Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.71 KB, 119 trang )

LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở
Công ty may Chiến Thắng


lời mở đầu

Ngày nay, có lẽ không ai phủ nhận vai trò của xuất khẩu, của xu hướng khu vực
hoá, quốc tế hoá đối với sự phát triển mọi mặt của một quốc gia. Việc hội nhập với nền
kinh tế quốc tế đối với Việt Nam càng trở nên quan trọng hơn, bởi so với rất nhiều nước
trên thế giới, chúng ta vẫn là một nước nghèo và đang trên đường thực hiện Công nghiệp
hóa - Hiện đại hoá.
Với điều kiện của nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc
đang là một xu hướng tất yếu góp phần phát triển kinh tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi
danh sách các nước nghèo trên thế giới.
Thị trường EU là một thị trường có nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc rất lớn,
được đánh giá là một thị trường quan trọng và đầy tiềm năng của hàng may mặc Việt
Nam.
Là một doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc, trong nhiều năm qua thị trường
EU vẫn luôn được coi là một trong những thị trường truyền thống và quan trọng đối với
việc xuất khẩu hàng may mặc của Công ty may Chiến Thắng.
Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị
trường này lại có xu hướng giảm, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy,
trong thời gian tới, thị trường này cần phải được coi trọng hơn nữa trong chiến lược xuất
khẩu của Công ty nhằm khai thác hết tiềm năng của thị trường này.
ý thức được điều này, sau một thời gian thực tập tại Công ty, em đã mạnh dạn
chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
sang thị trường EU ở Công ty may Chiến Thắng".
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua phân tích, đánh giá hoạt động xuất
khẩu của Công ty sang thị trường EU để đưa ra các giải pháp trong việc duy trì và mở


rộng xuất khẩu sang thị trường này.
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương 1. Lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng may mặc


Chương 2. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty
may Chiến Thắng sang thị trường EU
Chương 3. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty
may Chiến Thắng sang thị trường EU


Kết luận
Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU ở Công ty
may Chiến Thắng hiện nay thực sự đang là một vấn đề cần thiết. Việc đẩy mạnh xuất
khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng cần phải có những giải pháp đồng
bộ từ Nhà nước tới các doanh nghiệp.
Mặc dù thời gian thực tập tại Công ty ngắn và trình độ hiểu biết có hạn, nhưng
dưới sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị Xuân Hương, đề tài này cũng đóng góp
một phần nhỏ bé vào việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Công ty, đó là:
Đề tài đã hệ thống hoá được hệ thống lý luận về xuất khẩu hàng may mặc. Hơn
nữa, thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu sang thị
trường EU, em đã đưa ra được những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty khi tham gia vào
thị trường quốc tế. Nhờ đó, những giải pháp đã nêu trong đề tài mang tính sát thực và phù
hợp với tình hình hiện nay của Công ty.


Chương 1
lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng may mặc

1.1. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam

1.1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng may mặc
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hóa và dịch
vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Xuất khẩu hàng may mặc là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó
hàng may mặc được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Kinh doanh xuất khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của
doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các
hoạt động kinh doanh của mình.
Hàng may mặc là một trong những mặt hàng đầu tiên tham gia vào lĩnh vực
thương mại quốc tế, do đặc điểm của ngành cũng như do nhu cầu của người dân trên thế
giới về mặt hàng nhạy cảm này.


Việc thực hiện các hoạt động xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh
hàng may mặc có thể sử dụng được những khả năng vượt trội cũng như những lợi thế của
họ. Mặt khác, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do
nâng cao khối lượng sản xuất, góp phần nâng cao được lợi nhuận cho doanh nghiệp mình
đồng thời giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Tiến hành hoạt động xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng may
mặc tiếp cận nhanh hơn với nền kinh tế thị trường, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh
doanh quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tìm kiếm, mở rộng thị trường.
Chính vì vậy, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc hiện nay được tiến hành ở hầu
hết các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có lợi thế về nhân lực và nguyên liệu.
Hoạt động xuất khẩu này mang lại những lợi ích rất lớn, đặc bịêt là với một nước đang
phát triển như nước ta.
1.1.2. Đặc điểm của hàng may mặc xuất khẩu
Với mỗi người, ba nhu cầu “ăn, mặc, ở” là những nhu cầu thiết yếu và không thể
thiếu. Đáp ứng nhu cầu “mặc”, không thể có ngành nào thay thế được ngành sản xuất
hàng may mặc. Nhu cầu của người tiêu dùng hiện nay là “mặc đẹp” chứ không phải là
“mặc ấm” như trước kia; chính vì vậy việc phát triển hàng may mặc là một tất yếu. Cùng

với sự phát triển của thương mại quốc tế, hàng may mặc không chỉ đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở rất nhiều
nước khác. Trong kinh doanh quốc tế, mặt hàng may mặc là một trong những mặt hàng
có quan hệ đối ngoại sớm nhất. Hàng may mặc xuất khẩu có những đặc trưng cơ bản sau:
Sản phẩm may mặc là sản phẩm không thể thay thế được
Sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp khác đều là những sản phẩm có thể
thay thế được, như thay vì sử dụng xe máy, người ta sử dụng xe đạp, xe buýt,.. thay vì sử
dụng ti vi, người ta sử dụng radio,...Nhưng đối với ngành công nghiệp sản xuất hàng may
mặc, người ta chỉ có thể lựa chọn chất liệu vải, màu sắc, kiểu dáng khác nhau của các sản
phẩm may mặc nhưng không thể không sử dụng các sản phẩm này. Đây là một đặc điểm
cơ bản của hàng may mặc, nhờ đó mà sản phẩm may mặc trở thành một trong những sản
phẩm thiết yếu không thể thiếu của người tiêu dùng.


Sản phẩm may mặc là sản phẩm có yêu cầu phong phú, đa dạng về chủng loại và
chất liệu
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về hàng may mặc ngày càng phong phú
và đa dạng, tuỳ thuộc vào đặc điểm về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khí hậu,
tuổi tác, giới tính... Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này cần
phải không ngừng nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu của từng nhóm đối tượng
khách hàng để thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu này.
Sản phẩm may mặc mang tính thời trang cao
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu làm đẹp của mỗi người càng được quan
tâm nhiều hơn. Sản phẩm may mặc hiện nay không chỉ đơn thuần là một công cụ để che
thân mà công dụng chủ yếu của nó hiện nay là giúp tôn thêm vẻ đẹp, cá tính... của mỗi
người. Vì vậy, việc nắm bắt được xu hướng thời trang quốc tế là công cụ hữu hiệu để
phát triển xuất khẩu hàng may mặc.
Sản phẩm may mặc mang tính thời vụ cao.
Đối với mỗi mùa khác nhau, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm may mặc là khác
nhau. Vì vậy, trong buôn bán hàng may mặc cần căn cứ vào sự thay đổi của thời tiết

trong năm ở từng khu vực, từng thị trường để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Điều
này còn có liên quan trực tiếp đến thời hạn giao hàng xuất khẩu, mặt hàng may mặc cần
phải được giao đúng thời hạn nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Công nghiệp sản xuất hàng may mặc là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động, đặc biệt là lao động nữ
Lao động trong ngành may mặc không đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật. Mặt khác,
lao động trong lĩnh vực sản xuất hàng may mặc đòi hỏi sự cần cù và khéo léo, vì vậy,
ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc thu hút rất nhiều lao động, đặc biệt là lao
động nữ. Đây là ngành công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát
triển, các nước đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá như nước
ta.
Ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc đã diễn ra nhiều lần dịch chuyển sản
xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới và trong nội bộ từng nước.


Công nghiệp sản xuất hàng may mặc là ngành công nghiệp sớm tham gia vào thị
trường hàng hoá quốc tế và nó cũng đã trải qua nhiều lần dịch chuyển sản xuất giữa các
nước và các khu vực trên thế giới. Có thể nói, ngành công nghiệp này xuất hiện đầu tiên
ở Anh từ thế kỷ XVIII, sau đó được dịch chuyển sang các nước châu Âu khác, rồi đến
châu á (đặc biệt là các nước Nics) và hiện nay, ngành công nghiệp này đang trong quá
trình dịch chuyển đến các nước kém phát triển hơn như Trung Quốc, Việt Nam, Thái
Lan, Inđônêxia, Philippin... và có xu hướng dịch chuyển sang các nước kém phát triển
hơn nữa, và có giá nhân công rẻ hơn.
Ngay trong nội bộ một nước, công nghiệp sản xuất hàng may mặc cũng có xu
hướng dịch chuyển từ các đô thị đến các vùng nông thôn có giá nhân công rẻ.
Thu nhập bình quân và cơ cấu tiêu dùng chi cho hàng may mặc là nhân tố có ảnh
hưởng quan trọng đến việc xác định xu hướng tiêu thụ mặt hàng này.
Đối với các thị trường có mức thu nhập bình quân cao thì yêu cầu về chất lượng,
mẫu mã, kiểu dáng... sẽ quan trọng hơn giá cả. Ngược lại, đối với các thị trường có mức
thu nhập khá hoặc trung bình thì giá cả lại có ý nghĩa rất quan trọng trong quyết định mua

hàng của khách. Đặc điểm này có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp khi quyết định
tính chất mặt hàng kinh doanh trên từng khu vực thị trường và khách hàng.
Về đặc điểm thị trường:
Hàng may mặc là một mặt hàng nhạy cảm, sản phẩm của nó được bảo hộ mạnh
mẽ ở hầu hết các thị trường thế giới bằng những thể chế, chính sách đặc biệt. Hiệp định
về hàng dệt may là kết quả quan trọng của vòng đàm phán urugoay ra đời và phát huy tác
dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm may mặc đều được điều chỉnh theo các thể
chế thương mại này. Nhờ đó, phần lớn các nước nhập khẩu có những biện pháp hạn chế
đối với việc nhập khẩu sản phẩm may mặc. Mức thuế nhập khẩu với hàng may mặc
thường cao hơn so với các mặt hàng công nghiệp khác. Những thể chế nhằm bảo hộ hàng
may mặc trong nước và hạn chế nhập khẩu đã làm ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất và
tiêu thụ mặt hàng này trên thế giới.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam


Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản và quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với một nước đang phát triển
như Việt Nam, việc mở rộng xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là việc
xuất khẩu những mặt hàng mà chúng ta có thế mạnh như hàng may mặc. Vai trò của việc
xuất khẩu hàng may mặc đối với nền kinh tế nước ta là rất to lớn và không thể phủ nhận,
thể hiện ở chỗ:
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu để phát triển kinh tế
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một bước đi tất yếu để phát triển kinh
tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Muốn cho sự nghiệp Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả thì cần một lượng vốn rất
lớn để nhập khẩu những máy móc, thiết bị hiện đại và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật
chất kỹ thuật.
Nguồn vốn phục vụ nhập khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng có thể lấy từ nhiều
nguồn như viện trợ, đi vay, xuất khẩu… Nhưng các nguồn viện trợ, đi vay…thường rất
khó khăn và khi sử dụng các nguồn vốn này cần phải gắn liền với trách nhiệm trả nợ. Vì

vậy, nguồn vốn thu từ hoạt động xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất để thoả mãn
nhu cầu nhập khẩu và phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ mật thiết với nhau, xuất khẩu tạo ra nguồn
vốn để nhập khẩu; nhập khẩu tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu phát triển… Xuất khẩu
quy định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Do đó, trong kinh doanh phải luôn kết
hợp xuất khẩu và nhập khẩu.
Đã từ nhiều năm nay, hàng may mặc nói riêng và dệt may nói chung luôn là một
trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, và trong những năm gần đây kim
ngạch xuất khẩu dệt may luôn đứng ở vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế đất nước và tạo ra một
lượng ngoại tệ lớn để đầu tư vào trang thiết bị máy móc và xây dựng cơ sở hạ tầng của
đất nước, thể hiện ở những chỉ tiêu sau:


- Năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt và may mặc đạt 1.975
triệu USD, tăng 8,8% so với năm 2000, chiếm tỷ trọng 13,1% trong tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu của cả nước (dầu thô là 20,8%).
- Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt và may mặc đạt 2.752
triệu USD, tăng 39,3% so với năm 2001, chiếm tỷ trọng 16,5% trong tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu của cả nước (dầu thô là 19,6%).
- Năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt và may mặc ước đạt
3630 triệu USD, tăng 31,9% so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 18,3% trong tổng giá trị
kim ngạch xuất khẩu của cả nước (dầu thô là 19%). Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất
khẩu may mặc của Việt Nam vượt ngưỡng 3 tỷ USD.
Có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta trong những năm gần
đây tăng lên khá nhanh, khoảng cách giữa tỷ trọng xuất khẩu dệt may và dầu thô trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta ngày càng được rút ngắn, thể hiện qua bảng sau:


Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm gần

đây
2001
Chỉ tiêu

Lượng
(Tr.
USD)

Tổng KNXK
Dệt may

2002

02/01

2003

Lượng Tỷ trọng tăng Lượng

Tỷ

trọng (Tr.US
(%)

(%)

03/02
Tỷ

(%) (Tr.USD trọng


D)

)

tăng
(%)

(%)

15.027

100

16.705

100 11,20

19.880

100

19,0

1.975

13,1

2.752


16,5 39,34

3.630

18,3

31,9

* Nguồn: Niên giám thống kê 2002, thời báo kinh tế
VN
Góp phần thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển
Nhu cầu của con người phát triển ngày càng cao và luôn luôn biến đổi. Nhu cầu
của người dân ở mỗi nước lại có sự khác biệt đáng kể, chỉ dựa vào khả năng sản xuất của
một nước thì nhu cầu của người dân nước đó sẽ không được thoả mãn một cách tốt nhất
và hiệu quả kinh doanh mang lại không cao.
Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người dân trên
toàn thế giới. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, một nước có thể chuyên môn hóa
vào việc sản xuất mặt hàng nào mà nước đó có lợi thế hơn, từ đó góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế đất nước theo hướng chuyên môn hoá, nhờ đó cơ cấu vật chất của sản phẩm
sản xuất ra có sự thay đổi. Ngành may mặc là một ngành mà nước ta có thế mạnh rất lớn,
vì vậy việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc đã được Chính phủ quan tâm từ nhiều
năm nay.
Khi ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu phát triển, nó sẽ kéo
theo sự phát triển của rất nhiều ngành có liên quan
Để sản xuất ra một sản phẩm may mặc phục vụ xuất khẩu, người ta cần phải
dùng đến nhiều nguyên phụ liệu khác như bông, vải sợi, và các ngành công nghiệp khác
như in, nhuộm, sản xuất nhựa polyme để bao gói, hoàn thiện sản phẩm, sản xuất giấy để


phục vụ cho việc cắt xén, tạo bản mẫu hay các thùng bìa các-tông để đóng gói sản

phẩm…
Hơn nữa, khi ngành công nghịêp này phát triển ngày càng cao thì đòi hỏi càng
nhiều những máy móc thiết bị tiên tiến để phục vụ việc sản xuất ra những sản phẩm có
chất lượng cao và giảm bớt những chi phí cho phế liệu, phế phẩm. Từ đó kéo theo sự phát
triển của các ngành cơ khí, chế tạo máy phát triển.
Hàng may mặc xuất khẩu của chúng ta thường xuất khẩu với số lượng lớn, nên
thường chọn phương tiện vận chuyển đường biển vì xuất khẩu bằng đường biển tốn kém
ít chi phí vận chuyển và có thể vận chuyển những khối lượng hàng hoá lớn, do vậy đòi
hỏi phải có sự phát triển của ngành hàng hải.
Góp phần giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân
Để tạo ra các sản phẩm phục vụ xuất khẩu, không thể không có sự đóng góp của
lực lượng lao động. Nhờ có sự phát triển của hoạt động xuất khẩu mà rất nhiều người lao
động có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và giảm bớt được các tai tệ
nạn xã hội.
Trong số các ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp sản xuất hàng may mặc
tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động nhất. Mặt khác, đặc điểm của người lao
động Việt Nam rất phù hợp cho việc lao động trong ngành này. Chính vì vậy, ngành công
nghiệp này đã tạo ra hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động trên khắp cả nước.
Đặc điểm của ngành sản xuất hàng may mặc là cần những lao động khéo tay và
cần cù, do đó những lao động nữ rất phù hợp cho những công việc của ngành này. Số
lượng lao động nữ trong các doanh nghiệp may mặc nước ta thường chiếm trên 80%.
Lao động trong lĩnh vực may mặc không đòi hỏi có tay nghề cao, vì vậy, để góp
phần đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc đầu tư phát triển ngành
công nghiệp này là một việc làm rất cần thiết.
Xuất khẩu hàng may mặc tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại và quảng bá thương hiệu của mặt hàng này trên thị trường thế giới
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế có tác động qua lại, phụ thuộc vào nhau, xuất
khẩu cũng chính là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Ngành công nghiệp sản xuất hàng



may mặc, như đã nói ở trên, là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của nước ta, do vậy việc
thúc đẩy phát triển xuất khẩu mặt hàng này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy các quan
hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Mặt khác, hiện nay việc xuất khẩu mặt hàng này hầu hết
mới chỉ dừng lại ở phương thức gia công cho nước ngoài, vì vậy bên cạnh việc xúc tiến
xuất khẩu trực tiếp thì việc tiếp tục xuất khẩu theo phương thức gia công cũng cần phải
được chú trọng, vì nó tạo ra những tiền đề thuận lợi về các mối quan hệ kinh tế quốc tế
cho việc đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp.
Thông qua phương thức gia công xuất khẩu, chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ
của các bạn hàng và có thể khai thác thông tin từ họ, khiến cho việc quảng bá thương
hiệu hàng may mặc Việt Nam được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2. Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc
Trong buôn bán quốc tế hiện nay tồn tại khá nhiều hình thức xuất khẩu, trong đó
các hình thức xuất khẩu chủ yếu sau đây thường được áp dụng trong việc xuất khẩu hàng
may mặc:
1.2.1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách
hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Xuất khẩu trực tiếp cũng có thể là việc nhà xuất khẩu mua từ các doanh nghiệp sản
xuất trong nước sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng
của mình thông qua các tổ chức của mình.
Trong phương thức này, các doanh nghiệp trong nước sẽ tự mua nguyên liệu đầu vào
cần thiết thay vì được cung cấp miễn phí bởi người mua nước ngoài. Do đó theo phương thức
này, doanh nghiệp trong nước được thanh toán toàn bộ sản phẩm may mặc xuất khẩu. Có thể
phân thành ba loại xuất khẩu trực tiếp như sau:
* Loại 1: Doanh nghiệp trong nước mua nguyên vật liệu đầu vào để gia công từ nhà
cung cấp do người mua nước ngoài chỉ định.
Theo phương thức hợp đồng này, người mua nước ngoài không chỉ lựa chọn nhà cung cấp
mà còn mô tả chính xác chủng loại, màu sắc và phụ kiện mà doanh nghiệp trong nước phải



mua. Thêm vào đó, những vấn đề liên quan đến quy mô sản xuất, giá cả và thời hạn giao hàng
cũng được người mua quy định trước. Thường phát sinh trường hợp doanh nghiệp trong nước
phải kê khai giá cả nguyên vật liệu do người mua quy định và trong giá thành xuất khẩu của
sản phẩm may mặc. Hình thức hợp đồng theo phương thức xuất khẩu này, cả rủi ro về sản
xuất lẫn rủi ro về marketing đều do người mua nước ngoài gánh chịu.
* Loại 2: Doanh nghiệp trong nước nhận mẫu hàng từ người mua nước ngoài. Dựa
trên những mẫu này, họ sản xuất sản phẩm tương tự, sử dụng nguyên vật liệu do họ tự mua
mà không có gợi ý hay cam kết gì của người mua từ trước. Nếu mẫu tương ứng được chấp
nhận, họ sẽ nhận được đơn đặt hàng may mặc dựa trên những quy cách của sản phẩm mẫu đã
sản xuất.
*Loại 3: Theo phương thức này, doanh nghiệp trong nước tiến hành sản xuất hàng
may mặc dựa trên thiết kế riêng của họ, không có cam kết từ trước dưới bất kỳ hình thức nào
từ phía người mua nước ngoài. Doanh nghiệp trong nước sản xuất mẫu hàng may mặc và
đưa ra giới thiệu tới các khách hàng tiềm năng, chẳng hạn như, tại các cuộc triển lãm. Sau đó
họ nhận được những đơn hàng từ phía khách hàng và xuất khẩu sản phẩm dựa trên phương
thức bán FOB, nếu cuộc triển lãm đó thành công.
Các doanh nghiệp hoạt động theo phương thức này hoặc phải có thương hiệu riêng, hoặc
phải sản xuất hàng may mặc theo thương hiệu đã được đăng ký với thiết kế riêng của họ.
Hình thức này tạo khả năng lớn nhất để tăng giá trị gia tăng, tuy nhiên các rủi ro cả về sản
xuất lẫn thị trường lại là lớn nhất.
Việc xuất khẩu hàng hoá theo phương thức xuất khẩu trực tiếp mang lại hiệu quả cao
hơn rất nhiều so với phương thức gia công, giảm được các chi phí trung gian và mang lại sự
chủ động cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu các sản phẩm may mặc
Tuy nhiên, xuất khẩu theo phương thức này dễ xảy ra những rủi ro, sai lầm khi kinh
doanh trên các thị trường mới, do đó muốn xuất khẩu có hiệu quả cần phải nghiên cứu thị
trường, tìm hiểu khách hàng và hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp định kinh doanh.
Điều này là rất khó cho các doanh nghiệp may mặcViệt Nam hiện nay, vì hầu hết các doanh
nghiệp đều chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường. Song trong thời gian tới, chúng ta
cần đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu theo phương thức này, để giúp cho các doanh nghiệp
có sự năng động cần thiết trong kinh doanh quốc tế.



1.2.2. Xuất khẩu gián tiếp (Xuất khẩu qua trung gian)
Xuất khẩu gián tiếp là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập
(trung gian) đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra
nước ngoài.
Xuất khẩu theo phương thức này có rất nhiều ưu điểm, trong đó những ưu điểm nổi
bật phải kể đến là:
- Những người trung gian thường là những người hiểu biết rất rõ về thị trường, luật
pháp và tập quán địa phương. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc xuất khẩu hàng may
mặc, vì những tập quán, thói quen tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng thời trang và
phong cách ăn mặc. Do vậy, nó giúp cho các nhà kinh doanh trong lĩnh vực này có thể tránh
bớt được những rủi ro và đẩy mạnh hoạt động mua bán.
- Trung gian thường là những người có vốn, có cơ sở vật chất, vì vậy việc sử dụng
những trung gian sẽ giúp cho những nhà kinh doanh trong lĩnh vực may mặc đỡ phải đầu
tư vốn trực tiếp ra nước ngoài. Đây là một ưu điểm lớn của hình thức xuất khẩu này và
rất phù hợp với các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc của nước ta, khi điều kiện
của các doanh nghiệp này còn hạn chế về vốn và thông tin thị trường.
- Những trung gian có thể thực hiện việc tuyên truyền, quảng cáo hộ các nhà kinh
doanh. Nhờ vậy, các nhà kinh doanh có thể giảm bớt được những chi phí cho quảng cáo
sản phẩm, những chi phí trong việc tập trung hàng hóa, lựa chọn, phân loại, đóng gói
hàng hoá... nhờ những dịch vụ của các trung gian.
Hình thức xuất khẩu này có khá nhiều ưu điểm và rất phù hợp với những doanh
nghiệp mới tham gia vào thị trường cũng như các doanh nghiệp kinh doanh hàng may
mặc của nước ta trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại khá nhiều nhược
điểm đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu cần phải cân nhắc
trước khi quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình,
những nhược điểm đó là:
Nhà kinh doanh không được gặp trực tiếp đối tác, nên sẽ bị tách khỏi thị trường,
do vậy khó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường và thường phải đáp ứng những

yêu sách của các trung gian.


Một nhược điểm khác của hình thức xuất khẩu này là nhà kinh doanh bị chia xẻ
lợi nhuận với các trung gian.
Thông qua những ưu, nhược điểm của hình thức xuất khẩu này mà các doanh
nghiệp kinh doanh hàng may mặc cần phải cân nhắc kỹ các điều kiện của đơn vị mình để
lựa chọn cho phù hợp với chiến lược kinh doanh trên từng thị trường.
1.2.3. Xuất khẩu theo nghị định thư
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả
nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có
ưu điểm là đảm bảo được thanh toán (do Nhà nước là người thanh toán cho doanh
nghiệp). Tuy nhiên, hình thức xuất khẩu này hiện nay chưa được áp dụng rộng rãi trong
kinh doanh hàng may mặc.
1.2.4. Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển
và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó mang lại.
Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá và dịch vụ chưa vượt
khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu.
Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du
lịch quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí về
bao bì, đóng gói, bảo quản, vận chuyển..., tránh được những rắc rối hải quan, thu
hồi vốn nhanh. Hình thức này tuy có rất nhiều ưu điểm, song nó cũng chưa được
phổ biến rộng rãi trong kinh doanh hàng may mặc.
1.2.5. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh xuất khẩu theo đó một bên nhập
nguyên liệu và bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên kia (bên đặt gia
công) để chế biến thành thành phẩm rồi giao cho bên đặt gia công và nhận thù lao
(tiền phí gia công).



Xuất khẩu theo hình thức gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu được áp
dụng phổ biến ở các quốc gia có lợi thế về nhân công nhưng thiếu nguồn nguyên
vật liệu, thương hiệu và uy tín về sản phẩm trên thị trường quốc tế chưa có hoặc
không phổ biến. Mặt khác, xuất khẩu theo phương thức này, bên nhận gia công có
thể tiêu thụ được một số nguyên vật liệu phụ đi kèm, có cơ hội tiếp cận với những
công nghệ mới và học tập được những kinh nghiệm quản lý.
Chính vì vậy, hình thức xuất khẩu này được áp dụng rất rộng rãi trong các
doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt Nam. Cho tới nay, xuất khẩu hàng
may mặc theo phương thức gia công quốc tế chiếm tới trên 60% lượng hàng may
mặc xuất khẩu của nước ta, trong đó xuất khẩu vào EU theo phương thức này
chiếm tới trên 80%.
Xuất khẩu theo phương thức gia công có thể giúp cho bên đặt gia công
tranh thủ được nguồn lao động rẻ của nước ngoài, nhờ đó có thể hạ được giá
thành sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường;
mặt khác họ có thể dễ dàng thay đổi cơ cấu ngành nghề để có lợi cho nước mình.
Dựa vào các căn cứ khác nhau, có thể chia thành rất nhiều các hình thức
gia công, đó là:
* Theo quyền sở hữu nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, có các hình
thức sau:
- Hình thức nhận nguyên phụ liệu, giao thành phẩm: Bên gia công chịu trách
nhiệm bảo đảm toàn bộ nguyên phụ liệu cho bên nhận gia công, bên nhận gia công chỉ
phải lo tổ chức sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công. Quyền sở hữu nguyên, phụ
liệu thuộc bên đặt gia công, bên nhận gia công chỉ có quyền quản lý và sử dụng nguyên
phụ liệu đã nhận đưới sự giám sát của bên đặt gia công.
- Hình thức mua nguyên phụ liệu, bán thành phẩm: Bên nhận gia công sử dụng
vốn lưu động của mình để mua những nguyên phụ liệu chủ yếu từ bên nhận gia công và
tiến hành sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công theo hợp đồng đã ký kết.



- Hình thức hỗn hợp: Bên nhận gia công sẽ mua một số nguyên phụ liệu từ bên đặt
gia công, số còn lại có thể mua từ các chủ thể kinh tế khác ở trong và ngoài nước, sản
phẩm sản xuất ra được bán lại toàn bộ cho bên đặt gia công.
* Theo số lượng chủ thể kinh tế tham gia vào quan hệ gia công có:
- Gia công hai bên: Bên nước ngoài đặt hàng gia công cho một doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp này đảm nhận toàn bộ qúa trình sản xuất sản phẩm.
- Gia công nhiều bên: Một doanh nghiệp nhận gia công cho một hãng nước ngoài
và giao lại một phần việc cho doanh nghiệp khác thực hiện. Trong trường hợp này, mọi
biệc giao dịch với hãng nước ngoài do doanh nghiệp nhận thầu chính đảm nhận và cũng
chính doanh nghiệp đó phải chịu trách nhiệm với hãng nước ngoài về những cam kết
trong hợp đồng gia công. Hình thức này gọi là gia công chuyển tiếp.
* Theo cách tính giá:
- Hợp đồng thực chi, thực thanh (thanh toán theo thực tế phát sinh): Bên nhận gia
công yêu cầu bên đặt gia công thanh toán toàn bộ chi phí phát sinh thực tế và thù lao gia
công.
- Hợp đồng khoán: là loại hình gia công mà theo đó, hai bên xác định một giá định
mức cho mỗi sản phẩm. Giá này bao gồm chi phí định mức và thù lao. Bên đặt gia công
sẽ thanh toán cho bên nhận gia công theo giá đó.


1.2.6. Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời cũng là người mua, lượng hàng hoá, dịch vụ trao đổi
thường có giá trị tương đương.
Mục đích của việc xuất khẩu theo hình thức này không phải nhằm thu về một
khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị tương đương giá trị của lô hàng
đã xuất. Xuất khẩu theo hình thức này cần quan tâm đến những sự cân bằng về mặt hàng,
cân bằng về giá cả, cân bằng về tổng giá trị hàng hóa và cân bằng về điều kiện cơ sở giao
hàng.

Hình thức xuất khẩu này trước đây được áp dụng khá phổ biến, song ngày nay, do
điều kiện thương mại quốc tế phát triển nên nó đã trở nên ít được áp dụng, đặc biệt là
trong việc xuất khẩu các sản phẩm may mặc.
1.3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
Xuất khẩu hàng may mặc là một hoạt động rất phức tạp, đòi hỏi phải được thực
hiện theo một quy trình kinh doanh tổng hợp và chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác nhau. Quy trình kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc phải được thực hiện theo từng
bước, các bước này có quan hệ mật thiết và không thể tách rời nhau. Quy trình này
thường được tiến hành theo các bước sau:
1.3.1. Nghiên cứu, tiếp cận thị trường hàng may mặc
Vấn đề nghiên cứu thị trường là việc làm đầu tiên và hết sức quan trọng
đối với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc nào khi muốn tiếp cận
với thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh hàng may mặc có
nghĩa là việc điều tra, tìm hiểu thị trường để tìm triển vọng bán hàng cho sản phẩm
may mặc và phương pháp tiếp cận thị trường để thực hiện mục tiêu bán hàng. Quá
trình nghiên cứu thị trường trong kinh doanh hàng may mặc thực chất là quá trình
thu thập các thông tin, số liệu về thị trường, từ đó so sánh, phân tích những số liệu
đó và rút ra kết luận.Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt sẽ giúp cho các


nhà kinh doanh hàng may mặc đưa ra được những quyết định đúng đắn để lập kế
hoạch marketing.
Công tác nghiên cứu thị trường trong kinh doanh hàng may mặc nhằm trả lời các
câu hỏi như: xuất khẩu mặt hàng nào? trên thị trường nào? khả năng bán được hàng trên
thị trường đó như thế nào?…
Để trả lời được những câu hỏi đó, các nhà kinh doanh hàng may mặc cần phải
thực hiện các công việc trong khâu nghiên cứu thị trường, bao gồm:
a. Thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu
Đây là công việc đầu tiên của hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm thu thập
được những thông tin cần thiết về thị trường, về khách hàng và về mặt hàng cần

quan tâm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong kinh doanh hàng may mặc
xuất khẩu.
Có thể thu thập những thông tin này bằng nhiều cách khác nhau và có thể lấy
từ nhiều nguồn khác nhau như thông qua báo, tạp chí, Internet, thông qua những văn
phòng đại diện ở nước ngoài, qua bạn hàng... hay trực tiếp khảo sát tại hiện trường.
Do đặc điểm của hàng may mặc là có nhu cầu luôn biến đổi, nên phương pháp thu
thập thông tin tại hiện trường tỏ ra có ưu thế hơn cả, vì những thông tin được thu
thập theo cách này thường kịp thời và chính xác; tuy nhiên việc thu thập thông tin
theo phương pháp này đòi hỏi chi phí cao, nên không phải bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng có thể thực hiện được.
Thông qua những thông tin đã thu thập được, các doanh nghiệp có thể lựa
chọn được mặt hàng mà mình cần đưa vào kinh doanh trên thị trường đó cũng như
việc thay đổi các mặt hàng kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng trên
thị trường đó.
Một điều quan trọng khác khi nghiên cứu thông tin về thị trường là các nhà
kinh doanh hàng may mặc cần phải tìm hiểu về dung lượng thị trường. Dung lượng
thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi một thị trường nhất
định, trong một thời kỳ nhất định. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định
nhu cầu thực của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của cầu trong


từng thời điểm. Thông qua những thông tin về dung lượng thị trường, các nhà kinh
doanh có thể xác định được lượng sản phẩm để sản xuất và bán ra trên thị trường dó
cho kịp với thời vụ, đảm bảo cho việc xuất khẩu có hiệu quả.


b. Phân tích thông tin về thị trường xuất khẩu
Trên cơ sở các thông tin về thị trường đã thu thập được, các doanh nghiệp kinh
doanh hàng may mặc cần phải phân tích các thông tin đó một cách đầy đủ và chính xác
để đưa ra những quyết định kinh doanh phù hợp. Các thông tin mà doanh nghiệp cần

phân tích là:
* Phân tích thông tin về môi trường xuất khẩu
Môi trường xuất khẩu có tác động liên tục đến hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, những yếu tố về môi trường xuất khẩu
vừa tạo điều kiện thuận lợi, nhưng cũng gây ra không ít những khó khăn cho các doanh
nghiệp kinh doanh trên thị trường đó. Những thông tin về môi trường mà các doanh
nghiệp cần phân tích là những thông tin về môi trường kinh tế, môi trường văn hoá, chính
trị, luật pháp, môi trường cạnh tranh… để có những chiến lược kinh doanh phù hợp trên
thị trường này.
* Phân tích thông tin về giá cả hàng hoá
Giá cả hàng hóa trên thế giới là một yếu tố rất quan trọng đối với bất kỳ một
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nào. Đây là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu đối với
mỗi doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc trên thế giới. Thông tin về giá cả hàng hoá
nếu bị sai lệch sẽ gây ra những tổn thất rất lớn cho các doanh nghiệp. Vì vậy, những
thông tin này cần phải được cập nhật và phân tích một cách chính xác để các doanh
nghiệp có thể đưa ra một chiến lược giá phù hợp.
* Phân tích thông tin về nhu cầu thị trường
Thông tin về nhu cầu của thị trường có ảnh hưởng quan trọng đến các hoạt động
marketing xuất khẩu, vì những nhu cầu của thị trường có ý nghĩa quyết định đến mọi
công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc thu thập và phân tích những
thông tin này là một hoạt động cần thiết và quan trọng đối với các doanh nghiệp khi kinh
doanh trên thị trường quốc tế.
c. Lựa chọn thị trường xuất khẩu và các đối tác kinh doanh


Dựa trên những kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp
cần tiến hành bước tiếp theo, đó là lựa chọn thị trường xuất khẩu và các đối tác kinh
doanh.
Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu cần phải xác định dựa trên những tiêu chuẩn
mà thị trường cần phải đáp ứng được, đó là:

- Tiêu chuẩn chung: Các tiêu chuẩn chung cần nhắc tới ở đây là các tiêu chuẩn
về chính trị, luật pháp, địa lý, dân số, kinh tế, kỹ thuật..
- Các tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ: Đó là những biện pháp bảo
hộ mậu dịch như thuế quan, hạn ngạch..; tiêu chuẩn về tình hình tiền tệ như tỷ lệ lạm
phát, tỷ giá hối đoái; hay những tiêu chuẩn về sự cạnh tranh quốc tế.
Bên cạnh việc lựa chọn thị trường kinh doanh thì các doanh nghiệp kinh doanh
hàng may mặc còn cần phải lựa chọn được đối tác kinh doanh cho phù hợp. Mục đích của
hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi.
Những nội dung cần thiết để nghiên cứu và lựa chọn đối tác bao gồm:
- Các quan điểm kinh doanh của đối tác
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác
- Khả năng về vốn và cơ sở vật chất của đối tác
- Những người được uỷ quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của đối tác với nghĩa
vụ của Công ty.
Có nhiều cách để lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu, nhưng cách tốt nhất là
nên chọn những người nhập khẩu trực tiếp, hạn chế hoạt động trung gian để giảm bớt
những chi phí không cần thiết và có điều kiện quảng bá thương hiệu sản phẩm của Công
ty mình trên thị trường nước ngoài. Kinh doanh trong lĩnh vực may mặc thì việc lựa chọn
các đối tác trực tiếp càng trở nên có hiệu quả hơn.
Sau khi tìm kiếm được đối tác và lựa chọn được mặt hàng kinh doanh cũng như
một số nghiệp vụ khác thì giai đoạn đầu tiên của công tác nghiên cứu thị trường lúc này
có thể tạm thời chấm dứt.
1.3.2. Công tác xúc tiến xuất khẩu hàng may mặc


Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường và tìm kiếm được bạn hàng kinh
doanh, các doanh nghiệp cần tiến hành việc xúc tiến xuất khẩu để chuẩn bị giao dịch xuất
khẩu.
Có nhiều phương tiện khác nhau để thực hiện việc xúc tiến xuất khẩu, nhưng
phương tiện hữu hiệu nhất để xúc tiến xuất khẩu trên thị trường nước ngoài là quảng cáo.

Quảng cáo là sự tuyên truyền, giới thiệu về hàng hoá và dịch vụ nhằm gây sự
chú ý của những khách hàng tiềm năng, gây sự thích thú cho họ để họ trở thành khách
hàng thực tế của doanh nghiệp. Quảng cáo giúp cho khách hàng biết đến sản phẩm và
nhãn hiệu của doanh nghiệp, từ đó việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường này đạt được
hiệu quả cao hơn. Đây là bước quan trọng với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt
đối với các thị trường khó tính, quan tâm nhiều đến tên tuổi, uy tín và nhãn hiệu hàng
hoá.
Xúc tiến xuất khẩu mở ra cơ hội cho hàng may mặc của Việt Nam tham gia vào
thị trường nước ngoài, xúc tiến xuất khẩu không chỉ giúp khách hàng biết đến hàng hoá
của Việt Nam mà còn giúp các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc Việt Nam nắm
bắt được thông tin về thị trường, chủ động tìm kiếm bạn hàng và đối tác kinh doanh.
1.3.3. Công tác tổ chức thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu hàng may mặc
Uy tín của các doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc phụ thuộc rất lớn vào việc
thực hiện đúng hợp đồng, đặc biệt là điều khoản thời gian giao hàng. Để thời gian giao
hàng đúng hẹn, chất liệu, mẫu mã… sản phẩm đúng với hợp đồng đã ký kết thì việc tổ
chức thu mua và tạo nguồn hàng ổn định đóng một vai trò quan trọng và là một hoạt động
không thể thiếu.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc thì việc chủ động tạo nguồn hàng
cho xuất khẩu có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng của hàng hoá và hiệu quả
kinh doanh. Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh
của các doanh nghiệp. Tuỳ theo tình hình riêng của mỗi doanh nghiệp mà có những hình
thức thu mua, tạo nguồn hàng xuất khẩu khác nhau.
1.3.4. Công tác giao dịch, thương lượng trong kinh doanh xuất khẩu


Để tiến tới ký kết hợp đồng xuất khẩu, các bên thường phải trải qua quá trình giao
dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch. Quá trình này có thể thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau như thông qua thư tín, điện thoại, hay đàm phán trực tiếp…
Mỗi hình thức giao dịch này có những ưu nhược điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan
hệ với đối tác, tiềm lực của doanh nghiệp cũng như chiến lược xâm nhập thị trường mà

các doanh nghiệp lựa chọn cho mình phương thức giao dịch kinh doanh phù hợp. Quá
trình giao dịch trong buôn bán quốc tế bao gồm những bước chủ yếu sau:
Bước 1: Chào hàng (phát giá): là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán
hàng của mình. Trong bước giao dịch này, người xuất khẩu phải nêu rõ tên hàng, quy
cách phẩm chất, giá cả, số lượng hàng hoá cùng các điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn
giao hàng, điều kiện thanh toán, bao bì ký mã hiệu…
Bước 2: Hoàn giá (mặc cả): trong trường hợp người nhận nhận được đơn chào
hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn với những điều kiện đã được đưa ra mà họ đưa ra
một lời đề nghị mới thì đề nghị mới này được gọi là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng
trước coi như không còn hiệu lực.
Bước 3: Chấp nhận giá: là sự đồng ý hoàn toàn với mọi điều kiện có liên quan đến
việc mua bán hàng hóa. Đến giai đoạn này, về cơ bản gần như việc thoả thuận mua bán
giữa hai bên đã thực hiện xong.
Bước 4: Xác nhận giá: là sự khẳng định những điều mà hai bên đã thỏa thuận để
phân biệt với những điều kiện mua bán được đưa ra ban đầu. Việc xác nhận giá phải
được thể hiện bằng văn bản.
1.3.5. Công tác ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng. Hợp
đồng trong buôn bán quốc tế là văn bản trong đó ghi rõ các điều khoản hai bên đã thoả
thuận, có chữ ký và con dấu của hai bên, thể hiện đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ cụ thể của
các bên tham gia ký kết. Hợp đồng trong kinh doanh thương mại quốc tế là rất cần thiết
bởi các nước khác nhau có sự khác biệt về ngôn ngữ, chính trị, văn hoá, tôn giáo, tập
quán…và hợp đồng chính là sự biểu hiện cho sự thoả thuận đã đi đến thống nhất.


×