Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN về thực trạng và cách đánh giá bài giảng điện tử khi soạn giảng tác phẩm văn chương ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.93 KB, 20 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ THỰC TRẠNG VÀ CÁCH ĐÁNH GIÁ BÀI GIẢNG
ĐIỆN TỬ KHI SOẠN GIẢNG TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở
TRƯỜNG THPT”


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
1. Thực

trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết

- Sự bùng

nổ của CNTT và việc ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH

Sự bùng nổ của CNTT trên mọi lĩnh vực đang diễn ra hiện nay đòi hỏi ngành
giáo dục cũng phải đổi mới theo hướng sử dụng những thành tựu của CNTT vào
việc đổi mới PPDH, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hiệu quả đào tạo.
Đó là xu hướng tất yếu mang tính toàn cầu. Chỉ thị 29/2001/CT-CGD-ĐT cũng
nêu rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học,
bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như là công cụ hỗ trợ đắc lực nhất
cho việc đổi mới PPDH ở tất cả các môn học”.
- Việc ứng

dụng CNTT trong dạy học Ngữ văn là cần thiết

Sự cần thiết của việc sử dụng CNTT vào dạy học môn Ngữ văn nói chung,
dạy học TPVC nói riêng hiện nay đã có nhiều chuyển biến song vẫn còn khá dè


dặt. Theo quan điểm của tôi, sử dụng CNTT vào dạy học bộ môn Ngữ văn không
còn là vấn đề bàn cải, quan trọng là sử dụng như thế nào để đạt hiệu quả dạy học
tối ưu.
Tình hình nghiên cứu sử dụng CNTT vào dạy học Ngữ văn ở trường
THPT và việc đánh giá BGĐT
-

Vấn đề này đã được quan tâm từ những thập kỉ trước. Nhiều nhà nghiên cứu
khoa học giáo dục đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết về vấn đề
này. GS. Phan Trọng Luận với bài viết “CNTT với việc giảng dạy bộ môn KHXH
- NV trong nhà trường” đã khẳng định việc đưa những thành tựu của CNTT vào
dạy học Văn là hết sức cần thiết. PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống với bài “Ứng dụng
CNTT trong dạy học Ngữ văn”, tác giả Phong Lê với bài viết “Văn học và công
cuộc đổi mới”,… đều nhấn mạnh vai trò của CNTT đối với việc đổi mới PPDH
môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay. Một số khóa luận, luận văn thạc sĩ giáo
dục học gần đây cũng đã nghiên cứu việc sử dụng CNTT vào dạy học Ngữ văn.
Đề tài “Khai thác và sử dụng Internet trong dạy học Ngữ văn ở THPT”, tác giả
Trần Thị Ngà đã khẳng định vai trò tất yếu của CNTT trong dạy học bộ môn
Ngữ văn ở trường THPT hiện nay. Đề tài “Sử dụng kết hợp câu hỏi tự luận và
trắc nghiệm khách quan với sự hỗ trợ của PowerPoint trong dạy học Tiếng Việt
10” đều nhấn mạnh tính cấp thiết, tính khả thi của việc sử dụng CNTT vào giảng
dạy bộ môn Ngữ văn. Nhìn chung các công trình nghiên cứu nói trên đều đi đến
khẳng định vai trò quan trọng và tính cấp thiết của việc sử dụng CNTT vào dạy học
trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên
chỉ thiên về việc ứng dụng CNTT vào thiết kế BGĐT chứ chưa có công trình


nào khảo sát thực trạng thiết kế BGĐT và định hướng cách đánh giá tính khoa
học, tính sư phạm, tính thẩm mĩ khi thiết kế BGĐT dạy TPVH.
- Một


số GV dạy Văn kĩ năng thiết kế và đánh giá BGĐT còn hạn chế

Thực tế nhiều GV biết rằng dạy học bằng BGĐT là cần thiết, phù hợp với
giáo dục hiện nay, nâng cao vẻ đẹp hiện đại của người GV. Thế nhưng việc thiết kế
một bài giảng là rất công phu, và mất nhiều thời gian thành ra lười đầu tư, dần dần
ít có kinh nghiệm và kĩ năng thiết kế BGĐT. Một số GV trẻ thì có kĩ năng soạn
BGĐT song lại chưa được trang bị nhiều về PPDH, kĩ thuật dạy học nên thiên về
trình diễn kĩ thuật làm mất đi tính khoa học, tính sư phạm và thẩm mĩ trong soạn
BGĐT. Hơn thế nữa những GV dự giờ đánh giá góp ý cho GV dạy BGĐT cũng
chưa có những sự thống nhất trong tiêu chí đánh giá. Đôi lúc có rất nhiều GV có
trình độ và kĩ năng sử dụng CNTT nhưng lúng túng khi thiết kế BGĐT.
Đó là điều khiến tôi trăn trở để quyết tâm viết SKKN với đề tài: “ Một số
thực trạng và cách đánh giá Bài giảng điện tử khi soạn giảng tác phẩm văn
chương ở trường THPT”. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề có ý nghĩa lí luận và
thực tiễn, giúp GV thoát khỏi tình trạng lúng túng trong thiết kế cũng như đánh
giá một BGĐT khi soạn giảng TPVC như thế nào cho có hiệu quả nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn nói riêng, nâng cao chất lượng giáo dục
trong nhà trường nói chung.
2. Ý

nghĩa và tác dụng của giải pháp mới

Với học sinh: Từ việc thiết kế BGĐT khoa học hợp lý của người GV sẽ
tạo sự hứng thú, tích cực trong hoạt động nhận thức của HS.
-

- Với

GV: Từ việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất cách đánh giá BGĐT

giúp GV có thêm kinh nghiệm và hoàn thiện hơn kĩ năng thiết kế BGĐT.
Với người quản lý: Đây sẽ là tài liệu tham khảo thiết thực giúp cho
người quản lý chuyên môn khi dự giờ, đánh giá việc thiết kế BGĐT dạy học TPVC
của GV khoa học hơn.
-

3. Phạm

vi nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu thực trạng thiết kế BGĐT dạy học TPVC và đề xuất cách đánh
giá khi thiết kế một BGĐT nhằm góp phần đổi mới PPDH và nâng cao chất
lượng dạy học TPVC nói riêng, bộ môn Ngữ văn nói chung.
II. Phương pháp tiến hành
2.1. Cơ

sở lí luận và thực tiễn của đề tài

2.1.1. Cơ

sở lí luận của đề tài

2.1.1.1. Thế

nào là Bài giảng điện tử (BGĐT) ?


CNTT gồm có máy tính điện tử, giáo trình điện tử, BGĐT. BGĐT chính là
bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của GV trên giờ lên lớp,
toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được Multimedia hoá một cách chi tiết, có cấu

trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học.
2.1.1.2. Những

ưu điểm và hạn chế chung khi soạn giảng TPVC bằng

BGĐT
Môn Ngữ văn với thuộc tính vừa là môn học (khoa học) vừa là nghệ thuật
(ngôn từ) nhưng QTDH văn không chỉ sử dụng nghệ thuật ngôn từ như đã có
quan niệm: dạy học văn không cần thiết phải sử dụng hoặc sử dụng nhiều đồ
dùng dạy học trực quan. Trong đó có phương tiện nghe nhìn mà chủ yếu là trực
quan bằng ngôn ngữ là chính. Điều này chí đúng một phần khi HS cần giảng giải,
phân tích một khía cạnh nào đó mà HS cần hiểu, cần cảm thụ tinh tế. Dạy học văn
nhất thiết phải hướng vào thực hiện mục tiêu đa chức năng: giáo dục tri thức, tình
cảm thẩm mĩ, rèn kĩ năng, phát triển các năng lực cho người học. Thực tế cho thấy,
nếu nội dung bài học chỉ được truyền đạt tới HS ở dạng văn bản thì sẽ không gây
được nhiều hứng thú học tập như một bài giảng có ứng dụng CNTT.
* Những
- CNTT

ưu điểm khi thiết kế BGĐT dạy học TPVC

góp phần đa dạng hóa quá trình dạy học

Quá trình dạy học là một hệ thống động bao gồm các thành tố cơ bản:
mục đích và nhiệm vụ dạy học; PPDH, PTDH; thầy với hoạt động dạy; trò với
hoạt động học; kết quả dạy học… Quá trình này diễn ra và tương tác qua lại, thâm
nhập, quy định lẫn nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ của hoạt động dạy - học,
nhằm hình thành và phát triển nhân cách của HS.
Ưu thế nổi bật của CNTT so với các PTDH truyền thống, là tạo ra môi
trường đa phương tiện, kết hợp những hình ảnh, video, camera, … được trình bày

qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa trong quá trình dạy
học.
Về phía HS, các em không chỉ được nghe thầy giảng, mà còn được xem
phim, ảnh, nghe nhạc, ngâm thơ… ; có thể tiến hành nhiều hoạt động đa dạng
trong một tiết học dưới sự hỗ trợ của CNTT để được học cách học, học cách ứng
xử, cách giải quyết vấn đề, cách tự đánh giá, tự điều chỉnh mình,…
Về phía GV, có thể đa dạng hoá các hoạt động kiểm tra bài cũ, giảng bài
mới, củng cố, luyện tập kiến thức, ôn tập,… tạo sự mới mẻ, cuốn hút HS trong giờ
học.
- CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học
CNTT là một phương tiện đóng góp phần lớn vào việc đổi mới PPDH trong


nhà trường hiện nay, bởi lẽ CNTT ngày càng tỏ rõ những ưu việt mà các PTDH
truyền thống không đáp ứng được. Nó có khả năng minh họa, truyền đạt kiến thức
một cách sinh động, hấp dẫn, GV sẽ có điều kiện đổi mới PPDH theo hướng tích
cực hóa hoạt động nhận thức của HS và thực hiện mô hình dạy học hợp tác hai
chiều. GV tiết kiệm được thời gian ghi bảng để có thời gian giới thiệu những
thông tin ngoài SGK. GV có thể sơ đồ hóa kiến thức bài học, tránh việc mang
bảng phụ cồng kềnh hoặc những ví dụ dài có thể chép nguyên văn để HS tiện
theo dõi đối sánh. Dùng tư liệu để minh họa giọng đọc, ngâm, hát, phim để chứng
minh, mở rộng nội dung. GV cũng có thể phát huy tính tích cực, chủ động của HS
bằng hệ thống bài tập đa dạng,
phong phú để các em tự nghiên cứu, thảo luận, tìm kiếm tri thức. Hơn nữa GV có
thể trình bày kiến thức bài học có hệ thống, đồng thời có thể lưu BGĐT lại thành
bộ đồ dùng dạy học, có thể chỉnh sửa, bổ sung hợp lý.
- CNTT trong BGĐT tạo hứng thú nhận thức trong hoạt động học tập
và giúp phát triển năng lực của học sinh
Ứng dụng CNTT vào thiết kế BGĐT dạy học TPVC là mang lại giờ học
không khí sinh động hấp dẫn, tạo tâm thế để HS phát huy trí tuệ học tập. HS sẽ

không chán nản mà thích học. Qua CNTT có thể cung cấp cho HS nhiều kiến thức
phong phú và sâu sắc, nâng cao hiệu quả đánh giá HS. Việc sử dụng CNTT vào
quá trình dạy học hợp lý sẽ giúp GV sẽ thuận tiện hơn rất nhiều trong việc khơi
dậy hứng thú nhận thức ở HS so với sử dụng các PTDH truyền thống.
Việc đánh giá BGĐT cũng căn cứ vào việc sử dụng CNTT trong dạy học,
đồng thời khuyến khích HS sử dụng CNTT trong quá trình học tập, GV sẽ hướng
dẫn HS tìm kiếm tri thức. GV sẽ củng cố niềm tin vào bản thân các em, giúp các
em tự tin, phát huy năng lực sáng tạo, sự tích cực, chủ động trong học tập.
* Những

hạn chế khi thiết kế BGĐT khi dạy học TPVC

- Hạn

chế việc cập nhật những phát hiện mới mẻ của HS về tư duy sáng tạo và
cảm xúc thẩm mỹ có tính hình tượng trong giờ học.
-

Khó duy trì và phát triển cảm xúc thẩm mỹ của HS khi người học bị cuốn
vào hình

ảnh, hiệu ứng không hợp lý.
- Hạn

chế kỹ năng diễn đạt của học sinh.

Việc vận dụng băng hình minh họa cho nội dung TPVH nếu không khéo sẽ
làm mất khả năng hình dung tưởng tượng về hình tượng VH mà HS chỉ có ấn
hượng về hình ảnh, nhân vật được đưa lên trang trình chiếu.
-


2.1.1.3. Quy

trình cơ bản khi dạy học TPVC trong chương trình THPT


Mỗi TPVC có phương thức riêng (tác phẩm thơ, truyện ngắn, kịch,…) nên
PPDH cũng theo đó mà thay đổi. Đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về một số thực
trạng thiết kế và đề xuất cách đánh giá BGĐT khi dạy học TPVC ở dạng chung
nhất. Quy trình cơ bản khi dạy học TPVC trong chương trình THPT thông thường
được thiết kế theo các hoạt động sau:
- Giới

thiệu về tiểu dẫn ( giới thiệu về tác giả, hoàn cảnh ra đời, định hướng
cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm).
- Phần

tìm hiểu văn bản ( phân tích các hình tượng nghệ thuật tuỳ vào từng thể

loại).
- Phần

đánh giá tổng kết.

- Phần

luyện tập củng cố và dặn dò HS học bài và làm bài ở nhà.

Căn cứ trên các quy trình cơ bản khi dạy học TPVC, GV vận dụng những
ưu thế của CNTT để thiết kế BGĐT sao cho có hiệu quả nhất.

2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Mặc dù phần lớn GV nhận thức được sự cần thiết sử dụng CNTT và cũng đã
được dự các lớp tập huần CNTT vào soạn giảng TPVC, song việc thực hiện vẫn
chỉ dừng lại ở tự học tự nghiên cứu. Tôi tiến hành khảo sát 11 GV trong trường với
các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Xin cho biết, quý Thầy/Cô có thường xuyên sử dụng CNTT
vào soạn giảng TPVC không? Kết quả thu được:
Câu hỏi

Số lượng

a

Rất thường xuyên

0

b

Thường xuyên

1

Tỉ lệ
%
0.0%

9,09
%
c Thỉnh thoảng

7
63,6
%
d Chưa bao giờ
1
9,09
%
Câu hỏi 2: Trong quá trình sử dụng CNTT vào soạn giảng TPVC, quý
Thầy/Cô gặp những thuận lợi nào? Kết quả thu được:

a
b

Câu
hỏi
BGH nhà trường tạo điều kiện thuận
lợi
Cơ sở vật chất dạy học CNTT đầy
đủ

Số lượng

Tỉ lệ %

11

100%

9


81,8 %


c
d

Bản thân có khả năng sử dụng
CNTT
Ý kiến khác

7

63,6 %

0

0,0 %

Câu hỏi 3: Những khó khăn mà quý Thầy/Cô gặp phải trong quá trình
sử dụng CNTT vào dạy học TPVC là gì?
Kết quả thu được:

b

Câu
hỏi
Không được tập huấn sử dụng
CNTT
Kĩ năng sử dụng CNTT hạn chế


c

Cơ sở vật chất dạy CNTT còn thiếu

1

9,09 %

d

Ý kiến khác

0

0,0 %

a

Số lượng

Tỉ lệ %

0

0,0 %

8

72,7 %


Ngoài ra khi phỏng vấn một số GV làm công tác thanh tra với câu hỏi
“Anh đã từng tham gia lớp tập huấn kĩ thuật thiết kế và đánh giá BGĐT chưa?”
thì họ đều trả lời là có tham gia lớp tập huấn cách thiết kế BGĐT nhưng các tiêu
chí để đánh giá BGĐT thì chủ yếu là đánh giá theo kinh nghiệm và theo tự học.
Như vậy, kết quả điều tra cho thấy một thực tế: tất cả các trường THPT
trên địa bàn Bình Định hiện nay đều đã tổ chức tập huấn cho GV kĩ năng sử dụng
CNTT vào dạy học; hầu hết các trường cũng đều đã trang bị khá đầy đủ về cơ sở
vật chất, thiết bị cần thiết để tạo điều kiện cho GV ứng dụng CNTT vào dạy học.
Tuy nhiên, một số giáo viên chưa thật sự thành thạo về khả năng sử dụng máy
tính, chưa biết cách soạn một BGĐT như thế nào, chưa nắm rõ các tiêu chí về
cách đánh giá một BGĐT nên vẫn còn nhiều lúng túng khi thiết kế một BGĐT
dạy học TPVC nói riêng và dạy Ngữ văn nói chung.
Tóm lại: Sử dụng CNTT vào dạy học là một yêu cầu có tính cần thiết và cấp
thiết hiện nay để đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học ở trường THPT.
Theo đó, bộ môn Ngữ văn nói chung, dạy học TPVC nói riêng cũng cần được đổi
mới theo tinh thần ấy.
Những ưu thế nổi bật của CNTT đã cho thấy đây chính là một PTDH hiện
đại, phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại, bởi sử dụng CNTT trong
BGĐT, GV sẽ tạo ra một môi trường có tính tương tác cao và đa chiều trong quá
trình dạy học làm tăng khả năng tiếp thu kiến thức và kích thích hứng thú nhận
thức ở HS, góp phần phát huy năng lực sáng tạo, sự tích cực, chủ động ở HS.
PPDH, nội dung chương trình Ngữ văn ở THPT có những nét đặc trưng cho thấy
sự phù hợp sử dụng CNTT vào dạy học.Tình hình sử dụng CNTT vào dạy học


TPVC ở THPT hiện nay cũng là một cơ sở thực tiễn giúp chúng tôi nhận thấy rõ
tính cấp thiết của đề tài này. CNTT đã được đưa vào dạy học Ngữ văn nhưng chưa
thật rộng rãi; một số tiết dạy có sử dụng CNTT nhưng chưa thành công. Vì vậy
việc đề xuất cách đánh giá BGĐT dạy học TPVC là một vấn đề có tính cấp thiết.
Thiết nghĩ để nâng cao chất lượng BGĐT cho GV dạy Ngữ văn nói chung cần đẩy

mạnh công tác khuyến khích soạn BGĐT, đẩy mạnh công tác dự giờ góp ý BGĐT
để GV ngày càng hoàn thiện hơn kĩ năng thiết kế BGĐT.
2.2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
2.2.1. Biện pháp nghiên cứu
- Tôi

tiến hành tổng hợp các tài liệu, tư liệu liên quan đến đề tài để làm rõ
những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài như vai trò của CNTT trong dạy học
nhất là dạy học bộ môn Ngữ văn, những ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng
CNTT trong thiết kế BGĐT dạy học TPVC.
- Tôi

tiến hành dự giờ tiết dạy của các GV có ứng dụng CNTT ; tổ chức hội
thi thiết kế BGĐT ở trường THPT Lý Tự Trọng nhằm xác lập cơ sở thực tiễn cho
đề tài để từ đó tiến hành phân tích thực trạng, phân tích những ưu điểm và hạn
chế để có sở đề xuất việc đánh giá BGĐT có tính khoa học và khả thi nhất.
Tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm (thiết kế BGĐT và dạy) để chứng
minh tính khả thi của những tiêu chí đánh giá đã được xác lập.
-

2.2.2. Thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài

Trong ba năm qua (2010 - 2011 - 2012), tôi đã tiến hành nghiên cứu các tài
liệu về cách thiết kế BGĐT môn Ngữ văn, tiến hành dự giờ đồng nghiệp, tổ chức
hội thi thiết kế BGĐT cấp trường và đã đúc kết được những kinh nghiệm và đề
xuất các tiêu chí đánh giá việc thiết kế BGĐT cho phân môn đọc văn của bộ môn
Ngữ văn chương trình THPT.


PHẦN NỘI DUNG

I. Mục tiêu

Đề tài thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên

cứu các tiền đề lí luận của việc sử dụng CNTT vào dạy học TPVC ở

THPT.
Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng của việc sử dụng CNTT vào dạy
học TPVC trong chương trình THPT hiện nay.
-

- Đề

xuất một số cách thức sử dụng CNTT vào việc dạy học TPVC ở THPT.

Tổ chức thực nghiệm dạy học và đánh giá tính khả thi, hiệu quả của việc
sử dụng CNTT vào dạy học TPVC ở THPT.
-

- Xây

dựng một số bài giảng có sử dụng CNTT khi soạn giảng TPVC ở THPT.

II. Mô tả giải pháp của đề tài
2.1. Nguyên tắc xây dựng cách đánh giá BGĐT vào soạn giảng TPVC

Đánh giá khả năng vận dụng CNTT vào soạn giảng TPVC chính
xác, khoa học, hướng tới dạy học hiệu quả, phát huy vai trò tự học, tự rèn
cho học sinhTrong QTDH, lượng kiến thức cơ bản chuyển đến học sinh phải

chính xác và có hệ thống, phù hợp với tư duy nhận thức của HS. GV cần có
những cách vận dụng CNTT thật linh hoạt để phát huy những đối thoại và tương
tác sư phạm trong dạy học. Đồng thời rèn cho HS phương pháp tự học, tự nghiên
cứu để khám phá kiến thức văn học bằng CNTT.
2.1.1.

Đánh giá khả năng vận dụng CNTT vào soạn giảng TPVC phù
hợp đặc trưng thể loại văn bản
2.1.2.

Mỗi thể loại văn học có một đặc trưng và khi dạy GV sẽ có những cách tiếp
cận khác nhau, cách dạy khác nhau để khám phá chiều sâu nội dung kiến thức. Vì
vậy thiết kế và đánh giá BGĐT cần phải chú trọng vào PPDH của đặc trưng thể
loại.
2.1.3. Đánh

giá khả năng vận dụng CNTT vào soạn giảng TPVC có tính
thẩm mĩ

Trong BGĐT việc GV chọn font chữ, cỡ chữ, chọn những đoạn phim, những
hình ảnh, màu sắc, âm thanh, những sơ đồ, mô hình, bảng, biểu, được đưa vào bài
giảng không chỉ có tác dụng cung cấp kiến thức, mà còn tạo điều kiện cho HS tiếp
thu kiến thức đó một cách hứng thú, say mê nhất. Chúng không chỉ tạo sự hấp dẫn
trong hoạt động lĩnh hội kiến thức mà còn thể hiệu khâu thẩm mĩ của GV trong ý


tưởng thiết kế BGĐT.
2.1.4. Đánh

giá khả năng sử dụng CNTT phù hợp tâm lý học sinh THPT


Sử dụng CNTT vào dạy học TPVC, GV luôn phải chú ý sự phù hợp giữa ý
tưởng, kịch bản đề ra cho mỗi kiểu bài học với đặc điểm tâm lí, nhận thức của đối
tượng HS THPT. Cần đảm bảo những biện pháp, cách thức được thực hiện là vừa
sức đối với HS, vừa phù hợp bài dạy vừa sinh động, hấp dẫn để thu hút HS vào bài
học; hoặc tổ chức các trò chơi nhỏ theo hình thức học mà chơi, chơi mà học,…
Không phù hợp với đối tượng HS thì mọi biện pháp, cách thức đề ra đều trở nên
vô nghĩa.
2.2. Những thực trạng và cách đánh giá BGĐT khi soạn giảng TPVC

Thực trạng và cách đánh giá quy trình tổ chức chung dạy học
TPVC trong quá trình dạy học
2.2.1.

* Quy

trình cơ bản của một tiết dạy một TPVC

Giờ học được tiến hành với các hoạt động cơ bản là: kiểm tra bài cũ, giới
thiệu bài mới, giảng bài mới, luyện tập củng cố kiến thức. Với những ưu thế nổi
trội, CNTT sẽ hỗ trợ GV trong việc xây dựng một kịch bản cho giờ học mà giờ
học theo giáo án truyền thống không thể đáp ứng được. Có thể hình dung toàn bộ
bài giảng là một câu chuyện, được bắt đầu từ việc kiểm tra bài cũ, từ đó dẫn vào
bài mới, tìm hiểu nội dung bài mới và kết luận bằng việc củng cố kiến thức. Dưới
sự hỗ trợ của CNTT, theo tôi có thể tổ chức giờ học với các hoạt động nói trên
một cách đa dạng, phong phú và hấp dẫn, khơi gợi được hứng thú, thái độ học
tập tích cực, chủ động và sáng tạo ở học sinh.
2.2.1.1. Đánh

giá hoạt động kiểm tra bài cũ có vận dụng CNTT


Trong giáo án truyền thống, hoạt động kiểm tra bài cũ thường được tiến
hành bằng hình thức vấn đáp. Hình thức này nếu lặp lại thường xuyên dễ gây tâm
lí nặng nề, nhàm chán. Sử dụng CNTT, GV có thể tạo ra nhiều hình thức đa dạng
cho hoạt động kiểm tra bài cũ.
-

Trong BGĐT thì hoạt động kiểm tra bài cũ cần được đánh giá khả năng
vận dụng CNTT tạo ra sự đa dạng trong kiểm tra như tự luận, vấn đáp, trắc
nghiệm… tạo tính trực quan và tạo tâm lý hứng thú thoải mái khi vào bài mới.
-

2.2.1.2. Đánh

giá hoạt động giới thiệu bài mới có vận dụng CNTT

- Giáo

án truyền thống có thể giới thiệu bài bằng cách nêu câu hỏi hoặc dùng
bảng phụ song rất cồng kềnh. Bằng CNTT, GV có thể giới thiệu bài mới bằng cách:
+ Chiếu một hình ảnh, một đoạn phim, nêu tình huống một chuyện vui có liên
quan đến hình ảnh, đoạn phim hoặc cung cấp một văn cảnh liên quan cần nghiên
cứu của bài mới, trên cơ sở đó đàm thoại, diễn giảng, hướng dẫn HS vào bài học.


+ Có thể giới thiệu bài mới bằng cách lập dàn ý nội dung bài học, giúp HS
hình dung
được toàn bộ nội dung cần nắm của bài học mới.
- Thời lượng dành cho hoạt động này khoảng 2 đến 3 phút, song lại là hoạt
động có ý nghĩa tạo tâm thế tiếp nhận bài mới cho HS, giúp các em hào hứng,

phấn chấn hơn vào bài giảng mới của GV. Vì vậy ta cần đánh giá khả năng sáng
tạo, tính phù hợp, tính logíc trong cách dẫn dắt vào bài học của GV khi sử dụng
CNTT.
2.2.1.3. Đánh

giá hoạt động giảng bài mới

Để hình thành các khái niệm; tìm hiểu, phân tích các đặc điểm, đặc trưng,
tính chất của các hình tượng văn học, GV thường sử dụng đa dạng các phương
pháp như giới thiệu, thuyết minh, phân tích hình tượng nghệ thuật. Đây là hoạt
động mà GV sử dụng rất nhiều kĩ thuật và những ứng dụng CNTT. Trên các slide
có thể dùng các kiểu chữ in nghiêng, in đậm, gạch chân, thay đổi màu chữ, có thể
chèn âm thanh để tạo điểm nhấn cho bài giảng, có thể dùng các sơ đồ, biểu đồ,
hình ảnh, đoạn phim,… sao cho có hiệu quả nhất.
-

- Căn

cứ vào các hoạt động nêu trên mà ta đánh giá tính khoa học, hợp lí, thẩm
mĩ trong việc GV lựa chọn đưa nội dung kiến thức, đưa hình ảnh, đoạn phim, âm
thanh, hiệu ứng, màu sắc lên trang trình chiếu như thế nào. Đồng thời đánh giá
các giao diện cấu trúc bài dạy phải có tính nhất quán. Các đề mục phải được thể
hiện cấu trúc của bài dạy để HS dễ theo dõi, ghi chép. GV có thể lập ý và lưu giữ ý
trên slide để khi kết thúc bài dạy bố cục dàn ý bài giảng vẫn còn trên trang trình
chiếu giúp người học, người dự giờ hình dùng và xâu chuỗi kiến thức.
2.2.1.4. Đánh

giá hoạt động củng cố kiến thức

- Củng


cố kiến thức là hoạt động được tiến hành ngay sau khi HS nắm được
các vấn đề về lí thuyết, có tác dụng giúp HS củng cố, khắc sâu những kiến thức
vừa lĩnh hội được. Thế nhưng trong giáo án truyền thống, GV thường dạy rất đơn
điệu với những câu hỏi tổng kết vấn đề cơ bản, dùng bảng phụ .. CNTT giúp GV
đa dạng hóa được các hình thức củng cố, tạo hứng thú cho HS. GV thường thiết kế
hoạt động này trong BGĐT bằng các cách thức sau đây:
+ Để tiết kiệm thời gian và có thể tăng số lượng bài tập trắc nghiệm và tự
luận, GV có thể chiếu lên màn hình các bài tập cần củng cố để HS theo dõi và
cùng thực hiện. Có thể bổ sung một số bài tập ngoài SGK để củng cố, nâng cao
kiến thức cho HS.
+ Tổ chức trò chơi bằng GV thiết kế trò chơi ô chữ để củng cố kiến thức
những kiến thức cần lưu ý về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, các hình tượng độc đáo
trong văn bản cho HS.


Thực tế, trò chơi ô chữ được HS đặc biệt yêu thích bởi với các em nó luôn ẩn
chứa những bất ngờ, thú vị mà các em muốn khám phá; đó cũng là một cách để
các em tự khẳng định mình trước tập thể.
+ Tận dụng lợi thế của CNTT, GV có thể dễ dàng đưa các mô hình, sơ đồ,
bảng biểu để hệ thống hóa kiến thức trong những giờ ôn tập bởi tính chất đơn
giản, rõ ràng, khoa học của chúng. Đây là một cách củng cố có tính khoa học,
tính sư phạm cao, giúp HS ôn luyện kiến thức một cách đơn giản, hiệu quả.
+ Cho HS làm việc theo nhóm để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Trong

hoạt động dạy học này cần đánh giá khả năng ứng dụng linh hoạt các
hình thức củng cố sao cho phù hợp với mục tiêu bài dạy, đánh giá các kĩ thuật
trình chiếu tạo hứng thú và hiệu quả cao nhất.
2.2.2. Thực


trạng và cách đánh giá việc lựa chọn kiến thức bài dạy đưa lên

Slide
2.2.2.1. Thực

trạng

- Nhiều

GV còn ôm đồm, tham lam kiến thức cụ thể mà không chú ý đến kiến
thức khái quát làm cho tiết học nặng nề, quá tải. Ngược lại có GV đơn giản sơ
lược kiến thức đến mức thiếu kiến thức, khó truyền thụ đảm bảo.
Nhiều GV chưa biết chọn kiến thức cơ bản, trọng tâm để đưa lên trang
trình chiếu. Lượng thông tin quá nhiều nhưng thời gian chỉ 45 phút nên GV thao
tác nhanh vì sợ hết giờ, chỉ trình chiếu mà không cho HS ghi chép hoặc HS ghi
chép không kịp. HS không kịp nhận thức và ghi nhớ kiến thức.
-

Không gian trên một trang trình chiếu là rất hạn chế nhưng nhiều GV
không biết tiết kiệm mà đưa kiến thức và diễn đạt câu chữ không gọn gàng. Các
kiến thức được khai thác đưa vào dưới dạng văn bản, biểu đồ, hình ảnh âm
thanh… cần được GV lựa chọn cân nhắc kĩ và phải chú ý đến tính khoa học bộ
môn, tính sáng tạo và kĩ thuật dạy học.
-

2.2.2.2. Cách

đánh giá


* Nội dung kiến thức bài học trên trang trình chiếu:
- Đánh

giá khả năng lựa chọn kiến thức và từ khoá đưa lên trang trình chiếu
phải chính xác, gắn gọn nhưng đầy đủ, đúng trọng tâm, vừa sức với người học.
- Đánh

giá cách thức đưa nội dung kiến thức phải logic, linh hoạt, phù hợp
với các loại hình văn bản đảm bảo PPDH, kĩ thuật dạy học và cách khai thác kiến
thức theo đặc trưng kiểu bài, giúp người học khám phá được chiều sâu kiến thức và
phát huy được tư duy sáng tạo.
-

Đánh giá khả năng đưa kiến thức bổ sung, nâng cao vào bài giảng hợp lí,


đúng chỗ,
đúng PPDH.
* Nên tránh:
- Nội dung
- Quá

nghèo nàn, sơ sài chỉ thay thế bảng đen.

nhiều thông tin làm HS “bội thực”.

2.2.3. Thực

trạng và cách đánh giá việc sử dụng màu sắc và font chữ


2.2.3.1. Thực

trạng

Thiết kế BGĐT phải đảm bảo tính sư phạm, khoa học và thẩm mĩ và chọn
chữ trong BGĐT cũng cần được chú ý về nhiều mặt: font chữ, cỡ chữ, màu chữ.
- Dạy

BGĐT trong một không gian là phòng học với số lượng HS nhất định
nhưng GV thường sử dụng quá nhiều font chữ rườm rà khiến HS khó nhìn, khó
quan sát và ghi chép, gây cảm giác nhiễu loạn.
Trong một slide GV cũng không có sự thống nhất các font chữ: lúc thì
dùng chữ “có chân”(Times new Roman), lúc thì dùng chữ “không chân”(Arial)
tạo cảm giác nhiễu loạn không cân xứng, không thẩm mĩ. Đó là chưa kể khi
copy, điều chỉnh trong khi đang giảng bài thì dễ bị lỗi font, khó điểu chỉnh kịp thời.
-

- Hơn

thế nữa, việc sử dụng cỡ chữ (size) cũng không thống nhất ở đề bài, ở
đề mục, ở nội dung văn bản. Đôi lúc chữ dùng quá to hoặc quá nhỏ trong một
trang trình chiếu gây ấn tượng không đẹp.
- Ngoài

ra, việc GV sử dụng tuỳ tiện nhiều màu chữ trong cùng một slide là
cũng không nên (trừ khi có sự so sánh). Việc sử dụng màu chữ phải có dụng ý
phù hợp với nội dung bài, tránh việc lạm dụng màu sắc gây phản cảm. Nhiều GV
dùng màu chữ quá sặc sỡ, loè loẹt hoặc quá tương phản, đối chọi với màu nền,
dùng những gam màu quá tối trùng màu nền nên không thấy rõ nội dung kiến
thức. Có GV lại rất hạn chế sử dụng màu chữ cũng gây cảm giác đơn điệu, nhàm

chán, kém hấp dẫn.
2.2.3.2. Cách

đánh giá

Những gì hiển thị trên slide là để đọc nhanh và tạo ấn tượng trong bài
giảng vì vậy nên cần đánh giá cách dùng font chữ và cỡ chữ trong suốt QTDH.
*

- Sử

dụng cỡ chữ vừa phải để HS ngồi ở mọi góc độ của lớp học đều quan sát

rõ.
- Màu

chữ phải phù hợp với ý đồ thiết kế nội dung bài giảng để tạo ấn tượng
ghi nhớ và tính thẩm mĩ, đảm bảo sự hài hòa giữa tính sư phạm, tính khoa học và
tính thẩm mĩ.


* Qua

nghiên cứu BGĐT của nhiều đồng nghiệp, tôi nhận thấy cần lưu ý mấy
điểm sau:

- Nên:
+ Nên chọn một màu chủ đạo xuyên suốt các slide; một màu cho các đề
mục và một màu cho những ý cần làm nổi bật.
+ Nên có sự quy ước đối với HS khi sử dụng màu chữ, để các em dễ theo dõi

và ghi bài. Chẳng hạn, chữ màu xanh mực, màu đen cho nội dung HS cần ghi
bài, những nội dung cần.
liên hệ, mở rộng thì GV chọn các màu chữ khác. Như vậy, trước một slide, HS sẽ
nhận biết rõ phần nào nên ghi phần nào không, tránh được những băn khoăn, lúng
túng cho HS.
- Không nên:
+ Không nên quá tiết kiệm khi sử dụng màu chữ, gây cảm giác đơn điệu,
nhàm chán, kém hấp dẫn. Càng không nên sử dụng tuỳ tiện nhiều màu chữ trong
một BGĐT, một trang trình chiếu, gây cảm giác hoa mắt, khó chịu.
+ Không nên dùng chữ quá to cũng không nên quá nhỏ đến mức đọc không
được.
2.2.4. Thực

trạng và cách đánh giá việc sử dụng hình ảnh và âm thanh

2.2.4.1. Thực

trạng

Thế mạnh của CNTT là giảng dạy trong môi trường đa phương tiện. HS
không chỉ được xem, được quan sát bài giảng, được nghe lời thầy thuyết minh, mà
còn được xem phim, xem hình ảnh, nghe giọng đọc, giọng ngâm thơ, … Trong
quá trình biên soạn bài giảng, GV rất cần tận dụng thế mạnh này của CNTT để làm
tăng sự sinh động, hấp dẫn cho giờ học.
-

- Khi

thiết kế bài giảng, GV đưa nhiều hình ảnh về tác giả, cảnh vật để minh
hoạ chiếu nhiều đoạn phim, phần ngâm thơ quá dài. Điều đó đã biến tiết học thành

giờ trình chiếu phim ảnh, không đảm bảo tính sư phạm, đôi lúc làm mất đi tính
hình tượng của ngôn ngữ văn chương. Những hình ảnh, những đoạn video-clip
đẹp nếu không có sự định hướng của GV trong việc nghiên cứu tìm tòi kiến thức
thì không những không có tác dụng tốt đối với HS, mà ngược lại có khi còn làm
HS phân tán, không tập trung, ảnh hưởng đến việc chiếm lĩnh tri thức của các em.
Khi soạn giảng BGĐT, GV thường chèn những âm thanh ở những slide
có câu hỏi quan trọng, hoặc khi đưa ra đáp án của câu hỏi trong các trò chơi, các
bài tập để tạo ấn tượng ghi nhớ. Thế nhưng việc chọn sử dụng các âm thanh không
-


hợp các nguyên tắc sư phạm.
2.2.4.2. Cách

đánh giá

- Đánh

giá việc GV đưa các hình ảnh vào bài dạy phù hợp, đặc biệt là các
hình ảnh bên ngoài SGK nhưng có tác dụng tạo hấp dẫn và hỗ trợ cho việc phát
triển kiến thức.
- Đánh

giá việc sử dụng âm thanh cho BGĐT đúng lúc, đúng chỗ bởi nó tạo
được điểm nhấn, sự chú ý của HS đối với bài giảng.
* Cần tránh:
- Sử

dụng quá nhiều âm thanh gây cảm giác khó chịu, nhất là những âm
thanh quá lớn, chói tai, kéo dài.

- Đưa

quá nhiều hình ảnh để trình chiếu.

- Đưa

đoạn phim chiếm quá nhiều thời gian.

2.2.5. Thực

trạng và cách đánh giá việc sử dụng các hiệu ứng trong BGĐT

2.2.5.1. Thực

trạng

- Hiệu

ứng là các cách thức làm xuất hiện, biến mất các đối tượng trong
BGĐT như từ ngữ, hình ảnh, mô hình, sơ đồ, bảng biểu,… Xây dựng BGĐT từ
phần mềm Power Point, GV có thể lựa chọn rất nhiều kiểu hiệu ứng cho bài
giảng, giúp bài giảng sinh động, hấp dẫn, có tác dụng nhấn mạnh, khắc sâu một số
tri thức nào đó.
Qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp và qua quá trình nghiên cứu đề
tài, tôi nhận thấy nhiều GV còn lạm dụng hiệu ứng, sử dụng hiệu ứng một cách
tùy tiện, có tính chất phô diễn (cách xuất hiện, mất đi như thế nào, về tốc độ xuất
hiện nhanh hay chậm, về hướng xuất hiện từ trên xuống hay dưới lên, xuất hiện
bên trái hay bên phải). Điều này chẳng những không đem lại hiệu quả giảng dạy,
mà ngược lại gây ức chế tâm lí tiếp nhận bài học của HS.
2.2.5.2. Đánh


giá

Sử dụng hiệu ứng ở mức phù hợp với đối tượng, phù hợp với ý tưởng, với
kịch bản vạch sẵn của GV cho bài giảng.
-

- Đánh

giá khả năng tận dụng thế mạnh của các hiệu ứng kết hợp cách tạo
các mối liên kết, GV có thể tạo ra nhiều hình thức hoạt động lí thú cho HS như: đố
vui, giải ô chữ, câu hỏi trắc nghiệm,…là điều mà giáo án truyền thống không thể
làm được.
2.3. Đề xuất cách đánh giá tiết dạy học TPVC bằng BGĐT
2.3.1. Bảng

phân tích và so sánh các yêu cầu đánh giá tiết dạy có ứng


dụng CNTT khi soạn giảng một TPVC
Căn cứ vào bảng phân tích so sánh các tiêu chí đánh giá một tiết dạy có sử
dụng CNTT mà GV có thể hình thành những bài soạn phù hợp cho từng TPVC để có
thể giảng dạy và đánh giá một BGĐT khoa học hơn, thẩm mĩ hơn.
2.3.2. Đề xuất cách đánh giá tiết soạn giảng TPVC bằng CNTT
2.3.2.1. Đánh

giá việc thực hiện đảm bảo mục tiêu bài giảng

- Kiến


thức đảm bảo, phải chính xác, làm bật được kiến thức trọng tâm; phát
huy các kỹ năng của người học, giúp HS hiểu bài dễ hơn, chính xác hơn, đề cao
tính tự học nhờ BGĐT, đáp ứng tính cá thể trong học tập, giúp người học có thể tự
học ở mọi nơi, mọi lúc.
- Thể

hiện được sự tích hợp nhiều mục tiêu giáo dục. Khi thiết kế dạy học
một TPVC, GV phải thể hiện được vấn đề giáo dục về đạo đức, phẩm chất, giáo
dục môi trường cho HS.
2.3.2.2. Đánh

giá việc tổ chức các hoạt động học tập cho HS

- Đánh

giá việc tổ chức được các hoạt động kiểm tra, giảng bài, củng cố,
luyện tập phù hợp với bài dạy.
- Đánh

giá những PPDH, kĩ thuật dạy học mà GV vận dụng phù hợp và có
tính tích cực trong việc khai thác kiến thức và tổ chức các hoạt động nhóm, hoạt
động cá nhân, hoạt động trên lớp, hoạt động ngoài lớp cho HS.
2.3.2.3. Đánh

giá kĩ năng xây dựng hệ thống câu hỏi và thuyết trình

- Đánh

giá năng lực xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp trong việc khai thác
kiến thức và phù hợp với PPDH đặc trưng của TPVC, nhằm khuyến khích người

học tích cực học tập. Các câu hỏi được xây dựng nhằm kích thích tính động não
của người học, thực hiện phương châm lấy người học làm trung tâm, chú trọng tính
chủ động.
- Việc

giảng dạy BGĐT phải “ăn khớp” giữa lời giảng của GV, nội dung
trình chiếu và hoạt động của HS. Tránh thao thao bất tuyệt từ đầu đến cuối.
2.3.2.4. Đánh

giá việc vận dụng các kỹ thuật CNTT vào BGĐT khi soạn

giảng
- Giao

diện nhất quán, cấu trúc đề mục bài giảng rõ ràng

- Kiến

thức tổ chức có hệ thống, làm bật được nội dung trọng tâm

- Đa
-

dạng cách truyền tải thông tin (nghe, nhìn..)

Tổ chức kiến thức trên một silie hợp lý (hình ảnh, bảng biểu, hình vẽ, mô
hình hoá,)


- Sử


dụng font chữ, cỡ chữ, màu sắc, kỹ thuật xuất hiện thông tin trên silie hợp

lý.
- Tư

liệu phục vụ bài giảng phong phú, mới lạ, hợp lý. Giới thiệu được tài
liệu, website tham khảo để người học tự chủ đọc thêm. Tuy nhiên cũng nên tránh
việc trích dẫn tràn lan.
- Đánh

giá các kĩ thuật liên kết các thông tin, liên kết các slide, menu cần thiết.

2.4. Kinh nghiệm thiết kế BGĐT dạy TPVC có chất lượng

- Trình bày đẹp và nổi bật tiêu đề, cỡ chữ, màu chữ;
- Nên

dùng chữ không chân để tiết kiệm không gian trong các slide;

- Chọn ghi
-

từ khóa và cần rèn cho HS cách diễn đạt;

Nên hạn chế các hiệu ứng tránh để cho HS phân tán không đảm bảo tính sư
phạm;

Khi đưa hình ảnh vào các slide phải có mục đích ý nghĩa, chú ý đến tính
giáo dục thẩm mĩ, không được tùy tiện;

-

- Nên

đưa các hình ảnh, thông tin không có trong SGK để mở rộng kiến thức,
nâng cao hiểu biết thì thú vị hơn;
- Hệ

thống câu hỏi trong bài thiết kế phải thống nhất ở hiệu ứng;

Không quá lạm dụng CNTT vào giờ dạy làm mất chất văn thật sự của một
giờ dạy TPVC, bởi quá lạm dụng sẽ biến giờ dạy thành giờ biểu diễn, trình chiếu
hình ảnh.
-

2.5. Giáo án minh hoạ
2.5.1. Thực

trạng BGĐT soạn giảng TPVC của một số GV

Để minh chứng cho thực trạng soạn giảng BGĐT một TPVC, tôi ghi đĩa
giáo án bài “Sóng” (Xuân Quỳnh) của một GV trong trường chưa đảm bảo các
yêu cầu để đánh giá ; tôi tải (download) giáo án bài “Vợ chồng Aphủ”- Tô Hoài
(SGK Ngữ văn 12) trên thư viện điện tử với những thực trạng mà GV thường hay
mắc phải như tôi đã nêu trên.
2.5.2. Thiết

kế BGĐT dạy học TPVC theo hướng đề xuất cách đánh giá như

đề tài

Từ những giáo án thực trạng trên, tôi thiết kế lại giáo án bài “Vợ chồng
Aphủ” theo những cách đánh giá mà tôi đã đề xuất như trong đề tài. Ngoài ra, tôi
thiết kế bài “Đàn ghi ta của Lor-ca”-Thanh Thảo (SGK Ngữ văn 12) theo hướng
các tiêu chí đánh giá mà đề tài đưa ra.
( Những giáo án này lưu trong 02 đĩa CD)


III. Khả năng áp dụng

Là một Phó Hiệu trưởng phụ tránh chuyên môn, tôi đã tổ chức Hội thi thiết
kế BGĐT cấp trường trong nhiều năm liền, tôi cũng đã tham gia dự giờ của rất
nhiều đồng nghiệp nên đã nhận thấy những tồn tại và hạn chế của GV khi thiết kế
BGĐT không chỉ bộ môn Ngữ văn mà còn ở nhiều môn khác. Sau khi phân tích và
góp ý theo hướng đề xuất cách đánh giá như trong đề tài thì GV đã có những điều
chỉnh hợp lý, có hiệu quả.
-

- Vì

vậy mà đề tài đã thể hiện được tính khoa học, tính khả thi và hiệu quả thiết
thực nên có thể áp dụng cho giáo viên dạy Văn không chỉ ở trường tôi mà còn có
thể áp dụng ở phạm vi rộng (ở đơn vị hoặc của ngành).
- Đề

tài này có thể mở rộng khả năng áp dụng các tiêu chí đánh giá bài dạy có
ứng dụng CNTT cho các bộ môn khác trong chương trình THPT.
- Đề

tài giúp GV có cơ sở định hướng đúng khi thiết kế BGĐT phù hợp với
đặc trưng bộ môn, phát huy thế mạnh của việc ứng dụng CNTT trong dạy học.

Hơn thế nữa, đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ
quản lý khi dự giờ góp ý tiết dạy có ứng dụng CNTT của GV.
IV. Lợi ích kinh tế - xã hội

Đề tài thực hiện không tốn kém về mặt kinh tế mà còn góp phần phục vụ
tốt cho quá trình dạy học. Bởi nó cung cấp cho giáo viên những tri thức lí luận về
các tiêu chí đánh giá khi thiết kế BGĐT của tiết dạy học TPVC ở trường THPT
có hiệu quả. Đó chính là mục tiêu mà đề tài này hướng đến.
-

Hệ thống các tiêu chí được nghiên cứu phân tích, sắp xếp hợp lí đã tạo
điều kiện để giáo viên có cơ sở lí luận khoa học và thực tiễn khi thiết kế và đánh
giá BGĐT. Ngoài ra nó còn góp phần cải thiện và nâng cao được chất lượng bộ
môn Ngữ văn.
-

Đề tài góp phần tạo nên hứng thú và không khí văn chương trong dạy học
một TPVC, thể hiện vẻ đẹp hiện đại của người GV. Nó là một tài liệu tiện lợi, bổ
ích để GV sử dụng trong giảng dạy.
-


C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận

Đề tài SKKN của tôi chú trọng nêu lên một số thực trạng còn tồn tại những
hạn chế khi thiết kế một TPVC của GV và cách thức đánh giá BGĐT đó, giúp GV
có cái nhìn tổng thể để khi soạn giảng có thể tự rút ra cho mình cách thiết kế
BGĐT sao cho phù hợp để BGĐT được đánh giá là có hiệu quả nhất. Các kĩ năng
sử dụng CNTT như thế nào, tôi xin không đề cập, bởi đó là kĩ năng tối thiểu mà

GV cần nắm để đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH hiện nay.
- Phải

xác định CNTT là phương tiện hỗ trợ cần thiết và quan trọng cho GV
trong việc thực hiện quá trình dạy học. Để chuẩn bị cho việc tổ chức dạy học Ngữ
văn có sử dụng CNTT, GV cần biết chọn những bài giảng thích hợp, có ý tưởng
hay để dàn dựng một kịch bản nhiều sáng tạo, biết tận dụng lợi thế của CNTT để
thiết kế bài giảng hài hòa giữa tính sư phạm, tính khoa học và tính thẩm mĩ.
- Khi

thiết kế BGĐT thì cần xác định bài học này cần khai thác những ứng
dụng CNTT nào để hỗ trợ là hiệu quả nhất? Chỗ nào không dạy tốt hơn khi dùng
máy thì ta dùng máy để hỗ trợ. Bởi vì dạy văn mà bày trải ra bằng trực quan thì
mất cả cái đẹp, phải chú ý tính hình tượng, cảm xúc thẩm mĩ. Ngoài ra, khi thiết
kế thì tên và cấu trúc của bài không được biến mất trong các slide để đảm bảo cấu
trúc bài dạy và dễ theo dõi.
2. Khuyến nghị

Về phía Sở Giáo dục - Đào tạo: Cần đẩy mạnh hơn nữa yêu cầu các
trường học sử dụng CNTT vào công tác quản lí và quá trình dạy học. Cần tổ
chức các hội thi BGĐT một cách quy cũ, thiết thực. Những BGĐT đạt chất
lượng nên được nhân rộng để GV trong tỉnh được tham khảo, học hỏi.
*

Về phía các trường học: Cần tổ chức tập huấn sử dụng CNTT một
cách thường xuyên để GV luôn được tiếp cận với những phần mềm dạy học mới
mẻ, hiện đại. Nhà trường, tổ chuyên môn cũng cần đưa yêu cầu sử dụng CNTT vào
làm tiêu chí đánh giá chất lượng GV hàng năm. Đặc biệt, cần chú ý đầu tư trang
thiết bị dạy học đầy đủ, tạo điều kiện cho GV sử dụng các phương tiện hiện đại
vào dạy học.

*

Về phía GV: Cần tích cực học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nắm
vững các kĩ năng sử dụng CNTT vào dạy học, luôn tìm tòi, sáng tạo để không
ngừng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Mỗi GV phải là tấm
gương về tự học và sáng tạo, tự nâng cao năng lực của bản thân bởi đó là nhân tố
quyết định việc nâng cao chất lượng nền giáo dục của đất nước. CNTT chỉ là yếu
tố ngoại lực, con người là nội lực, mới có ý nghĩa quyết định tất cả.
*


Đề tài“ Một số thực trạng và cách đánh giá Bài giảng điện tử khi dạy học
tác phẩm văn chương ở trường THPT” theo tôi là một hướng đi đúng, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại, với đặc trưng phân môn Ngữ văn, với nhu cầu
và tâm lí HS, góp phần đổi mới PPDH trong nhà trường phổ thông. Hi vọng
hướng đi này sẽ hứa hẹn đem lại nhiều thành công trong việc nâng cao chất lượng
dạy học TPVC nói riêng, bộ môn Ngữ văn nói chung./.



×