Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Đề tài Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thực trạng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doan nghiệp Nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.55 KB, 42 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

ĐỀ TÀI:
CỔ PHẨN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA DNNN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cổ phần hóa
1.1.2. Cổ phần hoá DNNN
1.1.3. Công ty cổ phần
- Khái niệm
- Đặc điểm
- Hình thức hoạt động
1.1.4.Các công việc phải làm để thực hiện cổ phần hóa DNNN
1.2. Tính tất yếu của cổ phần hóa DNNN
1.2.1. Yêu cầu đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1.2.2. Yêu cầu mọi doanh nghiệp đều hoạt động theo một luật chung thống nhất
1.2.3. Các ưu điểm cơ bản của loại hình công ty cổ phần
1.2.4. Hiệu quả hoạt động của DNNN
1.3. Các kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc
1.3.1.1. Tình hình cổ phần hóa ở Trung Quốc
- Giai đoạn thứ nhất 1984 – 1991
- Giai đoạn thứ hai 1992 – nay

1



Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp ở
Trung Quốc
- Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và quyền
kinh doanh
- Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với doanh
nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
- Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa quyền sở
hữu
Rút ra kinh nghiệm
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ
PHẨN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
- DNNN thành lập một cách tràn lan, quy mô nhỏ
- Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh còn thấp, không
tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước
- Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1.khái quát về cổ phần hóa DNNN
2.2.1.1. Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến nay
2.2.2.Các giải pháp đã áp dụng để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN
2.2.3. Đánh giá tình hình cổ phần hoá trong thời gian qua
2.2.3.1. Các kết quả chủ yếu
2.2.3.2. Các hạn chế chủ yếu và các vướng mắc chưa được giải quyết
-Tốc độ cổ phần hoá còn chậm

2



Website: Email : Tel : 0918.775.368

-Khó khăn trong việc xác đinh các giá trị tài sản như đất đai,máy moc,và
giá cổ phần
- Xác định đối tác chiến lược
2.3. Phương hướng, giải pháp đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá
2.3.1. Phương hướng
2.3.2. Nhiệm vụ
2.3.3. Các giải pháp để các DN đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa
2.3.3.1. Nhà nước
a) Thúc đẩy việc hoàn thiện các yếu tố khách quan cần thiết cho tiến trình cổ
phần hóa
b) Phát triển và hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
c) Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, tạo khung khổ
pháp lí thuận lợi cho việc cổ phần hóa DNNN
d) Tăng cường công tác chỉ đạo và nâng cao năng lực quản lý đối với quá trình
cổ phần hóa
e)Phát triển tốt thị trường chứng khoán,thị truờng tài chính là đông lực thúc đẩy
cổ phần hoá
f)Các chính sách thu hút đầu tư,tỉ lệ nắm giữ cổ phàn của nhà đầu tư nước ngoài
2.3.3.2. Doanh nghiệp
a) Nâng cao công tác tuyên truyền cho cán bộ công nhân viên về sự cần thiết cổ
phần hóa DNNN
b) Đẩy nhanh tiến độ xác định giá trị của các DN và bán cổ phần. Hạn chế và
khắc phục việc bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN và chống thất thoát tài sản
của Nhà nước
c) Tăng cường quản trị công ty cổ phần để thực sự đưa công ty sau cổ phần hóa
hoạt động trong môi trường bình đẳng với các DN khác

d) Tăng cường chỉ đạo cổ phần hóa trong toàn bộ Tổng công ty
3


Website: Email : Tel : 0918.775.368

e) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình cổ phần hóa
f)Tăng cường tính minh bạch trong công bố thông tin về doanh nghiệp
g)Phát triển đội ngũ quản trị năng động phù hợp với sự mở rộng của thị trường
trong nước
h)Chiến lược phát triển rõ ràng
LỜI KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo

4


Website: Email : Tel : 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta có chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn hội nhập thành công, năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế nói chung, của từng doanh nghiệp và từng sản phẩm nói
riêng phải không ngừng được nâng cao.
Để nâng cao hiệu qủa và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà
nước, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được xác định là một
trong những giải pháp quan trọng. Ngày 8/6/1992 ,Hội đồng bộ trưởng (nay là
chính phủ) đưa ra quyết định số 202/CT “ Về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển
một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”. Cổ phần hóa là quá trình
chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước thành các doanh nghiệp hoạt động theo

quy chế công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp, nhằm đa dạng hóa sở hữu, tạo
điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa được làm chủ thực
sự, tạo điều kiện nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giải
quyết thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người
lao động.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong những năm gần
đây, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, nhưng quá trình này vẫn bị xem
là hết sức chậm chạp. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và
Nhà nước ta đ ã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của khu
vực kinh tế Nhà nước như cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp
xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, giải thể các doanh nghiệp làm ăn không hiệu
quả… Trong đó cổ phần hóa được coi là giải pháp hàng đầu có khả năng mang
lại lợi ích hài hòa cho Nhà nước cũng như nhiều bộ phận xã hội khác.
Chính vì vậy việc nghiên cứu cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy
không phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết, đặc biệt là đối với sinh viên kinh
tế. Thông qua việc tìm hiểu nội dung của chính sách cổ phần hóa và các vấn đề
5


Website: Email : Tel : 0918.775.368

có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan về những khó khăn hạn
chế của cổ phần hóa, điều đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những
hạn chế đó.

6


Website: Email : Tel : 0918.775.368


PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA VỀ DNNN
1.1 Một số khái niệm
1.1.1.cổ phần hoá
Là quá trình chuyển quyền sở hữu của tài sản hoặc các hoạt động kinh doanh từ
Nhà nước sang cho một thực thể do tư nhân hoặc tổ chức sở hữu.
1.1.2 Cổ phần hoá DNNN
Là quá trình chuyển 1 phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân,
tổ chức, đồng thời chia nhỏ phần vốn của công ty thành nhiều phần bằng nhau
nhằm thay đổi hình thức sở hữu của công ty từ một chủ sở hữu thành nhiều chủ
sở hữu
1.1.3 Công ty cổ phần
- Khái niệm
Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là công ty cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân với số lượng tối
thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
- Đặc điểm
Cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản băng
khoản vốn mình đã góp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và có quyền phát
hành các loại chứng khoán ra thị trường để huy động vốn.
- Hình thức hoạt động
Công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu ,mỗi chủ sơ hữu chỉ chịu trách nhiệm cao
nhất bằng phần vốn góp của mình. Bằng cách phát hành cổ phiếu, CTCP có thể
thay đổi và tăng số chủ sở hữu trong quá trình hoạt động kinh doanh. Trong
côngh ty cổ phấn quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách biệt khá rõ ràng,
hơn nữa CTCP còn được giám sát thường xuyên và có hiệu quả bởi thị trường
chứng khoán và cơ chế hoạt động bên trong của nó.
7



Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.1.4.Các công việc phải làm để thực hiện cổ phần hóa DNNN
Xác định giá trị của doanh nghiệp:
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà người mua, người bán cổ phần đều chấp
nhận được.
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của
doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả.
Các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp:
Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa
Giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về
phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị
trường tại thời điểm cổ phần hóa.
Ngoài ra, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng
cũng được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp. Lợi thế này thể hiện ở tỷ
suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ
phần hóa. Giá trị lợi thế nói trên chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh
nghiệp.
2. Phê duyệt phương án cổ phần hóa và quyết định chuyển doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần:
Sau khi tính trị giá thực tế của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tiến hành
lập phương án cổ phần hoá và đệ trình phương án đó lên cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Thẩm quyền phê duyệt được quy định như sau:
Đối với những doanh nghiệp có giá trị thuộc phần vốn Nhà nước trên 10 tỷ
đồng: Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng
công ty "91" xây dựng phương án cổ phần hóa trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt và quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
- Đối với những doanh nghiệp có giá trị thuộc phần vốn Nhà nước từ 10 tỷ đồng
8



Website: Email : Tel : 0918.775.368

trở xuống, Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt phương
án, quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và chỉ đạo
thực hiện cổ phần hóa.
3. Đăng ký kinh doanh của công ty cổ phần:
Doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa sẽ hoạt động theo Luật doanh nghiệp
và đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Trong thời hạn 7 ngày kể từ khi
nhận đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh cho công ty cổ phần.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm:
Quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần của cấp
có thẩm quyền ;
Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần đã được Đại hội cổ đông
thông qua
Biên bản bầu Hội đồng quản trị và cử Giám đốc điều hành;
Giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần
hóa (nếu có).
Sau khi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được cấp, doanh nghiệp cổ
phần vẫn phải tiến hành các thủ tục sau giấy phép theo đúng các quy định của
Luật doanh nghiệp.
1.2. Tính tất yếu của cổ phần hoá DNNN
Thực hiện CPH là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá trình
đổi mới kinh tế ở Việt Nam, CPH sẽ giải quyết được các vấn đề sau:
 Thứ nhất: Thực hiện CPH là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất. CPH góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hoá các
hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công


9


Website: Email : Tel : 0918.775.368

hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ
sản xuất này không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu.
Vì vậy CPH sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất
phát triển.
 Thứ hai: Thực hiện CPH nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất, thu hút
thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó , có
trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh
nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên
năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
 Thứ ba: Bên cạnh đó, CPH là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và
trên thế giới.
 Thứ tư: Thực hiện CPH là một trong những giải pháp quan trọng nhằm
huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy
động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng sản xuất
kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh tranh trên
thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
 Thứ năm: Cổ phần hoá tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm
vĩ mô và vi mô. Chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần không những chỉ là sự
thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công tác quản lý ở cả
phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân.
 Thứ sáu: Cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh
tế trong quá trình đổi mới.
Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống DNNN,

CPH với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ đó là một chủ trương

10


Website: Email : Tel : 0918.775.368

đúng đắn, phù hợp với quá trình đổi mới, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên
CHXH ở nước ta.
1.2.1. Yêu cầu đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
Nước ta đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phát triển kinh tế theo
mô hình kinh tế thị trường đinh hướng kinh tế nhà nước làm chủ đạo,từ kinh tế
nhà nước ,kinh tế tư nhân,doanh nghiêp lien doanh,doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài…Và chúng ta đang trong quá trình hội nhập WTO nên việcđẩy
mạnh quá trình cổ phần hóa là một tất yếu của nền kinh tế.
1.2.2. Yêu cầu mọi doanh nghiệp đều hoạt động theo một luật chung thống
nhất
Bên cạnh đó sự ra đời của các Công ty cổ phần là một bước tiến cuả lực
lượng sản xuất. Chúng đã biến những người sở hữu tư bản (với những đặc điểm
cổ điển của nó) thành những người sở hữu thuần tuý, một mặt chỉ đơn giải điều
khiển và quản lý tư bản của người khác, mặt khác là những nhà tư bản - tiền tệ
thuần tuý (cả tiền công lao động của người điều khiển cộng với lợi nhuận doanh
nghiệp về tay nhà tư bản, cổ phần thu về dưới dạng lợi tức). Quyền sở hữu tư
bản hoàn toàn tách rời với chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực
tế.
Sự ra đới của các công ty cổ phần làm cho quy mô sản xuất được tăng lên,
mở rộng một cách to lớn, đến nỗi những nhà tư bản riêng lẻ không thể làm nổi.
Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay
trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thủ

tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng phương thức tư
bản chủ nghĩa. Xuất hiện mâu thuẫn tự nó lại thủ tiêu nó.
Các Công ty cổ phẩn là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của
quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản những
11


Website: Email : Tel : 0918.775.368

chức năng của người sản xuất liên hiệp, tức là thành những chức năng xã hội và
trở thành những nhà máy hợp tác, đến một giai đoạn phát triển nhất định lực
lượng sản xuất sẽ làm cho "Một phương thức sản xuất mới nảy ra và phát triển
trên cơ sở một phương thức sản xuất cũ".
Công ty cổ phần là sản xuất tư nhân không có sự kiểm soát của quyền sở
hữu tư nhân. Những tư liệu sản xuất này sẽ không còn làm tư liệu và sản phẩm
của nền sản xuất tư nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể làm tư liệu sản xuất trong tay
những người sản xuất liên hiệp, tức là chỉ có thể làm sở hữu xã hội của họ, cũng
như chúng là sản xuất xã hội của họ.
Chính bản thân những nhà máy hợp tác của công nhân là một Lỗ thủng
đầu tiên trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa lao động và
tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dù ban đầu
nó chỉ được xoá bỏ bằng cách biến những người lao động liên hiệp thành những
nhà tư bản với chính bản thân mình, nghĩa là cho họ "có thể dùng tư liệu sản
xuất” để bóc lột lao động của chính họ.
1.2.3. Các ưu điểm cơ bản của loại hình công ty cổ phần
Lợi thế về huy động vốn
Lợi thế về kiểm soát và sử dụng vốn
Công bằng cho mọi người
Thông tin minh bạch hóa của doanh nghiệp
Tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng

Thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Sự ra đời và phát triển của loại hình công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển
hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung
vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn
cung cấp sản phẩm cho sự cho sự phồn vinh của thị trường này. Đổi lại, sự thịnh

12


Website: Email : Tel : 0918.775.368

vượng của thị trường tài chính tạo điểu kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy
nở.
Trải qua thời gian, hình thái công ty cổ phần ngày càng được hoàn thiện,
phát triển và đa dạng hoá. Có thể nói công ty cổ phần là một phát minh quan
trọng nhất trong lịch sử phát triển, các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc
cách mạng trong công nghiệp của TBCN, chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm
thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường.
1.3. Các kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc
Giai đoạn 1984 -1991:
Cổ phần hóa ở Trung Quốc đã được thực hiện từ năm 1984 với sự ra đời
của Công ty Cổ phần Hữu hạn Bách hóa Thiên Kiều (Bắc Kinh). Sau đó, trong
Văn kiện quan trọng được ban hành tháng 12 năm 1986, Quốc Vụ viện Trung
Quốc đã cho phép “Các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và
vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần
hóa”.Đến cuối năm 1991 có hơn 3000 doanh nghiep được tiến hành cổ phần hóa
thành công.
Giai đoạn thứ hai 1992 – nay:
Đến cuối năm 1993, Trung Quốc đã có hơn 3.000 đơn vị thực hiện thí

điểm cổ phần hóa.
Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN đã chuyển
thành công ty cổ phần, với tổng số vốn là 600 tỷ NDT, hơn 4.300 công ty cổ
phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng số vốn cổ
phần đạt 358 tỷ NDT, trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35 tỷ
NDT là giá trị cổ phần phát hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

13


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm CPH cho
thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là cách đi đúng
đắn và hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu
rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản
pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh
nghiêp”, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều
lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ
sở hữu toàn dân”, “Các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về
quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”,
“Điều lệ quản lý đăng ký công ty”, “Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”,
“Luật ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí nghiệp hương trấn”…, đã được ban
hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. Trong đó, hai văn bản có tầm quan
trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”
và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn
dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của
DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị
trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ

chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu
thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng… Có thể thấy, “Luật
Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các
doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất - kinh doanh, góp phần tháo
gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay
của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở
hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ
chế kinh doanh của các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội
dung không những tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu
thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
14


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã
đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến
một số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh
nghiệp, cổ phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính
phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp
nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ
giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất
nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện
cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt
được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp
sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất-kinh doanh, thì sẽ được tạo
điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về
tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các
cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung

Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai
trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong
nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn
bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả
nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm
2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu
của chế độ công hữu”.
1.3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cổ phần hóa và cải cách doanh
nghiệp ở Trung Quốc
-Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp
-Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội

15


Website: Email : Tel : 0918.775.368

-Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh
nghiệp
-Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền sở hữu cổ phần và
quyền kinh doanh
-Chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là trách nhiệm của cổ đông đối với
doanh nghiệp là giới hạn theo mức vốn đầu tư
-Mang tính xã hội hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa và chứng khoán hóa
quyền sở hữu
-Từ tiến trình cổ phần hóa ở trung quốc ta thấy viêt nam cần đẩy mạnh hơn
nữa quá trình cổ phần hóa.Chỉ mới trong vòng hơn 20 năm mà quy mô vốn hóa
của thị trường trung quốc đã khá lớn và tốc độ cổ phần hóa cao.Có thể nói chúng
ta bây giờ có điều kiện khá giống so với trung quốc nên chúng ta có thể học một
số kinh nghiệm của họ.


16


Website: Email : Tel : 0918.775.368

PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ
TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng các DNNN Việt Nam
Các doanh nghiệp Nhà nước ở việt nam được thành lập một cách tràn lan
với quy mô nhỏ, hoạt động kém hiệu quả (do ban quản trị kém không có năng
lực và nạn tham ô tham nhũng…)
Nhiều DNNN hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, sức cạnh tranh còn thấp,
không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, dưới mức trung bình,doanh nghiep nhà
nước có trình độ công nghệ thấp,lạc hậu được nhạp từ nhưngc năm 70 thế kỉ
trước năng suát thấp chất lượng không cao không đáp ứng được nhu cầu đổi mới
nền kinh tế của đất nước.
2.2. Thực trạng cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
2.2.1:Khái quát về cổ phần hóa DNNN
-Phân tích các yếu điểm cơ bản trong hoạt động của các DNNN trong suốt
thời gian dài, chúng ta thấy rằng việc đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp
này là một chủ trương hết sức sáng suốt và phù hợp. Với phương thức cổ phần
hóa DNNN, Nhà nước sẽ vừa được nhẹ bớt gánh nặng quản lý vừa tạo động lực
để cho các doanh nghiệp hoạt động đạt được hiệu quả cao hơn.
-Xuất phát từ quan điểm trên, từ ngày 29/6/1998, Nghị định 44/1998/NĐCP của Chính phủ đã có tác động tăng tốc cho giải pháp với 2 mục tiêu:
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm,
phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu DNNN;
-Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những

người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động
lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất
17


Website: Email : Tel : 0918.775.368

nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế
của đất nước.
-Từ thực tế hoạt động cổ phần hóa DNNN cho thấy, khi cổ phần hóa, vốn
chủ sở hữu DNNN được chuyển đổi thành cổ phần và được bán cho nhiều đối
tượng khác nhau như các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài
doanh nghiệp, Nhà nước có thể giữ lại một tỷ lệ cổ phần hoặc không. Như vậy
hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước duy nhất sang sở hữu
hỗn hợp. Từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức quản lý
cũng như phương hướng hoạt động của công ty. DNNN sau cổ phần hóa trở
thành công ty cổ phần, sẽ tổ chức hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
-Có thể khái quát về cổ phần hóa DNNN là một biện pháp chuyển đổi hình
thức sở hữu trong DNNN, từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông
(trong đó Nhà nước có thể tham gia với tư cách cổ đông hoặc không tham gia).
Đi đôi với việc chuyển đổi sở hữu là việc chuyển DNNN (sau cổ phần hóa) sang
hoạt động theo loại hình công ty cổ phần, được điều chỉnh theo các quy định
trong Luật Doanh nghiệp.
-Về hình thức, đó là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ
phần (vốn) của mình trong doanh nghiệp cho các cá nhân tổ chức trong và ngoài
doanh nghiệp, hoặc trực tiếp tự doanh nghiệp theo cách bán giá thông thường
hay bằng phương thức đấu giá hoặc qua thị trường chứng khoán.
-Về bản chất, đó là phương thức thực hiện xã hội hóa đồng vốn thuộc sở
hữu Nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp 1 chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo nên mô
hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp kinh tế thị trường.

-Việc chọn DNNN để cổ phần hóa là: bất cứ doanh nghiệp nào không
thuộc diện Nhà nước phải đầu tư hoặc tiếp tục giữ 100% vốn, đều sẽ cho tiến
hành cổ phần hóa, trong số này không có tiêu chuẩn phân biệt doanh nghiệp nào
muốn thì cổ phần hóa, doanh nghiệp nào không muốn thì thôi (!)
18


Website: Email : Tel : 0918.775.368

-Tóm lại, qua xem xét thực trạng của DNNN cũng như hiểu rõ thực chất
về cổ phần hóa, cho thấy cổ phần hóa là một giải pháp quan trọng để tiến hành
sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, góp phần giữ vững
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước hiện nay.
2.2.1.1: . Giai đoạn thí điểm từ 6/1992 đến 4/1996
-Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính
phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng
Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm
CPH doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối
với doanh nghiệp Nhà nước .
-Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm,
đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực
thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công
ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg
(1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương
và 2 DN địa phương. Đó là các doanh nghiệp :
Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH
: 1/7/1993.
Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH

: 1/10/1993.
Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH:
1/10/1994
Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực
hiện CPH : 1/7/1995.

19


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển
nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
2.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 5/1996 đến 5/1998
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày 7/5/1996
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà
nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng
thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp,
chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp
chuyển thành công ty cổ phần… Nhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25
doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy tính gộp từ năm
1992 đến tháng 5/1998 cả nước đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần
hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty)
và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lượng, diện CPH cũng đã mở
rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp CPH. Trong số các
doanh nghiệp đã CPH , có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo
Luật công ty. Những doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá gặp khó khăn, như xí
nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày Hiệp
An…, mặc dù không được Nhà nước hỗ trợ vốn, nhưng đã cố gắng khắc phục

khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã
triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa
phương và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ương Đảng, Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam.
2.2.1.3. Giai đoạn cho phép đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa từ 7/1998 đến
nay

20


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà
nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban
đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng nhanh
so với các thời kỳ trước.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định số
44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nước đã cổ phần hoá 430 doanh
nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá lên 460
doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thương mại chiếm
39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản
chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tương đối nhỏ, những công ty
có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh
nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các
doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực
hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nước
nắm giữ trong doanh nghiệp.

Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phương thực hiện CPH , Hà
Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh
nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ
phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Các doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có
hiệu quả cao hơn về nhiều mặt, kể cả những doanh nghiệp mới CPH. Một số
doanh nghiệp trước CPH gặp nhiều khó khăn thì sau CPH các doanh nghiệp này
đã có những tiến bộ rõ rệt, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.

21


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Như vậy, trên thực tế, Nghị định 44/CP được ban hành đã tạo ra một hành
lang pháp lý khá thông thoáng, khuyến khích cả doanh nghiệp và người lao động
tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .
Tuy nhiên, tiến trình cổ phần hoá trong thời gian qua còn chậm so với yêu
cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Sáu tháng cuối năm 1998, kế hoạch đặt
ra là CPH 150 doanh nghiệp, thực hiện chỉ là 100 doanh nghiệp được CPH (đạt
66,6%). Năm 1999, kế hoạch đặt ra là CPH 450 doanh nghiệp, nhưng chỉ thực
hiện được 250 doanh nghiệp (đạt 55,5%).
Để thực hiện nhanh và có hiệu quả công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước , phải giải quyết nhiều vấn đề, từ nhận thức tư tuởng, cơ chế chính sách đến
tổ chức thực hiện, từ doanh nghiệp đến các cơ quan quản lý Nhà nước.
2.2.2.Các giải pháp đã áp dụng để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN
Nội dung
Nghị quyết Trung ương IX, khóa IX, một lần nữa khẳng định tính nhất
quán của Đảng ta trong chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần; kiên
quyết đẩy nhanh sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã đề

ra một số chủ trương giải pháp mới tập trung cụ thể vào 5 điiểm lớn như sau:
+ Mở rộng diện và quy mô các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa kể
cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luện kim,
cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông,
hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng bảo hiểm.
+ Định giá giá trị doanh nghiệp, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất về
nguyên tắc do thị trường quyết định.
+ Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín nội bộ.

22


Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Khẩn trương xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh của các doanh
nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế đã được cam kết,
nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
+ Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước;
nghiên cứu thành lập công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và cơ quan quản lý
Nhà nước để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng Nhà nước là đại
diện chủ sở hữu phần vốn đầu tư của mình vào doanh nghiệơ thuộc mọi ngành,
mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.3.Đánh giá tình hình cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua
Một điều mà người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa lo ngại là
vấn đề việc làm. Sau cổ phần hóa số lượng lao động chẳng những không giảm
mà còn tăng 10% với thu nhập bình quân tăng 20%. Điều này đã kích thích
người lao động yên tâm làm việc, cống hiến hết khả năng của mình cho công
việc.
Sau khi cổ phần hóa, bình quân giá trị vốn Nhà nước chỉ chiếm 25% trong

cơ cấu vốn điều lệ, còn lại là vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân viên chức
và cổ đông ngoài doanh nghiệp, chiếm 75%. Như vậy, cổ phần hóa đã thực hiện
được mục tiêu thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh
nghiệp và ngoài xã hội để đầu tư phát triển. Tuy nguồn vốn Nhà nước chỉ chiếm
25% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn của các đối tượng khác chiếm 75%
nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do đó phần sở hữu Nhà nước trong các công ty
vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Như tại Công ty bông Bạch Tuyết, sau cổ phần hóa số lượng lao động tăng
205 người so với 198 người tại thời điểm trước khi cổ phần hóa, thu nhập người
lao động trung bình là 3,2 triệu đồng/tháng và lãi cổ tức 1998 là 7%.

23


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Công ty Cơ điện lạnh vào năm 1993 có 415 lao động thì năm 1998 là 798
lao động, với thu nhập tăng từ 1,4 triệu đồng/người/tháng lên 2 triệu
đồng/người/tháng.
Tóm lại, từ thực tế cổ phần hóa của cả nước là điển hình là thành phố Hồ
Chí Minh,và hà nội cùng tất cả các tỉnh thành trong cả nước cho thấy việc
chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sang hình thức cổ phần chẳng những
giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi
nhuận trên nguồn vốn trước đây, Nhà nước cũng thu hồi nguồn vốn để đầu tư
cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ
phần hóa có sự thay đổi, họ vừa là người làm việc cho công ty cổ phần, vừa là
người chủ trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế, ý thức và tinh thần trách nhiệm
được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa nhạy
bén, năng động, tự chủ hơn. Nhờ đó mà chất lượng, hiệu quả công việc cao hơn,
các khoản đóng góp vào ngân sách Nhà nước cũng tăng lên.

Cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho cả Nhà nước, người lao động và cổ
đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng
và Nhà nước ta về cổ phần hóa DNNN là hoàn toàn đúng đắn.
2.2.3.1:Các kết quả chủ yếu
Để xem xét một cách khách quan, chúng ta không thể không nói đến
những thuận lợi khi thực hiện chủ trương cổ phần hóa trong tình hình hiện nay.
Đó là:
Chương trình cổ phần hóa DNNN được sự quan tâm rất lớn của Đảng và
Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX đã tái khẳng định quyết tâm sắp xếp, đổi mới DNNN mà cổ phần hóa là
một trong những hình thức quan trọng nhằm cải cách DNNN cả về số lượng và
chất lượng, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.

24


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nhờ vào chính sách đổi mới, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
của Nhà nước trong nhiều năm qua, thu nhập dân cư tăng cao. Số người khá giả
ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp
ứng cho các chứng khoán phát hành ở những DNNN cổ phần hóa.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có
khả năng kinh doanh lớn, người lao động trong doanh nghiệp đã thích ứng với
loại hình chứng khoán là cổ phiếu được phát hành ở DNNN cổ phần hóa. Đồng
thời những thành quả bước đầu của chương trình cổ phần hóa đã giúp nhân dân
thêm tin tưởng và ủng hộ chính sách của Đảng và Nhà nước.
Sự ra đời của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đã góp phần không nhỏ
trong việc thúc đẩy hoạt động trao đổi, mua bán cổ phiếu, kêu gọi sự đầu tư từ
công chúng. Đây là nhân tố ảnh hưởng khá tích cực đến tiến trình cổ phần hóa.

Ý nghĩa của cổ phần hóa DNNN:
a/ Về mặt chính trị:
Cổ phần hóa đã đem lại cho Nhà nước sự thành công bước đầu trong việc
đưa ra chiến lược, sách lược, góp phần điều tiết nền kinh tế đất nước theo định
hướng XHCN, tận dụng được những nguồn lực quan trọng vào phát triển trong
thời kỳ quá độ.
Qua chủ trương cổ phần hóa làm cho nhân dân yên tâm, tin tưởng vào vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ chế mới ở nước ta. Mặt khác,
cũng đem lại niềm tin và thiện chí tốt đẹp của các nước trên thế giới trong giao
lưu kinh tế với Việt Nam, đồng thời cổ phần hóa còn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc khắc phục, bổ sung các văn bản pháp lý, đặc biệt trên lĩnh vực sản xuất kinh
doanh.
b/ Về mặt kinh tế:
Chính sách cổ phần hóa đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế phát triển, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa nền kinh tế
25


×