơ chế quản lý hiệu quả trong điều
kiện nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, cho cơ quan quản lý còn hạn chế. Nghiên cứu
này đã chỉ ra một số khiếm khuyết trong quản lý dẫn tới sự thiếu tự chủ thực chất,

nhưng chưa đưa ra cách khắc phục tháo gỡ cơ chế Bộ chủ quản [49].
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu từ khi áp dụng cơ chế thực hiện quyền
tự chủ và TNXH được khái quát theo bốn vấn đề sau:
Thứ nhất, một số công trình đã nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm về tự
chủ và TNXH ở các nước trên thế giới như Đức, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Canada, Trung
Quốc, Singapore... Với các nội dung như: Tầm quan trọng, bản chất của tự chủ, các
điều kiện, tiêu chí, nội dung để thực hiện tự chủ, đưa ra các khung phân tích tự chủ,
mối quan hệ giữa Nhà nước và nhà trường, những tiêu chí thực hiện TNXH. Xu hướng
tăng quyền tự chủ cho đại học là xu hướng chung trên thế giới, trong các quốc gia thực
hiện quyền tự chủ thì GDĐH ở Mỹ và Singapore được giao quyền tự chủ cao nhất.
Các tác giả tập trung khái quát những vấn đề cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm có
thể áp dụng vào Việt Nam [17], [21], [27], [34], [35].
Thứ hai, trước yêu cầu đổi mới, GDĐH Việt Nam đặt ra các mục tiêu: Chất
lượng, số lượng, hiệu quả và sự công bằng. Để đạt được các mục tiêu đó, đòi hỏi Nhà
nước phải phân cấp cho các cơ sở giáo dục. Công trình nghiên cứu của các tác giả
Phạm Phụ, Vũ Ngọc Hải, Đặng Văn Du, Nguyễn Anh Thái, Bùi Tiến Hanh, Đặng ứng
Vận đã đi sâu phân tích: Khái niệm, nội dung, bản chất của phân cấp quản lý, tiến
trình thực hiện quyền tự chủ. Một số quan niệm về phân cấp trong quản lý GDĐH về
quyền tự chủ và TNXH, cho rằng: Tăng quyền tự chủ là yêu cầu khách quan nhưng
không tách rời việc nâng cao TNXH bằng cách duy trì tốt hệ thống đảm bảo chất
lượng. Đây là nội dung cơ bản của phương thức quản lý GDĐH trong nền kinh tế thị
trường và đã làm rõ phần nào trách nhiệm phải báo cáo giải trình và chịu trách nhiệm
của các trường đại học trước xã hội [18], [24], [25], [38], [44], [47].
Thứ ba, ttong những năm qua, đánh giá thực trạng tình hình thực hiện cơ chế


tự chủ tài chính của một số trường đại học trọng điểm như: Đại học Quốc gia Hà Nội,
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Ngoại Thương, Học viện
Tài chính... Các công trình nghiên cứu cả hệ thống các trường đại học công lập, dân
lập đã nêu ra những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện tự chủ về tổ chức, tài chính,

nhân sự, học thuật. Những tác động tích cực của cơ chế tự chủ đã tạo điều kiện cho
các trường chủ động nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực gắn với nâng cao chất
lượng đào tạo. Những tác động tiêu cực của cơ chế tự chủ, vướng mắc liên quan đến
cơ chế như sự không thống nhất giữa quy định của văn bản pháp quy và quyền thực tế;
cơ chế phân bổ ngân sách chưa có tiêu chí, một số các văn bản của Nhà nước không
còn phù hợp [18], [44].
Thứ tư, cẩc công trình nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp thực hiện có
hiệu quả trong quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ và TNXH như: Giải pháp về nhận
thức, về cơ chế, về chế độ chính sách, về quản lý.
Bên cạnh những công trình khoa học nghiên cứu sâu về vấn đề tự chủ và
TNXH về tài chính còn rất nhiều các bài báo, tạp chí, bài tham luận tại các hội thảo
bàn về nội dung này như: Nguyễn Trường Giang [20], Phạm Quang Sáng [41], [42],
[43], Lâm Quang Thiệp [45].

1.1.2.

Các nghiên cứu về quản lý tài chính theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã

hôi
Quyền tự chủ đại học ở các nước trên thế giới là tự chủ toàn diện gồm bốn nội
dung chính: tự chủ về tổ chức, tự chủ về tài chính, tự chủ về nhân sự, tự chủ về học
thuật. Trong đó, tự chủ về tài chính là tiền đề quan trọng cho phép huy động nguồn lực
tài chính và duy trì nguồn lực tài chính để hiện thực hóa những mục tiêu mà nhà
trường đặt ra mà nội dung của nó bao gồm quyết định mức học phí, ttả lương theo
thảnh tích nghiên cứu và giảng dạy, sở hữu tài sản, tài chính, vay và đầu tư ở thị
trường tài chính.
Thực hiện quản lý theo hướng tự chủ làm cho các trường có khả năng cạnh


tranh tốt hơn, lành mạnh hơn, chất lượng đào tạo tăng lên đáng kể và đa dạng hóa

được nguồn thu để duy trì các hoạt động của nhà trường được bền vững; đồng thời có
tác động tăng sự linh hoạt, tạo ra sự công bằng và nâng cao TNXH của các trường
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện cơ chế phân cấp mạnh và giao quyền tự
chủ cho các cơ sở đào tạo được coi là yếu tố nền tảng cho sự phát triển bền vững của
hệ thống giáo dục. Thực tế, các nước có hệ thống giáo dục tiên tiến nhất cũng là các
nước thực hiện cơ chế tự chủ ở mức độ cao nhất.
Tự chủ - tự chịu trách nhiệm đối với cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng hoàn
toàn không có nghĩa là nó nằm ngoài sự chi phối của pháp luật mà là tự chủ - tự chịu
trách nhiệm có điều kiện này được xác định bởi mối quan hệ giữa Nhà nước, xã hội và
cơ sở giáo dục. Tự chủ trong giáo dục là một khái niệm xem xét mối quan hệ giữa
Chính phủ (Bộ Giáo dục và Đào tạo) và các trường, nó nhấn mạnh đến quyền tự do mà
Chính phủ giao cho các trường trong điều hành công việc của nhà nước từ những năm
cuối của thế kỷ XX với đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Việc
tự chủ - tự chịu ừách nhiệm ở đại học đã từng bước được đề ra, có thí điểm, đánh giá
và ngày có những bước tiến vững chắc. Sự xuất hiện các đại học vùng, đại học Quốc
gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thảnh phố Hồ Chí Minh với những quy chế tự chủ - tự
chịu ừách nhiệm rộng rãi.
Một số luận văn, luận án, bài báo khác trình bày về vấn đề tài chính và quản lý
tài chính như: Chử Thị Hải [22], Trần Thị Hải Hiền [26], Nguyễn Thị Lan Phương
[36], Tràn Thị Hải [23].
Nhân xét: Các nghiên cứu về quản lý tài chính theo hướng tự chủ và trách
nhiệm xã hội mới chỉ tập trung vào các trường đại học, còn chưa đề cập nhiều đến các
trường trung cấp chuyên nghiệp. Ngoài ra, trường Trung cấp Hà Nội với loại hình là
trường tư thục, là trường trực thuộc Bộ ngành (Bộ chủ quản), chưa có ai nghiên cứu về
vấn đề này nên việc thực hiện còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn từ nhận thức đến
triển khai thực hiện.


1.2.


Tự chủ và trách nhiệm xã hội trong Gnh vực tài chính



O
a

1.2.1.

Tư chủ
Theo Từ điển tiếng Việt (2001), tự chủ (Autonomy) chính là “tự điều hành,

quản ỉỷ mọi công việc của mình, không bị ai chi phổi”. Như vậy, quyền tự chủ chính là
quyền được tự điều hành, quản lý các hoạt động trong nhà trường. Nó thể hiện tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và vai trò chủ thể của lãnh đạo nhà trường trong việc thực
thi các chức năng, nhiệm vụ của nhà trường nhằm đại được tối ưu các mục tiêu đã đề
ra.
Ashby và Anderson cho rằng tự chủ là việc tự điều hành quản lý của mọi tổ
chức mà không bị tổ chức cá nhân khác chi phối, bao hàm 6 yếu tố: Tự do lựa chọn
sinh viên; tự do tuyển dụng; tự do đưa ra chuẩn mực; tự do quyết định cấp bằng cho
ai; tự do thiết kế chương trình giảng dạy; tự do quyết định sử dụng các nguồn thu từ
Nhà nước và tư nhân. Các tác giả này cho rằng: Tự chủ tài chính gồm 2 vấn đề là
quyền tự do phân bổ nguồn tài chính công, quyền tự do tạo ra và sử dụng các nguồn
tài chính tư nhân [1].
Các nghiên cứu tại Việt Nam về tự chủ chỉ ra rằng: Tự chủ trong các cơ sở
GDĐH chính là cơ chế Nhà nước giao quyền tự chủ trong quản lý lao động và quản lý
tài chính. Trách nhiệm của các cơ sở khi thực hiện là phải chủ động trong công tác tổ
chức quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, sử dụng các nguồn nhân lực, yật lực, tài
lực có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng toàn diện của nhà trường, chú trọng việc sử
dụng các nguồn lực đảm bảo công khai, minh bạch, thực hiện quy chế dân chủ.

Qua nghiên cứu về vấn đề tự chủ, luận văn xác định: Tự chủ của các cơ sở
giáo dục là quyền quản lý, ra quyết định của các cơ sở giáo dục trên mọi phương diện
như tổ chức, nhân sự, tài chính, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tể, học
thuật. Cơ chế tự chủ bao hàm nội dung chủ động xây dựng định hướng phát triển
chiến lược của trường, chủ động xây dựng lộ trình và các bước đi phù hợp với tiềm


năng, thực trạng của trường. Chỉ có quyền tự chủ, nhà trường mới huy động đầy đủ
được các nguồn lực của mình, mới có thể đáp ứng với yêu cầu phát triển nhà trường
trong xu thể hội nhập quốc tế.
Các cơ sở giáo dục tùy thuộc vào điều kiện thực tế và nguồn sẵn có để thực
hiện quyền tự chủ ở các mức độ về tự chủ khác nhau như tự chủ hoàn toàn, tự chủ một
phàn và tự chủ trong điều kiện được đảm bảo toàn bộ chi phí.
Bản chất của tự chủ là văn hóa quản lý phân quyền. Sự phân cấp về trách
nhiệm công việc cũng như trong các chức năng quản lý được tiến hành đồng thòi, đó
là điều thiết yếu để đảm bảo sự thành công trong tự chủ.
Nội dung của tự chủ đại học bao gồm:
- Tự chủ về tài chính: Quyền tự chủ của trường trong việc quản lý tài chính và
phân bổ nguồn tài chính. Tự chủ về tài chính là các trường có quyền quyết định về
hoạt động tài chính của nhà trường. Quyền tự chủ về tài chính cho phép trường có điều
kiện huy động các nguồn lực để hiện thực hóa những mục tiêu đề ra.

-

Tự chủ về tổ chức, biên chế: Quyền tự chủ của trường đại học trong việc ra quyết định
cơ cấu tổ chức và cơ chế ra quyết định. Nội dung gồm: có quyền quyết định thành lập
hoặc bãi bỏ các khoa, bộ môn, phòng, ban, các chuyên ngành đào tạo; quyền tự chủ
của trường trong việc tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực một cách phù họp nhất
theo yêu cầu của trường; quyền quyết định các chức danh khoa học và sư phạm thuộc
phạm vi của trường, theo tiêu chuẩn của trường và quy định của Nhà nước.


-

Tự chủ về hoạt động của trường: Tự chủ về hoạt động chuyên môn, tổ

chức hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học theo chức năng của trường.
1.2.2.
Trách nhiêm
• xã
• hôi
Theo Từ điển Anh - Việt (1975), thuật ngữ trách nhiệm xã hội được hiểu là
“trách nhiệm, trách nhiệm giải thích”.
Hiện nay thuật ngữ tự chịu trách nhiệm (accountability) đã được đưa vào các
văn bản pháp quy của Nhà nước như Luật Giáo dục, Điều lệ trường đại học, Điều lệ


trường cao đẳng, Nghị định 43/2006/NĐCP, tuy nhiên chưa có sự giải thích rõ nội hàm
của cụm từ này, điều này đã gây nên những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này.
Theo ý kiến của Phạm Phụ, trách nhiệm xã hội là trách nhiệm của nhà trường
đối vói sinh viên, cha mẹ sinh viên, người sử dụng lao động, công chúng nói chung và
Nhà nước. Trách nhiệm này bao gồm: Việc đảm bảo chất lượng đào tạo, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, thông tin minh bạch và trách nhiệm báo cáo giải trình công
khai với công chúng, đem lại sự thỏa mãn cho sinh viên và cộng đồng [39].
Nghiên cứu về TNXH, Phạm Thị Ly cho rằng: Trách nhiệm giải trình là sự
thừa nhận về trách nhiệm đối với mọi hành động, mọi sản phẩm, mọi quyết định hay
chính sách mà chúng ta đưa ra trong việc lãnh đạo, quản lý, và thực hiện công việc;
gắn với nghĩa vụ báo cáo, giải thích, biện minh cho mọi hậu quả của những việc chúng
ta làm. Khả năng giải trình trách nhiệm được hiểu như năng lực thực hiện nghĩa vụ
thông tin đầy đủ, năng lực biện minh cho hành động của mình trong quá khứ hoặc
tương lai, và chịu sự trừng phạt nếu như hành động ấy vi phạm các quy tắc đạo đức và

pháp lý [32].
Khi nghiên cứu về TNXH (Accountability), các tác giả dùng cụm từ khác nhau
đó là: Trách nhiệm xã hội; trách nhiệm giải trình; tự chịu trách nhiệm. Nhưng để thuận
tiện trong quá trình nghiên cứu, trong luận văn dùng cụm từ “trách nhiệm xã hội”.
Trách nhiệm xã hội chính là việc nhà trường tự đánh giá và giám sát việc thực
hiện các quy định của Nhà nước, sẵn sàng giải trình, công khai và minh bạch các hoạt
động của nhà trường và chịu trách nhiệm về các kết quả hoạt động của mình, sẵn sàng
giải trình trước tập thể nhà trường, trước Nhà nước và trước xã hội nhằm đảm bảo lợi
ích của chính bản thân nhà trường, của Nhà nước, của các bên liên quan.
Qua nghiên cứu về vấn đề TNXH, luận văn xác định: Trách nhiệm xã hội của
các trưòmg là trách nhiệm của nhà trường đối với Nhà nước, người tài trợ, người học
và gia đình họ, người sử dụng sản phẩm và dịch vụ của nhà trường, các cộng đồng xã
hội liên quan. Trách nhiệm này bao gồm: thực hiện đúng các cam kết của nhà trường


với xã hội; đảm bảo chất lượng đào tạo; sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; đảm bảo
thông tin minh bạch và báo cáo giải trình công khai với các cấp quản lỷ và công
chúng; đem lại sự thỏa mãn cho người học và cộng đồng nhằm đảm bảo lợi ích của
nhà trường, Nhà nước, người học và cộng đồng xã hội. Trách nhiệm xã hội còn thể
hiện bằng trách nhiệm của người đứng đầu với tập thể cán bộ, giáo viên, giảng viên
của trường để tạo ra sự đồng thuận của các thành viên trong nhà trường và xã hội.
Trách nhiệm xã hội (Accountability) là nghĩa vụ báo cáo mang tính đạo đức và
quản lý về những hoạt động và kết quả thu được, giải thích kết quả thực hiện và thừa
nhận trách nhiệm đối với cả những kết quả không mong đọi của nhà trường cho các
bên liên quan. Trách nhiệm giải trình là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt đối với
một trường có quyền tự chủ cao. Khi nói tới trách nhiệm giải trình sẽ có 2 nội dung đặt
ra: Giải trình vói ai? Giải trình về nội dung gì?
Thứ nhất, giải trình với ai? Trong quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ,
nhà trường liên quan trực tiếp hay gián tiếp vói nhiều bên: Xã hội nói chung, chính
quyền các cấp, người sử dụng lao động, người học và gia đình, cán bộ, giảng viên của

trường... Đây là những đối tượng mà các nhà quản lý phải giải trình.
Thứ hai, giải trình về nội dung? Nội dung cơ bản về thực hiện TNXH thể hiện
qua một số vấn đề như: Sự công bằng trong tiếp cận giáo dục, chất lượng đào tạo, sự
tương xứng giữa trình độ đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động, giải trình về việc
sử dụng các nguồn lực và giải trình theo yêu cầu của các bên hên quan.
Do đó, có thể hiểu “trách nhiệm xã hội” là việc nhà trường phải tự đánh giá và
giám sát việc thực hiện các quy định của Nhà nước, sẵn sàng giải trình và minh bạch
hoá các hoạt động của trường và chịu trách nhiệm về các kết quả hoạt động này trước
các đối tượng có liên quan.
Thực hiện TNXH của các cơ sở giáo dục chính là sự nhận thức của tất cả các
thành viên trong nhà trường về mục tiêu, nội dung, quyền hạn và trách nhiệm của
mình trong quá trình thực hiện quyền tự chủ và TNXH. Đó chính là cơ sở, điều kiện


để tạo ra sự thống nhất, đồng thuận của chính các thành viên trong nhà trường và xã
hội; để làm tốt việc này, các cơ sở giáo dục cần phải công khai, minh bạch mọi hoạt
động, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra môi trường và văn hóa
quản lý dựa trên kết quả. Nếu thực hiện tốt điều này, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành và thúc đẩy mọi thành viên hành động một cách tự giác, chủ
động, sáng tạo vì sự phát triển bền vững của nhà trường.

1.2.3.

Mối quan hệ giữa tự chủ và trách nhiệm xã hội trong lĩnh vực tài chính
Các cơ sở giáo dục là một loại doanh nghiệp đặc biệt (WTO gọi là dịch vụ),

sản xuất ra loại hàng hóa đặc biệt. Nhà nước hoạt động “sản xuất nguồn nhân lực”
trong nền kinh tế thị trường cũng như mọi hoạt động doanh nghiệp khác phải được tự
chủ trong “sản xuất” và phải chịu trách nhiệm về “sản phẩm” của mình.
Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội là hai mặt thống nhất trong mọi hoạt động

của một nhà trường, tự chủ chủ yếu để đảm bảo hiệu quả và hiệu suất cao; còn trách
nhiệm xã hội chủ yếu là để đảm bảo chất lượng và công bằng xã hội trong giáo dục. Ý
kiến của Phạm Phụ: “Tăng quyền tự chủ cho các trường đại học. Mục đích của chính
sách này là để các cơ sở GDĐH sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của mình và
phản ứng tốt hơn với những tín hiệu của thị trường, với những yêu cầu của xã hội”.
Tuy nhiên, xin lưu ý: “Quyền tự chủ lớn hơn phải được “đánh đổi ” bằng trách nhiệm
xã hội nhiều hơn”. Nghĩa là, “tự chủ đại học phải đi kèm với quản trị đại học và phải
có đủ 2 vế, vế thứ nhất là quyền lợi, còn vế thứ hai là nghĩa vụ”. “Quản trị đại học là
nói đến cung cách quản trị để trường đại học có thể đạt được các mục tiêu đặt ra một
cách có “trách nhiệm xã hội”, minh bạch và hiệu quả” [37].
Khi trao quyền tự chủ trong quá trình thực hiện, sự phân quyền luôn luôn phải
đi đôi với việc tự chịu trách nhiệm. Các cơ quan, đơn vị thường đòi hỏi sự tự chủ của
mình ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực hoạt động nhưng ít khi đề cập đến việc tự
chịu trách nhiệm đối với những hậu quả do sự tự chủ của chính mình gây ra trong quá
trình hoạt động. Việc thường xuyên chú ý đến những hệ quả của sự tự chủ sẽ giúp cho


nhà trường khẳng định được năng lực tự chủ của mình. Các cơ sở giáo dục không thể
tồn tại trong hệ thống của mình với sự tự chủ hoàn toàn không có sự ràng buộc nào
với các đơn vị cùng cấp, luật pháp và các tổ chức xã hội xung quanh.
Hiện nay, tự chủ đang là một vấn đề lớn của các cơ sở GDĐH Việt Nam. Tuy
nhiên, phần lớn các trường khi nhấn mạnh đòi hỏi về tăng mức tự chủ đã không lưu ý
đầy đủ đến mặt bên kia của tự chủ là trách nhiệm xã hội. Tự chủ phải gắn với trách
nhiệm giải trình.
Khi bối cảnh đất nước thay đổi và cơ chế quản lý chuyển sang cơ chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các trường buộc phải đối mặt với không ít
thách thức và cơ hội xuất hiện không theo “kể hoạch”. Trong hoàn cảnh đó chỉ các
trường có các quyền tự chủ nhất định mới có khả năng đương đầu với bối cảnh mới và
có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn nhằm đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu phát triển của
bản thân cũng như đáp ứng kịp thời những yêu càu của Nhà nước, của xã hội mà trước

hết là của người học.
Nhà nước phải có cơ chế để các trường thực sự có các quyền tự chủ đó và có
chế tài buộc các trường phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình. Việc tăng quyền
tự chủ và TNXH cho các trường không có nghĩa là các trường hoàn toàn có quyền
hoạt động không có sự kiểm soát và can thiệp của Nhà nước, mà là gắn kết hơn sự
phối họp giữa tác động của Nhà nước và thẩm quyền của nhà trường dưới sự tham gia,
giám sát của các nhóm lợi ích liên quan. Trong đó, Nhà nước sẽ rút khỏi việc quản lý
trực tiếp các cơ sở giáo dục nhưng đồng thòi sẽ đưa ra những phương thức mới để
kiểm soát trách nhiệm của nhà trường thông qua những cơ chế quản lý bao gồm các
lĩnh vực chính là tài chính, nhân lực, đào tạo và công nhận chất lượng sản phẩm. Các
cơ sở giáo dục không còn cách nào khác là phải phấn đấu để đáp ứng được các tiêu chí
được cấp kinh phí và các quy định thực hiện, đồng thời cũng phải tự khẳng định
thương hiệu của mình trong xã hội.
Muốn đổi mới GDĐH ở Việt Nam, giải pháp “Tăng quyền tự chủ và TNXH


cho phù hợp với chức năng của các cơ sở trong nền kinh tể thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” là một nhân tố quan trọng hiện nay. Và để đảm bảo sự phát triển bền
vững của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, hoạt động tự chủ của các cơ sở giáo
dục phải được xã hội thừa nhận và họ phải chấp nhận lẫn nhau trong cùng cộng đồng
giáo dục. Nói cách khác, quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm không mang lại sự khác
biệt quá lớn trong từng yếu tố giữa các cơ sở giáo dục, nhờ vậy đó mới có thể có sự
thống nhất chung. Khi có tiếng nói chung, hệ thống giáo dục mói có thể phát triển
ngày càng lớn mạnh.

1.3.

Tài chính và hoạt động tài chính

1.3.1.


Tài chính
Tài chính ra đòi và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử nhất

định khi mà ở đó xuất hiện nền sản xuất hàng hóa, cùng vói tiền tệ và xuất hiện Nhà
nước.
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà có thể có những định nghĩa khác nhau về
tài chính:
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 1998 do
Nguyễn Như Ý chủ biên thì: “Tài chính là việc quản lý thu, chi tiền trong một tổ chức
xã hội hay một nước. Tài chính là tiền và thu, chi nói chung”.
Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng của Nhà xuất bản Văn hoá Thông
tin, 1998 cho rằng: “Tài chính là hoạt động của Nhà nước về các khoản thu và chỉ, về
tiền nói chung”.
Theo Dương Thị Bình Minh: “Tài chỉnh là hệ thống các quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chinh bằng việc tạo lập và sử dụng các
quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ và tiêu dùng của các chủ thế trong xã hội”
[33].
Từ các phân tích trên có thể hiểu: “Tài chỉnh trong giáo dục theo nghĩa hẹp là
quá trình huy động, phân phổi và sử dụng các nguồn lực tài chính cho việc tổ chức


quá trình giáo dục đào tạo; hiểu theo nghĩa rộng là sự biểu hiện và vận động của các
quy luật kinh tể thông qua đồng tiền nhằm phát triển bền vững xã hội, thông qua việc
làm, tăng trưởng và cải thiện vốn con người, vốn tổ chức, vốn xã hội

1.3.2.

Hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình


phân phối các nguồn lực tài chính bằng việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm
đáp ứng yêu càu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Hoạt động quản lý tài chính được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm
xã hội. Mặc dù có nhiều loại hình trường như: trường công lập, trường bán công,
trường dân lập, trường tư thục và trường có vốn đầu tư nước ngoài với những hình
thức pháp lý và bộ máy tổ chức khác nhau, có những đặc điểm riêng về hoạt động, đối
tượng đào tạo, tài chính... nhưng nội dung các hoạt động tài chính, mục tiêu và chức
năng của quản lý tài chính ừong các nhà trường thì giống nhau.
Hoạt động tài chính của nhà trường khá phức tạp và thể hiện thông qua nhiều
quan hệ kinh tế giữa nhà trường với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên có
thể xếp chúng thành 3 nhóm cơ bản: Quan hệ tài chính giữa nhà trường với Nhà nước,
quan hệ tài chính giữa nhà trường với thị trường và quan hệ tài chính trong nội bộ nhà
trường.
Như vậy có thể hiểu: “Hoạt động tài chính là các hoạt động có liên quan đến
công tác huy động các nguồn tài chính, khai thác, quản lý và sử dụng nguồn tài chính
của nhà trường nhằm tăng thu nhập, nâng cao hiệu quả trong quản lý đào tạo và đảm
bảo sự phát triển bền vững của nhà trường. Hoạt động tài chính nhằm giải quyết mối
quan hệ kinh tể phát sinh, được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, để thực hiện mục tiêu
của nhà trường
Hoạt động tài chính ttong nhà trường gồm hoạt động thu và hoạt động
chi.
Nội dung thu trong nhà trường gồm thu từ ngân sách Nhà nước, thu từ hoạt


động sự nghiệp và thu khác của trường theo quy định của pháp luật.
Nội dung chi trong nhà trường gồm chi thường xuyên và chi không thường
xuyên.

-


Chi thường xuyên, gồm những nội dung sau: Chi cho cán bộ giáo viên và lao động
họp đồng; Chi cho học sinh; Chi quản lý hành chính; Chi nghiệp vụ giảng dạy, học
tập; Chi phí thuê giáo viên họp đồng giảng dạy, chi trả tiền dạy vượt giờ cho giáo viên
của nhà trường; Chi cho công tác tuyển sinh, thi tốt nghiệp; Chi mua sắm sửa chữa
thường xuyên...

-

Chi không thường xuyên gồm: Chi nghiên cứu các đề tài khoa học, công nghệ của cán
bộ, giáo viên; Chi thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên, nhân
viên; Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia; Chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất
được cấp thẩm quyền giao; Chi đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết
bị, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp; Các khoản chi khác theo
qui định của pháp luật (nếu có).

1.4.

Quản lý tài chính theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội

1.4.1.

Vị trí, chức năng của Hiệu trưởng trong quản lý nhà trường
Trách nhiệm của hiệu trưởng nhà trường đã được Luật Giáo dục quy định tại

Điều 54: "Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lỷ các hoạt động của nhà
trường, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận". Như vậy, có thể
coi Hiệu trưởng là người đại diện cho quyền lực Nhà nước điều hành và chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động ừong nhà trường [29].
Hiệu trưởng là thủ trưởng nhà trường. Các vai ừò của Hiệu trưởng là: Vai trò

người lãnh đạo; Vai trò người quản lý; Vai trò người giáo viên; Vai trò nhà tư vấn,
đồng nghiệp của giáo viên; Vai trò người hợp tác phối hợp với chính quyền địa
phương, phụ huynh học sinh; Vai ừò nhà nghiên cứu khoa học công nghệ; Vai trò
người học thường xuyên.
Hiệu trưởng có trách nhiệm xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý tài chính trong


nhà trường, ừong đó có Hiệu trưởng là chủ tài khoản; Là người có trách nhiệm trực
tiếp với nguồn tài chính: huy động, phân phối, quản lý tài chính trong nhà trường, có
mối quan hệ với ngân hàng, tài chính và các nhà tài trợ.

-

Hiệu trưởng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc kế toán thực hiện báo cáo đúng,
kịp thời cho cấp trên.

-

Hiệu trưởng theo dõi, đôn đốc thủ quỹ thực hiện việc thu, chi và kiểm quỹ tiền mặt
theo đúng qui định.

-

Hiệu trưởng ký duyệt các dự toán, kế hoạch thu chi, các hố sơ tài chính trong nhà
trường.

1.4.2.

Quản tý tài chính trong nhà trường theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã


hội
1.4.2.1.

Khái niệm
Từ khái niệm quản lý và hoạt động tài chính có thể hiểu: “Quản lý tài chỉnh

theo hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội là tác động có định hướng của cán bộ quản
lỷ tài chỉnh thông qua lập kể hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra công tác quản lỷ tài
chỉnh nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm lực và cơ hội để đạt được mục
đích nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển của nhà trường”.

1.4.2.2.

Nội dung quản ỉỷ tài chỉnh trong nhà trường theo hướng tự chủ

và trách nhiệm xã hội
• Lập kế hoạch phân bổ tài chính cho các hoạt động của nhà trường
Kế hoạch hoá là một chức năng cơ bản của quản lý. Kế hoạch hoá có nghĩa là
xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường,
biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của
chức năng kế hoạch hoá:

-

Xác định, hình thành mục tiêu đối với tổ chức;

-

Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ
chức để đạt được các mục tiêu này;



-

Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó.
Kế hoạch tài chính phải phù hợp với nhiệm vụ năm học và điều kiện của nhà
trường, đặc biệt là đảm bảo đúng thời gian để nguồn vốn đạt hiệu quả cao. Nhưng năm
tài chính không giống với năm học, do đó Hiệu trưởng không những phải nắm vững
yêu cầu nhiệm vụ năm học, tình hình sửa chữa, xây dựng nhà trường ừong năm học
này mà còn phải dự đoán tình hình phát triển nhà trường về cơ sở vật chất cũng như về
chuyên môn nửa năm sau để có kế hoạch tài chính chính xác, cụ thể.
Hiệu trưởng cần lập kế hoạch tài chính cụ thể để lập dự toán hạch toán kinh tế
dễ dàng hơn.
Nội dung lập kế hoạch phân bổ tài chính cho các hoạt động của nhà trường:

-

Xác định mục tiêu của hoạt động tài chính.

-

Đánh giá thực trạng hoạt động tài chính của nhà trường.

-

Xác định kế hoạch tài chính.

-

Xác định các bước và các biện pháp thực hiện kế hoạch tài chính.

• Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong nhà trường
Tổ chức bộ máy quản lý là khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần
phải chuyển hoá những ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Nhờ việc tổ chức
có hiệu quả, người quản lý có thể phối họp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và
nhân lực. Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận, các
phòng ban cùng các công việc của chúng. Và sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ sẽ tiếp
nối ngay sau các chức năng kế hoạch hoá và tổ chức.
Hiệu trưởng có trách nhiêm xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý tài chính trong
nhà trường, trong đó có Hiệu trưởng là chủ tài khoản, kế toán, thủ quỹ với các nhiệm
vụ được phân công như sau:

-

Hiệu trưởng
Là người có ừách nhiệm trực tiếp với nguồn tài chính: huy động, phân phối,
quản lý tài chính trong nhà trường, có mối quan hệ với ngân hàng, tài chính và các nhà


tài trợ.
+ Hiệu trưởng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc kế toán thực hiện báo
cáo đúng, kịp thời cho cấp ừên.
+ Hiệu trưởng theo dõi, đôn đốc thủ quỹ thực hiện việc thu, chi và kiểm quỹ
tiền mặt theo đúng qui định.
+ Hiệu trưởng ký duyệt các dự toán thu chi, các hố sơ tài chính trong nhà
trường.

-

Kế toán
Kế toán là người giúp Hiệu trưởng tổ chức chỉ đạo, thực hiện toàn bộ công tác

kế toán, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hiệu trưởng đồng thời chịu sự chỉ đạo và kiểm
tra về mặt nghiệp vụ của kế toán cấp trên, của cơ quan tài chính, thống kê cung cấp.

-

Thủ quỹ
Thủ quỹ là người giữ tiền mặt của các loại quỹ trong nhà trường. Tuy nhiên,
tiền mặt trong nhà trường chỉ được giữ vừa đủ để chi phí thông thường trong tháng.
Các khoản tiền lớn phải được gửi ở ngân hàng hoặc kho bạc. Thủ quỹ chỉ xuất tiền khi
có chứng từ họp lệ theo quy định của thủ tục tài chính.
Như vậy, nội dung tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong nhà trường bao gồm:

-

Tổ chức phối họp giữa các lực lượng tham gia quản lý tài chính.

-

Thực hiện chế độ thủ trưởng trong quản lý tài chính.

-

Xác định các bộ phận quản lý tài chính ừong nhà trường.

-

Bố trí, phân công nhiệm vụ cho các bộ phận tham gia quản lý tài
chính.
• Chi đạo hoạt động tài chính trong nhà trường
Đây là chức năng thể hiện năng lực của người quản lý tài chính. Sau khi hoạch

định kế hoạch và sắp xếp tổ chức, người cán bộ quản lý tài chính phải điều khiển cho
hệ thống hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Đây là quá trình sử dụng quyền lực
quản lý để tác động đến các đối tượng quản lý một cách có chủ đích nhằm phát huy


×