Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN BẰNG tòa án QUỐC tế về LUẬT BIỂN (ITLOS)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯU THỊ KIM THANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN BẰNG
TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN (ITLOS)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯU THỊ KIM THANH

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN BẰNG
TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN (ITLOS)

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến

Hà Nội – 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

LƯU THỊ KIM THANH


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ..................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. 4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ........................................................................ 5
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN
VÀ TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN................................................... 10
1.1. Giải quyết tranh chấp trên biển........................................................... 10
1.1.1. Khái niệm tranh chấp trên biển .................................................... 10
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982 ............................................................................... 11

1.2. Khái niệm Tòa án Quốc tế về Luật biển ............................................. 16
1.2.1. Lịch sử hình thành và địa vị pháp lý của Tòa án Quốc tế về Luật
biển........................................................................................................ 16
1.2.2. Tổ chức của TALB ...................................................................... 19
1.2.3. Phương thức xác lập thẩm quyền ................................................. 20
1.2.4. Quyền tài phán đối với vấn đề nội dung. ...................................... 24
CHƯƠNG 2: THỦ TỤC TỐ TỤNG, THỰC TIỄN XÉT XỬ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP CỦA TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM .............................................................. 29
2.1. Thủ tục tố tụng ................................................................................... 29
2.1.1. Thủ tục tố tụng theo Công ước Luật biển 1982 ............................ 29
2.1.2. Thủ tục tố tụng theo Quy tắc tố tụng của Tòa án Quốc tế về Luật
biển........................................................................................................ 31
2.1.3. Thủ tục bổ trợ .............................................................................. 37
1


2.1.4. Thủ tục tố tụng tại các Tòa đặc biệt ............................................. 42
2.1.5. Thủ tục phóng thích tàu thuyền và thủ thủ đoàn ........................... 43
2.1.6. Thủ tục tố tụng trong các vụ việc tranh chấp tại Viện giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đáy biển. ......................................................... 45
2.1.7. Thủ tục tham vấn ......................................................................... 46
2.2. Thực tiễn xét xử giải quyết tranh chấp của TALB .............................. 47
2.2.1. Vụ tàu M/V Sa ga giữa Vincent và Grenada và Guinea (Vụ số 1 và
2) ........................................................................................................... 48
2.2.2. NewZeland và Australia yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời đối
với việc đánh cá của Nhật Bản ............................................................... 51
2.2.3. Phân định ranh giới giữa Bangladesh và Myanmar ở vịnh Bengal 53
2.3. Bài học kinh nghiệm từ việc giải quyết tranh chấp của TALB............ 70
2.3.1. Căn cứ pháp lý TALB áp dụng khi giải quyết tranh chấp ............. 70

2.3.2. Xem xét thẩm quyền của chính mình trong việc giải quyết tranh
chấp ....................................................................................................... 73
2.3.3. Các bên có quyền lựa chọn Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử vụ án
.............................................................................................................. 74
2.3.4. Nguyên tắc xem xét và đánh giá chứng cứ ................................... 75
2.4. TALB đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài quốc tế theo Phụ lục VII
– CƯLB 1982 ........................................................................................... 76
CHƯƠNG 3: NHỮNG CHUẨN BỊ KHI VIỆT NAM GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TRÊN BIỂN BẰNG TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN............. 80
3.1. Tổng quan về các tranh chấp Biển Đông ............................................ 80
3.2. Việt Nam giải quyết tranh chấp trên biển tại TALB .......................... 84
3.2.1. Việt Nam và việc lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp theo Công
ước Luật biển......................................................................................... 84
3.2.2. Khó khăn và thuận lợi trong giải quyết tranh chấp Biển Đông .... 86
2


3.2.3. Những lưu ý khi Việt Nam giải quyết tranh chấp Biển Đông tại
TALB .................................................................................................... 93
3.2.4. Những vấn đề cần chuẩn bị khi Việt Nam đệ trình giải quyết tranh
chấp trên biển lên TALB ....................................................................... 97
KẾT LUẬN ................................................................................................ 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 111

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982


CƯLB 1982

Tòa án quốc tế về Luật biển

TALB

Tòa án công lý quốc tế

TAQT

4


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Đường phần định ranh giới giữa Bangladesh và Myanmar ........... 67
Hình 3.1. Đường chữ U chín đoạn phi lý của Trung Quốc .......................... 108
Hình 3.2. Ranh giới đường lưỡi bò phi lý của Trung Quốc và ranh giới Vùng
đặc quyền kinh tế của các nước .................................................. 109

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển và đại dương chiếm 72% diện tích bề mặt trái đất, được thừa nhận
là cái nôi của sự sống loài người. Không ai có thể phủ nhận là tất cả các quốc
gia, dù có chế độ kinh tế chính trị, xã hội, tiềm lực kinh tế quân sự khác nhau,
không kể lớn hay nhỏ về mặt địa lý, có biển hay không có biển đều có những
lợi ích thiết thực gắn liền với biển và đại dương. Vai trò của biển và đại
dương càng lớn, giá trị và lợi ích của biển và đại dương đem lại lợi ích cho

các quốc gia càng nhiều thì các tranh chấp liên quan đến biển và đại dương
ngày càng phức tạp và diễn ra phổ biến trong quan hệ giữa các quốc gia.
Những năm gần đây, các quốc gia có xu hướng dần tăng cường khả
năng kiểm soát các đảo, bãi san hô và cả các vùng nước xung quanh. Kết quả
là thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa các bên. Để giải quyết các tranh chấp
có thể xảy ra giữa các Quốc gia về việc giải thích hay áp dụng CƯLB 1982,
CƯLB 1982 quy định các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ giải quyết mọi
tranh chấp giữa họ bằng các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2, khoản 3
của Hiến chương Liên hợp quốc. Các bên có thể tự do lựa chọn giải quyết
tranh chấp bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào do các bên lựa chọn. Bất
kỳ một quốc gia thành viên nào tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu các bên khác đưa vụ
tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục mà Công ước đã quy định. Trong trường
hợp khi tranh chấp không thể giải quyết được bằng thủ tục hòa giải thì vụ việc
có thể được đưa ra trước tòa án có thẩm quyền, trong số đó có Tòa án quốc tế
về Luật biển – Cơ quan tài phán quốc tế mới được lập ra trong khuôn khổ của
Công ước.
Việt Nam nằm trên các tuyến hàng hải và hàng không, huyết mạch giữa
Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nối liền Châu Âu, Trung Cận Đông với
6


Đông Á và bờ biển phía Tây Châu Mỹ. Điều này vừa tạo điều kiện thuận lợi
cho Việt Nam vươn ra biển nâng cao vị trí chính trị và kinh tế của Việt Nam,
vừa đặt ra những thách thức phức tạp do sự cạnh tranh giữa các nước lớn khác
trong khu vực trọng yếu này. Trong những năm qua, Việt Nam đã giải quyết
một số tranh chấp liên quan đến phân định vùng biển chồng lấn với các nước
láng giềng. Tuy nhiên các tranh chấp trên biển mà ta đang và sẽ phải giải
quyết hết sức đa dạng. Như vậy, Việt Nam cần có sự chuẩn bị để tránh bị tác
động khi các nước có liên quan chủ động hoặc đề xuất việc sử dụng cơ quan

tài phán là TALB.
Với tình hình tranh chấp Biển Đông diễn ra ngày càng căng thẳng hiện
nay thì việc chuẩn bị mọi phương thức giải quyết tranh chấp đối với những
nước có lợi ích gắn liền với Biển Đông là điều hết sức cần thiết. Đối với Việt
Nam, chủ quyền thiêng liêng của đất nước là bất khả xâm phạm, và lòng tự
tôn dân tộc. Con người Việt Nam đang ra sức bảo vệ phần lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc, và đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện
nay. Vì thế việc nghiên cứu phương thức giải quyết tranh chấp trên biển bằng
Tòa án quốc tế về Luật biển – một trong những cơ chế giải quyết tranh chấp
theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 là yêu cầu mang
tính cấp thiết đối với các Quốc gia ven biển trên thế giới nói chung và với
Việt Nam nói riêng. Đây chính là lý do để tác giả chọn vấn đề “Giải quyết
tranh chấp trên biển bằng Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS)” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Một số công trình nghiên cứu có liên quan:
- Tòa án quốc tế về luật biển (2006), Nhà xuất bản tư pháp; T.S.
Nguyễn Hồng Thao chủ biên.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước của Liên hợp quốc về
7


Luật biển năm 1982 – Luận văn thạc sỹ Luật học năm 2008, tác giả: Nguyễn
Mạnh Đông, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của Luật biển Việt Nam (2004), Nhà
xuất bản chính trị Quốc gia, Ban Biên giới – Bộ ngoại giao chủ biên.
Đây là những tài liệu hết sức quý giá, có giá trị lý luận và thực tiễn cao
trong việc nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên
chưa đi sâu nghiên cứu các vấn đề như Quy tắc tố tụng của TALB, Phân tích
các án lệ điển hình để thấy quan điểm giải quyết các vụ án của TALB. Theo

đó, tác giả rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình xét xử của TALB và
những chuẩn bị cho Việt Nam khi đệ trình giải quyết tranh chấp lên TALB
3. Mục tiêu nghiên cứu
Xuất phát từ lý do nêu trên, mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đưa ra
bài học kinh nghiệm và những chuẩn bị cho Việt nam khi giải quyết các vấn
đề trên biển tại TALB.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định liên quan đến quy chế
của TALB, nội quy của TALB, thực tiễn các phán quyết và ý kiến tư vấn của
TALB, các tranh chấp trên biển của Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: Tổ chức, thẩm quyền, quy tắc
tố tụng, nội quy của TALB, một số phán quyết và ý kiến tư vấn của TALB,
các loại tranh chấp mà Việt Nam đã đang và sẽ phải giải quyết, bài học kinh
nghiệm và những chuẩn bị cho Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bên cạnh đó, luận văn còn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, so sánh, quy nạp, diễn dịch,
8


so sánh, tổng hợp, xã hội học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
Bổ sung những nghiên cứu gần đây nhất của các học giả liên quan đến
phương thức giải quyết tranh chấp trên biển bằng TALB.
Từ việc nghiên cứu một cách tổng quan về TALB, quy tắc tố tụng, thực
tiễn xét xử giải quyết tranh chấp tác giả đưa ra những bài học kinh nghiệm về
thực tiễn xét xử của TALB, theo đó đặt ra những vấn đề mà Việt nam cần
chuẩn bị khi giải quyết tranh chấp tại TALB.

7. Kết cấu của Luận văn
Chương 1: Tổng quan về giải quyết tranh chấp trên biển và Tòa án
Quốc tế về Luật biển
Chương 2: Thủ tục tố tụng, thực tiễn xét xử giải quyết tranh chấp
của Tòa án quốc tế về Luật biển và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chương 3: Những chuẩn bị cho Việt Nam khi giải quyết tranh chấp
trên biển bằng Tòa án Quốc tế về Luật biển

9


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN VÀ
TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN
1.1. Giải quyết tranh chấp trên biển
1.1.1. Khái niệm tranh chấp trên biển
Xuất phát từ những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc
phòng mà biển và đại dương đã đang và sẽ mang lại cho các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là các quốc gia có biển. Chính vì vậy, từ trước đến nay trên thế
giới đã xảy ra rất nhiều tranh chấp giữa các quốc gia đối với các vùng biển
thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia
So với tranh chấp quốc tế nói chung, tranh chấp quốc tế về biển có
những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, về chủ thể của tranh chấp quốc tế về biển. Cũng như chủ thể
của Luật quốc tế nói chung, chủ thể của tranh chấp về biển chính là các chủ
thể của Luật quốc tế, trước tiên và chủ yếu là các quốc gia. Bên cạnh đó, tranh
chấp quốc tế về biển cũng có thể xảy ra giữa các chủ thể không phải là quốc
gia được CƯLB 1982 trù định, đó là: các tổ chức quốc tế theo Khoản 1 điều
157 CƯLB 1982 là “… tổ chức mà qua nó, các quốc gia thành viên tổ chức
và kiểm soát các hoạt động tiến hành trong Vùng”

Hai là, phạm vi của nội dung tranh chấp quốc tế về biên có nội dung
phạm vi hẹp hơn so với tranh chấp quốc tế.
Ba là, khách thể của tranh chấp quốc tế về biển là chủ quyền, quyền
chủ quyền quốc gia đối với các vùng biển cũng như các quyền liên quan đến
quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền
chủ quyền quốc gia
Như vậy, tranh chấp quốc tế về biển là những bất đồng, xung đột giữa
các chủ thể luật quốc tế, trong quá trình xác lập và phân định chủ quyền,
10


quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đối với các vùng biển theo
quy định của Luật biển quốc tế.
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982
Sau 9 năm đàm phán và hơn 4 năm chuẩn bị, ngày 10/12/1982 Công
ước Luật biển 1982 đã được thông qua và mở cho các quốc gia ký tại
Montego Bay, Jamaica, đánh dấu thành công của cả cộng đồng quốc tế trong
việc xây dựng nên một Công ước mới và được cộng đồng quốc tế cùng chấp
nhận. [4. tr29]
Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và
9 Phụ lục, CƯLB 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng
quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và
đại dương, bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. CƯLB 1982 quả
thực đã thiết lập một trật tự pháp lý quốc tế về biển và đại dương thông qua
việc không chỉ pháp điển hóa các quy phạm đã tồn tại trước đó mà Công ước
Luật biển 1982 còn chứa đựng nhiều các quy định mới, rõ ràng và cụ thể hơn.
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong CƯLB 1982 đã được xây dựng trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó nổi bật nhất là
nguyên tắc các bên tranh chấp có khả năng tự do lựa chọn bất kỳ thủ tục giải

quyết tranh chấp nào mà họ mong muốn. Điều này thể hiện ở chỗ xuyên suốt
các quy định về việc giải quyết tranh chấp trong CƯLB 1982, thỏa thuận giữa
các quốc gia về việc giải quyết tranh chấp luôn được ưu tiên áp dụng so với
các biện pháp giải quyết tranh chấp khác.
Các điều khoản liên quan về nghĩa vụ chung giải quyết hòa bình trong
tranh chấp phát sinh từ việc giải thích hoặc áp dụng CƯLB 1982 được quy
định từ Điều 279 đến Điều 285 của Công ước. Theo đó, trước khi việc dẫn
đến thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính chất ràng buộc, theo quy định của
11


CƯLB 1982, các quốc gia thành viên Công ước có thể tuyên bố lựa chọn một
hoặc nhiều thủ tục giải quyết bắt buộc được ghi nhận trong Điều 287 để giải
quyết các tranh chấp nảy sinh từ việc giải thích hoặc áp dụng CƯLB 1982
Yếu tố quan trọng nhất về giải quyết tranh chấp trong CƯLB 1982 là
các điều khoản quy định các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc.
Các quốc gia có thể chọn một hoặc nhiều biện pháp về thủ tục giải quyết bắt
buộc như TALB, Toà trọng tài đặc biệt dành cho các tranh chấp về lĩnh vực
nghề cá, bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển hoặc
về hàng hải,v.v… [23].
Các bên có thể lựa chọn bất cứ phương pháp hòa bình nào để giải quyết
tranh chấp trên. Trong trường hợp các bên không đạt được giải quyết tranh
chấp bằng phương pháp hòa bình đã lựa chọn thì họ phải tuân theo thủ tục bắt
buộc được quy định trong Phần XV của Công ước. Trước hết các bên phải áp
dụng thủ tục hòa giải bắt buộc. Trường hợp vẫn không giải quyết được và
theo yêu cầu của một bên, các bên có thể áp dụng thủ tục tài phán bắt buộc
dẫn tới các quyết định bắt buộc. Điều 287 CƯLB 1982 quy định việc lựa
chọn một hay nhiều biện pháp bắt buộc sau: Tòa án quốc tế về luật biển được
thành lập theo Phụ lục VI, Tòa án công lý quốc tế, Tòa trọng tài được thành
lập theo Phụ lục VII, Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII.

Nhiều nhà đàm phán tại Hội nghị Luật biển lần thứ III đã nghĩ rằng cơ chế
giải quyết tranh chấp bắt buộc trong Công ước có thể giúp gắn kết các thỏa
hiệp đã được quy định trong CƯLB 1982 [16].
Các thủ tục bắt buộc dẫn đến các quyết định bắt buộc quy định trong
Mục 2 của phần XV, từ Điều 286 đến Điều 296 của CƯLB 1982 thực sự là
đặc trưng cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong Công ước Luật biển
1982. Theo quy định tại mục này, tranh chấp liên quan đến việc giải thích
hoặc áp dụng CƯLB 1982 sẽ được giải quyết theo thủ tục bắt buộc đưa đến
12


những quyết định mang tính chất ràng buộc, trong trường hợp những tranh
chấp này không thuộc phạm vi của Mục 3 (giới hạn của việc áp dụng và ngoại
lệ) và khi các bên không đạt được giải pháp cho tranh chấp khi đã sử dụng các
biện pháp giải quyết tranh chấp truyền thống dựa trên cơ sở đồng thuận được
nêu tại Mục 1. Đối với việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục bắt buộc, các
Quốc gia thành viên CƯLB 1982 có 2 hình thức Tòa án và hai hình thức Tòa
trọng tài để lựa chọn. Nếu trong trường hợp có sự lựa chọn khác nhau hoặc
không lựa chọn thì hình thức Tòa Trọng tài sẽ được sử dụng. Việc đa dạng
các hình thức giải quyết tranh chấp bắt buộc là một trong những thỏa hiệp đạt
được tại Hội nghị Luật biển lần thứ 3 để các bên có thể đạt được sự đồng
thuận về việc xây dựng một hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc bằng bên
thứ 3.
Trong trường hợp các quốc gia thành viên không tiến hành lựa chọn
hoặc không cùng lựa chọn thủ tục thì họ có nghĩa vụ đưa tranh chấp của mình
ra xét xử theo thủ tục Trọng tài. Bất cứ thời điểm nào (ký, phê chuẩn hoặc
tham gia CƯLB 1982 hoặc bất cứ thời điểm nào sau đó), các Quốc gia có thể
ra tuyên bố chấp nhận trước quyền tài phán của một hoặc nhiều thể chế xét xử
nêu trên trong việc giải quyết các tranh chấp của mình liên quan đến việc giải
thích và áp dụng Công ước. Các quốc gia cũng có quyền hủy, thay đổi, tuyên

bố về việc lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp của mình theo những điều
kiện được quy định tại Điều 287 của Công ước. Tuyên bố này được gửi tới
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để lưu chiểu và Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ
thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên khác về vấn đề này cũng như
tuyên bố này sẽ được đăng tại tại website chính thức của Vụ các vấn đề Biển
và Đại dương của Liên hợp quốc.
Nếu như Điều 287 quy định các thể chế có quyền giải quyết các tranh
chấp liên quan đến CƯLB 1982 theo thủ tục bắt buộc thì Điều 288 quy định
13


phạm vi quyền tài phán của các thiết chế này (quyền tài phán đối với các vấn
đề nội dung). Quyền tài phán của các thiết chế xét xử trong Công ước được
mở rộng đối với cả các tranh chấp nằm ngoài khuôn khổ song có liên quan
đến mục đích của CƯLB 1982. Nó cho phép các bên tranh chấp đệ trình cả
các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng một điều ước quốc tế
liên quan đến mục đích của CƯLB 1982 với điều kiện là việc đệ trình tranh
chấp này ra giải quyết theo thủ tục bắt buộc phải tuân thủ các quy định của
điều ước đó. Ngoài ra trong phần này, CƯLB 1982 cũng quy định TALB có
thẩm quyền tài phán bắt buộc với các bên trong một số trường hợp cụ thể liên
quan đến việc phóng thích ngay tàu và thủy thủ đoàn sau khi đã nộp một
khoản tiền bảo lãnh và việc quy định các biện pháp tạm thời.
* Giới hạn và ngoại lệ đối với việc áp dụng thủ tục bắt buộc đưa đến
các quyết định mang tính ràng buộc
CƯLB 1982 được xây dựng dựa trên cơ sở nguyên tắc cân bằng hai
khuynh hướng cơ bản là tự do biển cả và quyền của quốc gia ven biển. Các
khuynh hướng này ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung thực chất của Luật biển,
trong đó có cả vấn đề giải quyết tranh chấp. Để các quốc gia tham dự Hội
nghị Luật biển lần thứ III có thể ủng hộ và chấp nhận cơ chế giải quyết tranh
chấp theo thủ tục bắt buộc trong điều kiện CƯLB 1982 không cho phép các

quốc gia có quyền bảo lưu bất cứ điều khoản nào thì việc thừa nhận giới hạn,
ngoại lệ cũng như cho phép các quốc gia có quyền loại bỏ việc áp dụng cơ
chế giải quyết tranh chấp theo thủ tục bắt buộc trong một số trường hợp là hết
sức cần thiết, bảo đảm sự cân bằng quyền và lợi ích của các quốc gia [4. tr 47]
Tại Mục 2 – Phần XV CƯLB 1982 cho phép quốc gia thành viên đơn
phương đưa tranh chấp ra giải quyết tại một trong bốn thể chế chế giải quyết
tranh chấp được nêu thì Mục 3 được xây dựng trên cơ sở là một số loại tranh
chấp nhất định sẽ không phải là đối tượng điều chỉnh của cơ chế giải quyết
14


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tranh chấp bắt buộc. Bản chất của những quy định này là hạn chế quốc gia
thành viên sử dụng và áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc trong
CƯLB 1982 trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Theo quy định tại
mục 3 phần XV của CƯLB 1982, có hai hình thức miễn trừ việc áp dụng
quyền tài phán bắt buộc, đó là miền trừ đương nhiên và ngoại lệ.
Theo Điều 297 CƯLB, một số loại tranh chấp nhất định đương nhiên
được loại bỏ khỏi thủ tục bắt buộc, chúng bao gồm: tranh chấp liên quan đến
việc giải thích hoặc áp dụng Công ước trong việc nghiên cứu khoa học biển
theo các Điều 246 và 253, tranh chấp liên quan đến quyền quản lý của quốc
gia ven biển đối với tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế từ Điều
61 – 72 của Công ước. Như vậy, điều này có nghĩa rằng, liên quan đến các

tranh chấp này, các quốc gia thành viên không bị ràng buộc bởi thủ tục mang
tính chất bắt buộc.
Theo Điều 298 CƯLB, nếu một quốc gia thành viên CƯLB 1982 tuyên
bố vào bất cứ thời điểm nào rằng họ không chấp thuận một trong các thủ tục
giải quyết tranh chấp mang tính chất bắt buộc liên quan đến một số loại tranh
chấp nhất định, các bên tranh chấp khác không thể sử dụng thủ tục mang tính
chất bắt buộc để chống lại các quốc gia thành viên này khi có phát sinh các
tranh chấp đó. Những loại tranh chấp mà các quốc gia có thể tuyên bố không
thuộc đối tượng điều chỉnh của việc giải quyết tranh chấp bắt buộc bao gồm:
- Các tranh chấp liên quan đến việc phân định các vùng biển theo Điều
15, 74, 83 của CƯLB 1982 hoặc các vụ tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa
lịch sử;
- Các tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động
quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của nhà nước được sử dụng cho
một dịch vụ không có tính chất thương mại;
- Tranh chấp liên quan đến các hành động bảo đảm thi hành luật pháp
trong việc thực thi các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia về
15


quản lý tài nguyên sinh vật, nghiên cứu khoa học và khoản 2, 3 của Điều 297
đã loại trừ khỏa thẩm quyền của một Tòa án;
- Các tranh chấp mà Hội đồng Bảo an LHQ giải quyết theo thẩm quyền
của mình và được ghi nhận trong Hiến chương LHQ.
Tuyên bố về việc không chấp nhận một hoặc nhiều thủ tục giải quyết
tranh chấp bắt buộc có thể được các quốc gia thành viên CƯLB 1982 đưa ra
vào bất cứ thời điềm nào song phải dưới hình thức bằng văn bản và được gửi
tới Tổng thư ký LHQ. Các quốc gia cũng có quyền đưa ra một tuyên bố mới
hoặc rút lại tuyên bố về vấn đề này theo các thủ tục quy định tại Điều 298 của
CƯLB 1982 . Cũng như Tuyên bố lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp bắt

buộc, tuyên bố không chấp nhận thủ tục cũng được đăng tải tại website chính
thức của Vụ các vấn đề Biển và Đại dương của LHQ.
Tóm lại, cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế CƯLB 1982 là một bước
phát triển mới trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Cơ chế giải quyết
tranh chấp trong CƯLB 1982 được thừa nhận là một trong những bước phát
triển quan trọng nhất trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế kể từ khi thông
qua Hiến chương LHQ và quy chế TAQT [12]. Theo đó, mọi tranh chấp liên
quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước đều sẽ được giải quyết phù hợp
với luật pháp và công lý quốc tế thông qua thủ tục bắt buộc bằng bên thứ 3.
Mặt khác trong một chừng mực nhất định, các quốc gia thành viên vẫn duy trì
và đảm bảo được quyền kiểm soát và quyền quyết định đối với việc giải quyết
một số tranh chấp nhạy cảm có liên quan đến các đặc quyền của quốc gia ven
biển hoặc những tranh chấp ảnh hưởng tới lợi ích của quốc gia ven biển như
tranh chấp về việc phân định các vùng biển.
1.2. Khái niệm Tòa án Quốc tế về Luật biển
1.2.1. Lịch sử hình thành và địa vị pháp lý của Tòa án Quốc tế về Luật biển
* Lịch sử hình thành
Trong Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển đã xuất hiện
16


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

ý tưởng về việc thiết lập một cơ quan xét xử mới, chuyên giải quyết các tranh

chấp liên quan đến biển và đại dương hình thành ngay từ đầu của quá trình
đàm phán xây dựng Công ước Luật biển 1982. Nhiều nước tham gia Hội nghị
luật biển lần thứ III cho rằng cần phải thành lập một Tòa án mới với các thẩm
phán là những người am hiểu thực sự về sự phát triển của các nguyên tắc, quy
định mới được ghi nhận trong CƯLB 1982.
Một số lý do hình thành ý tưởng thiết lập một TALB
Hoạt động của TAQT trong những năm 70 chưa giành được lòng tin
của các nước trên thế giới, nhất là sau các vụ Tây Nam Phi năm 1962 và
1966, Bắc Cameroon năm 1963. Các nước này ủng hộ việc thành lập Tòa án
riêng về luật biển với thành phần mở rộng hơn, trong đó họ có thể kiểm soát
một cách hiệu quả hơn quyền lợi của mình. Khác với TAQT, TALB sẽ phải
có nhiều đại diện của hệ thống luật pháp các nước đang phát triển và các nước
xã hội chủ nghĩa. Các nước kém phát triển hơn sẽ có cơ hội để đảm bảo tiếng
nói của mình tại Tòa án. [9. tr 16]
Thủ tục phức tạp mất nhiều thời gian và chi phí của TAQT cũng là một
lý do để thành lập TALB. Vụ Barce Traction, Tòa án đã mất tới 11 năm để
giải quyết trong đó có 8 năm để đưa ra phán quyết đầu tiên không chấp nhận
đơn khởi kiện. Mặc dù đã có cải tiến nhưng trung bình phải mất 3 – 5 năm
TAQT mới giải quyết được một vụ xét xử. TALB sẽ phải có những quy định
về thủ tục rút gọn để đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp trên biển
nhanh, gọn, ít ảnh hưởng đến kinh tế.
TAQT chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia.
Trong khi đó, hoạt động trên biển dẫn tới nhiều loại tranh chấp không chỉ
giữa các quốc gia mà còn giữa các pháp nhân, thể nhân, tổ chức quốc tế với
nhau. Tòa án quốc tế về luật biển cần có thẩm quyền giải quyết tất cả các loại
tranh chấp này.
17


Thẩm quyền xét xử của TAQT nhiều khi không được thực hiện do các

quốc gia tranh chấp không có thỏa thuận. Để tránh trường hợp này cần phải có
một thủ tục hòa giải và thủ tục bắt buộc sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế.
Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển đã quyết định
thành lập TALB. Quy chế của Tòa án là Phụ lục CƯLB 1982 nhưng Tòa án là
một thiết chế độc lập với các cơ quan khác do Công ước lập ra như Cơ quan
quyền lực đáy đại dương và Uỷ ban ranh giới thềm lục địa. Tòa án có ngân
sách và thư ký riêng. Tòa án được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ cần thiết
cho việc thực hiện các chức năng của mình.
TALB có trụ sở chính đặt tại thành phố Hambourg – Cộng hòa Liên
bang Đức bao gồm 21 thành viên độc lập, được tuyển chọn trong số các nhân
vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực rõ ràng trong lĩnh
vực Luật biển.
* Địa vị pháp lý
TALB là thiết chế tài phán quốc tế, một cơ quan tư pháp độc lập, được
thành lập để thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực Luật Biển bằng trình tự, thủ tục tư pháp, phù hợp với quy định của Công
ước Luật biển 1982 và Quy chế Tòa án. TALB là một trong số cơ quan tài
phán có chức năng giải quyết những loại tranh chấp nhất định thuộc lĩnh vực
Luật biển. [1, tr 18]
Cũng như những Tòa án khác trong hệ thống pháp luật quốc tế, thông
qua các hoạt động chức năng TALB là một trong những cơ quan giải quyết
tranh chấp liên quan đến biển, có vai trò quan trọng trong lĩnh vực xây dựng
và thực thi Luật biển quốc tế nói riêng và luật quốc tế nói chung. Ngoài chức
năng giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực Luật biển,
Tòa còn có những đóng góp quan trọng cho việc phát triển hiện đại Luật
biển quốc tế.
18


Ket-noi.com

Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Xét theo nguyên lý chung về tổ chức và hoạt động của Tòa án, TALB
có sự kế thừa những Tòa án quốc tế đã và đang tồn tại trong hệ thống pháp
luật quốc tế, điển hình là TAQT - được thành lập trong khuôn khổ Hiến
chương Liên hợp quốc. Một số vấn đề pháp lý có sự kế thừa như: tính độc lập
trong hoạt động xét xử của các thẩm phán đối với quốc gia mà họ là công dân
để đảm bảo sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ việc, cơ cấu thành
phần thẩm phán dựa trên yếu tố vị trí địa lý để đảm bảo sự bình đẳng giữa các
nước thành viên trong việc tham gia vào các hoạt động của Tòa, các tiêu chí
liên quan đến đạo đức, trình độ, năng lực của người được đề cử và bầu vào
chức danh thẩm phán.
1.2.2. Tổ chức của TALB
Để thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
Luật biển, TALB có thành phần gồm 21 thẩm phán chuyên trách. Thành phần
của Tòa phải đảm bảo cho sự đại diện của các hệ thống pháp lý chủ yếu trên
thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt địa lý. Đồng thời, Công ước
còn quy định Tòa án không thể có quá một thẩm phán mang quốc tịch của
một quốc gia. Quy định này giống với quy định về thành phần thẩm phán của
Tòa án công lý quốc tế, cũng không được có hai Thẩm phán có cùng quốc
tịch. Các Chánh án và Phó Chánh án có nhiệm kỳ 3 năm tính từ ngày bắt đầu
nhiệm kỳ mới. Ngày bắt đầu nhiệm kỳ của Chánh án và Phó Chánh án là
ngày họ được bầu.
Ban thư ký của Tòa án là một cơ quan hành chính thường trực của Tòa
án. Đây là cơ quan liên lạc giữa Tòa án với các quốc gia thành viên và các

bên khác. Đồng thời, hoạt động của Ban thư ký lại mang tính tư pháp và ngoại
giao, đảm nhận các hoạt động hành chính, tài chính, tổ chức các cuộc hội
thảo, hội nghị và thông báo, trao đổi tin tức với các cơ quan, tổ chức khác.

19


TALB còn lập ra các Viện để giải quyết tranh chấp đặc biệt như: Viện giải
quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển, Viện rút gọn trình tự tố tụng,
Viện đặc biệt. Trong đó có 2 Viện đặc biệt thường trực với thành phần lấy từ
các thành viên của Tòa án: Viện giải quyết các tranh chấp về môi trường biển
và Viện giải quyết các tranh chấp về đánh cá.
1.2.3. Phương thức xác lập thẩm quyền
Điều 20: Quy chế của TALB quy định
“1. Tòa án được để ngỏ cho các quốc gia thành viên
2. Tòa án được để ngỏ cho các thực thể không phải là quốc gia thành
viên trong tất cả các trường hợp đã được quy định rõ trong phần XI hay cho
mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thỏa thuận khác, giao cho Tòa án một
thẩm quyền được tất cả các bên trong vụ tranh chấp chấp nhận.
Như vậy, các bên được quyền đưa tranh chấp ra trước Tòa án bao gồm:
Các quốc gia thành viên, các quốc gia không thành viên, các thể nhân, pháp
nhân, tổ chức quốc tế.
Điều 21: Quy chế của TALB quy định
“Thẩm quyền
Tòa án có thẩm quyền đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất cả các yêu
cầu được đưa ra Tòa án theo đúng Công ước và đối với tất cả các trường hợp
được trù định rõ trong mọi thỏa thuận khác, giao thẩm quyền cho Tòa án”
Có thể thấy, các phương thức xác lập thẩm quyền của TALB như sau:
a) Thẩm quyền của TALB trong các tuyên bố đơn phương
Căn cứ tại Điều 287 CƯLB 1982 thì:

“ Khi ký hay phê chuẩn Công ước, hoặc tham gia Công ước hoặc ở bất
kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức
tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước:
20


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

- Tòa án Quốc tế về Luật biển
- Tòa án Công lý Quốc tế
- Một tòa Trong tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước
- Một Tòa Trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để
giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hoặc
áp dụng Công ước.
Như vậy, theo cơ chế này khi tranh chấp xảy ra giữa hai quốc gia thành
viên đều có tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của TALB thì
một bên có quyền đơn phương đưa đơn kiện về vụ việc này ra trước Tòa án.
Bên cạnh đó, nếu các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để
giải quyết tranh chấp thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết
theo thủ tục Trọng tài đã được trù định tại Phụ lục VII, trừ khi các bên có thỏa
thuận khác.
Có thể hiểu rằng, quyền tự do lựa chọn cũng có thể có tình huống
không lựa chọn một biện pháp nào. Khi đó, theo Khoản 3 Điều này, một Quốc

gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố
còn hiệu lực bảo vệ thì xem là đã chấp nhận thủ tục Trọng tài trù định ở Phụ
lục VIII. Ngược lại, quyền tự do lựa chọn cũng dẫn tới tình huống một quốc
gia có thể tuyên bố chấp nhận một thủ tục duy nhất hoặc nhiều thủ tục cùng
một lúc.
Theo cơ chế này, khi tranh chấp xảy ra giữa hai quốc gia thành viên
đều có tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án thì một
bên có quyền đơn phương đưa vụ kiện về vụ việc này ra trước Tòa án. Trong
đơn cần phải trình bày rõ vụ việc, lập luận các bên và yêu cầu Tòa xét xử nội
dung gì. Trong thực tiễn hoạt động của Tòa án quốc tế về Luật biển, tại các vụ
Cá ngừ vây xanh năm 1999 (Australia/ Nhật Bản; NewZeland/ Nhật Bản ), vụ
Nhà máy năng lượng hạt nhân Mox năm 2001 (Ireland/Anh), các bên đã chọn
21


các Tòa Trọng tài được thành lập dựa trên Phụ lục VII của Công ước Luật
biển và chỉ yêu cầu Tòa án quốc tế về luật biển đưa ra các biện pháp tạm thời
(bảo đảm) trong khi chờ thành lập Tòa trọng tài này.
Các tranh chấp liên quan đến đáy biển giữa các quốc gia thành viên đều
có thể được đưa ra trước:
Một Viện đặc biệt của TALB được lập ra theo quy định tại Điều 15 và
Điều 17 Phụ lục VI CƯLB 1982, theo yêu cầu của các bên tranh chấp;
Một Tòa ad hoc của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy
biển được lập ra như quy định tại Điều 36 Phụ lục VI CƯLB 1982, theo yêu
cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào.
b) Thẩm quyền của TALB trong các Điều ước Quốc tế, các thỏa
thuận
Khoản 2 Điều 288 của CƯLB 1982:
“ Một Tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh
chấp nào liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng một Điều ước quốc tế có

liên quan đến các mục đích của Công ước và đã được đưa ra cho Tòa án theo
đúng quy định của Điều ước này”
Điều 22 – Quy chế Tòa án Quốc tế về Luật biển:
“Nếu được sự thỏa thuận của tất cả các bên trong một hiệp ước hay
công ước đã có hiệu lực liên quan đến một vấn đề do Công ước đề cập, thì
bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích, áp dụng hiệp ước hoặc
công ước đó có thể được đưa ra Tòa án theo đúng như điều đã thỏa thuận”
Thẩm quyền của Tòa án còn được xác lập hoặc thông qua các điều
khoản đặc biệt trong các Điều ước quốc tế. Thông thường, trong các Điều
ước, Hiệp ước quốc tế đa phương hoặc song phương có những điều khoản đặc
biệt trù bị cho khả năng tranh tranh chấp xảy ra, các bên thống nhất sẽ đưa
tranh chấp ra trước TALB. Khi tranh chấp xảy ra các bên có thể đơn phương
22


×