LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi nền kinh tế nước ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền kinh tế
thị trường, thì cạnh tranh và năng lực cạnh tranh đã được các doanh nghiệp
coi như một mục tiêu quan trọng để có thể tồn tại và phát triển.
Trong điều kiện hiện nay, một bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế và một môi trường cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt hơn, thì
vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp càng
trở nên quan trọng, trở thành mục tiêu sống còn để duy trì thị phần và mở
rộng thị trường tiêu thụ.
Không nằm ngoài quy luật đó, công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà cũng là
một trong những công ty nằm trong lĩnh vực, ngành hàng chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ hội nhập. Chuyên sản xuất kinh doanh các loại bánh kẹo, Hải Hà từ lâu
đã được người tiêu dùng biết đến như một nhãn hiệu bánh kẹo hàng đầu.
Trong những năm qua, Công ty đã biết chăm lo phát huy các nhân tố nội lực
để vượt qua các thử thách của thời kỳ chuyển đổi, phát triển sản xuất kinh
doanh ngày càng có hiệu quả. Với mục tiêu trở thành một trong những doanh
nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất tại Việt Nam.
Vậy làm thế nào để có thể tiếp tục giữ vững thị phần của mình? Biện
pháp nào giúp Hải Hà có thể cạnh tranh với các đối thủ khác? Muốn làm đựơc
như vậy, công ty cần có những chính sách nhất định trong việc hoạch định các
chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.
Trên cơ sở phân tích các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh của
công ty em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản
phẩm bánh kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà trên thị trường
Việt Nam” sẽ đề xuất một số biện pháp, chiến lược nhằm giải quyết vấn đề
này.
Trong quá trình tìm hiểu và phân tích thông tin, bài đề án có thể còn chưa
được chính xác và đầy đủ, rất mong sự hướng dẫn và góp ý của giáo viên
hướng dẫn Th.S Đinh Lê Hải Hà.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của
sản phẩm bánh kẹo
1.1 Khái quát về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học giả
trường phái tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi
phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa
hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so
với khả năng của mình”.
Qua thời gian và không gian, các quan niệm về cạnh tranh cũng khác
nhau. Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được
xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách
hàng về phía mình”.
Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh”, một số nhà khoa học cho rằng,
cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa – dịch vụ và đó là
phương thức để giành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi
là giành lợi thế để hạ thấp các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh
doanh và nâng cao giá trị của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất.
Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các
nguồn lực một cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ
thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích lũy và tập trung tư bản
không đồng đều ở các doanh nghiệp. Và từ đó, cạnh tranh còn là môi trường
3
phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện
thị trường.
1.1.2 Phân loại
Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, tuy nhiên, một số cách phân loại
cơ bản đó là:
- Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia thành 2 loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa, dịch vụ. Trong đó, các doanh nghiệp
yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá sản, các doanh
nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh
tranh tất yếu xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của
doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm
mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu
hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi
nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn tới sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Xét theo mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở
đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách,
chủng loại, mẫu mã. Giá cả sản phẩm là do cung – cầu trên thị trường quyết
định. Các doanh nghiệp được tự do gia nhập, rút lui khỏi thị trường. Do đó,
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh
muốn thu được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào,
cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu
4
của người tiêu dùng.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại
thị trường phổ biến nhất hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này
kinh doanh những loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa các
loại hang hóa, dịch vụ này ở nhãn hiệu. Có những loại hang hóa, dịch vụ chất
lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín,
nhãn hiệu sản phẩm. Các hình thức của cạnh tranh không hoàn hảo đó là độc
quyền, độc quyền tập đoàn, cạnh tranh mang tính độc quyền.
1.1.3 Vai trò cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng, nó
được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung.
- Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của cạnh
tranh đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
+ Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xóa bỏ những độc quyền,
bất hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
+ Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân
công lao động xã hội ngày càng sâu sắc.
+ Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu
mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống và phát triển nền kinh tế.
5
+ Cạnh tranh làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh
nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
+ Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị
trường, rút ra được những bài học thực tiễn, bổ sung vào lý luận kinh tế thị
trường của nước ta.
- Đối với doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh có những vai trò sau:
+ Cạnh tranh được coi như là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những
doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh
tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh
nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng
cao hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dung.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật
mới vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao
trình độ tay nghề của công nhân… từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng
phát triển hơn.
- Đối với người tiêu dùng:
Có cạnh tranh, hàng hóa sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã
ngày càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu
dùng trong xã hội. Vì vậy, đối với người tiêu dùng, cạnh tranh có các vai trò
sau:
+ Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản
6
phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình.
+ Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hóa ngày càng được nâng cao, thỏa
mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được
quan tâm nhiều hơn.
Bên cạnh những tác dụng tích cực, cạnh tranh cũng làm xuất hiện những
hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế… gây nên sự bất ổn
trên thị trường, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước và của người tiêu dùng.
Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh
tranh không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, doanh nghiệp mà là nhiệm vụ
chung của toàn bộ cá nhân.
1.2 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh, khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị
phần của đồng nghiệp (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển
Bách Khoa Hà Nội, trang 349)
Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: Năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
của sản phẩm hàng hóa. Chúng có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ
thuộc lẫn nhau.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế
7
giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các
nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các
nguồn lực hiện có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực
vật chất, nguồn lực tài chính tổ chức, kinh nghiệm.
Nguồn nhân lực
Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển
thành công của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
Với một đội ngũ nhân lực tốt sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh
nghiệp lên một cách nhanh chóng. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao,
ưu việt hơn với giá thành thấp nhất, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa
doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó nguồn nhân
lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ, sự đồng bộ này không chỉ xuất phát
từ thực tế đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ năng
lực tổng hợp riêng thu được từ việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất,
tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố
quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nguồn lực vất chất
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ
tiên tiến phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao
năng lực sản xuất, làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một
8
cơ sở vật chất tốt , chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với
việc hạ giá thành sản phẩm kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả
năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại
không một doanh nghiệp nào lại có khả năng cạnh tranh cao khi mà công
nghệ sản xuất lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm giảm chất lượng sản
phẩm, tăng chi phí sản xuất.
Nguồn lực tài chính
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng
sản xuất cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay
phân phối, quảng cáo cho sản phẩm... đều phải được tính toán dựa trên thực
trạng tài chính của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại. Bởi vì bất cứ
một hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa
trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn
là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự
có và các nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính được coi là
phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ cạnh
tranh . Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các
đối thủ hùng mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
Tổ chức
Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chức định hướng cho phần lớn
các công việc trong doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị,
quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ
cấu nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực
hiện chiến lược hoặc thúc đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng
động sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có
cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các
9
doanh nghiệp khác.
Kinh nghiệm
Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính
xác nhu cầu trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ
động trong việc sản xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho quá nhiều
sản phẩm tiết kiệm được nhiều chi phí khác.
Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt
động thành công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác
của doanh nghiệp có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào
kinh nghiệm của người lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ
phận.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa
Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những
sản phẩm cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại
được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng
lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao khi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là 2 phạm trù khác nhau nhưng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa có được do năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra, nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hóa quyết định mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của hàng
hóa có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo
10
Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản
xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hóa và chịu tác động của nhiều yếu tố:
công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động,
trình độ quản lý… Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp ứng
các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng. Nâng cao chất lượng thì phải giải quyết được cả hai vấn đề trên.
Xuất phát từ quan điểm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, khi đời
sống của con người ngày càng cao thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm trở
thành vấn đề cấp bách đối với mỗi hàng hóa muốn xâm nhập sâu, rộng vào thị
trường, đặc biệt là những thị trường mang tính quốc tế. Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ được ký kết tháng 7 năm 2000 đã mở ra những cơ hội lớn cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Song để xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, các sản phẩm
của ta phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về công nghệ, hàm lượng
dinh dưỡng, an toàn vệ sinh, cũng như về bao gói, bảo quản…
Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về
chất lượng đã xuất hiện: chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó
còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ
quan, còn đánh giá của khách hàng mang tính khách quan. Ở đây, nhân tố
khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Quan niệm này xuất phát
từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt
hơn.
Giá bán sản phẩm
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thị phần của
doanh nghiệp và khả năng sinh lời của nó. Đồng thời, giá cả còn là công cụ
linh hoạt nhất, mềm dẻo nhất trong cạnh tranh.
11
Giá cả sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua thỏa thuận
giữa người bán và người mua. Nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định
mua hay không mua của khách hang. Trong nền kinh tế thị trường, “khách
hàng là thượng đế” họ có quyền lực chọn những gì mà họ cho là tốt nhất, và
cùng một loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ
lựa chọn mức giá bán thấp hơn.
Mặc dù vậy, khi thu nhập của đại bộ phận dân cư đều tăng, khoa học kỹ
thuật phát triển thì việc định giá thấp chưa hẳn là giải pháp hữu hiệu, đôi khi
còn bị đánh đồng với việc suy giảm chất lượng. Vì vậy, định giá thấp, định
giá ngang thị trường hay định giá cao, làm sao sử dụng giá cả như một vũ khí
cạnh tranh lợi hại là tùy thuộc vào từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong
chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
Bao bì, kiểu dáng sản phẩm:
Sản phẩm có bao bì, kiểu dáng được thiết kế đẹp, bắt mắt, phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng thì càng dễ nâng cao tính cạnh tranh. Hơn nữa, ở những
thành phố lớn nhu cầu về sản phẩm thường dùng làm quà biếu, lễ, tết… Vì
vậy vấn đề chất lượng, bao bì mẫu mã lại rất quan trọng, còn giá cả thì không
thành vấn đề nên nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn của
người tiêu dùng.
Nhãn mác, uy tín sản phẩm:
Cùng một loại sản phẩm, cùng chất lượng tương đương nhau nhưng người
tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những mặt hàng có tiếng trên thị trường để
tiêu dùng. Vì theo họ, độ tin cậy của các sản phẩm đó sẽ cao hơn. Ngoài ra,
một số thương hiệu sản phẩm còn thể hiện được phong cách, cá tính của
12
người tiêu dùng.
1.3 Khái quát về thị trường bánh kẹo Việt Nam
Trong xu thế toàn cầu hoá, các sản phẩm của Việt Nam đã và đang xuất
hiện ngày càng nhiều trên thị trường thế giới, trong đó có thực phẩm, bánh
kẹo. Theo nhận định của ông Perter Becker, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản
xuất bánh kẹo Cộng hoà Liên bang Đức, bánh mỳ, bánh nướng đang dần trở
thành những đồ ăn quen thuộc, thường xuyên của nhiều người dân Việt Nam.
Vì vậy, thị trường bánh kẹo của Việt Nam đang có tiềm năng phát triển hàng
đầu Đông Nam Á và trên thế giới.
Theo ước tính của Công ty Tổ chức và điều phối IBA (GHM), sản lượng
bánh kẹo tại Việt Nam năm 2008 đạt khoảng 476.000 tấn, đến năm 2012 sẽ
đạt khoảng 706.000 tấn, tổng giá trị bán lẻ bánh kẹo ở thị trường Việt Nam
năm 2008 khoảng 674 triệu USD, năm 2012 sẽ là 1.446 triệu USD. Tỉ lệ tăng
trưởng doanh số bán lẻ bánh kẹo ở thị trường Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 2008-2012 tính theo USD ước tính khoảng 114,71%/năm, trong khi con
số tương tự của các nước trong khu vực như Trung Quốc là 49,09%,
Philippines 52,35%; Indonesia 64,02%; Ấn Độ 59,64%; Thái Lan 37,3%;
Malaysia
17,13%…
Thị trường bánh kẹo Việt Nam phát triển kéo theo nhu cầu sản xuất, tiêu
thụ tăng, đòi hỏi phải có công nghệ, máy móc, thiết bị phù hợp để sản xuất ra
các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong và ngoài nước. Theo Hiệp hội các nhà sản xuất bánh kẹo Đức. Sẽ là rất
tốt nếu như có sự hợp tác liên kết, liên doanh phát triển sản xuất, kinh doanh
bánh kẹo giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp của Đức và châu
Âu.
Trước đây trên thị trường, bánh kẹo Việt Nam luôn là mặt hàng “lép vế”
so với các sản phẩm cùng loại vì mẫu mã đơn điệu, bao bì xấu và chất lượng
không cao. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn, bánh kẹo Việt Nam đã tăng tốc
13
và giành lại ưu thế trên sân nhà. Vượt qua những khó khăn về nguồn vốn,
công nghệ sản xuất và chiến lược kinh doanh, với thế mạnh về hương vị đậm
đà, phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng, những thương hiệu uy tín như:
Kinh Đô, Bibica, Hải Hà nối nhau ra đời, khẳng định đẳng cấp của mặt hàng
bánh kẹo Việt Nam so với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc và các
nước Âu, Mỹ.
Liên tục cho ra đời những sản phẩm mới chất lượng cao được sản xuất
với công nghệ hiện đại như: Cookies, Cracet, kẹo xốp mềm nhiều hương vị;
Hải Hà, Kinh Đô đã trở thành cái tên quen thuộc với mọi lứa tuổi, mọi gia
đình. Rất nhiều khách hàng trước đây chỉ chọn bánh kẹo ngoại để làm quà
biếu, tặng người thân vào dịp lễ, tết, giỗ thì nay đã quay lại với bánh kẹo Việt
Nam vì mẫu mã, bao bì đẹp, sang trọng không thua hàng ngoại nhưng giá cả
lại phù hợp với túi tiền và quan trọng nhất là niềm tự hào người Việt dùng
hàng Việt.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, bao bì, các doanh
nghiệp bánh kẹo còn mở rộng mạng lưới đại lý, cửa hàng bán lẻ khắp các
tính, thành, vào dịp lễ, tết sẽ có những chương trình khuyến mãi hấp dẫn. Áp
dụng chiến lược kinh doanh, sản xuất theo dây chuyền, công nghệ tiên tiến,
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, thiết kế mẫu mã bắt mắt, giá cả
phù hợp, ngành hàng bánh kẹo Việt Nam đang từng bước làm chủ thị trường
nội địa.
Việt Nam được đánh giá là một thị trường tiêu thụ hấp dẫn với dân số
hơn 80 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ với thu nhập bình quân đầu người tăng
nhanh, tỷ lệ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010 ước
tính đạt bình quân trên 8%. Trong khi đó, tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo theo bình
quân đầu người ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Ở thời điểm
hiện nay, dù đã được cải thiện nhưng tỷ lệ tiêu thụ bánh kẹo của Việt Nam
cũng mới chỉ ở vào khoảng 2 kg/người/năm. Chính những đặc điểm này đã
14
khiến thị trường bánh kẹo Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh
kẹo của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà
2.1 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Hà.
15
2.1.1 Giới thiệu chung về công ty
Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà được thành lập ngày 25/12/1960 đã trải qua quá trình phát
triển gần nửa thế kỷ, từ một xưởng làm nước chấm và ma-gi đã trở thành một trong những nhà
sản xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam với qui mô sản xuất lên tới 20.000 tấn sản phẩm/năm.
Các thành tích trong những năm vừa qua của Công ty đã được nhà nước đánh giá cao thông
qua việc được nhận huân chương Độc lập hạng Ba và các huân chương Lao động hạng Nhất, hạng
Nhì, hạng Ba.
Trong thời kỳ sau năm 2000 trở lại đây đứng trước những thách thức mới nảy sinh trong quá
trình hội nhập, Công ty đã chủ động đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến sản xuất ra những sản
phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như Kẹo chew, Bánh kem xốp, Bánh xốp có nhân Miniwaf, Bánh
dinh dưỡng dành cho học sinh theo chương trình hợp tác với tổ chức quốc tế Gret và Viện dinh
dưỡng Bộ Y tế, các sản phẩm bổ sung canxi, vitamin hợp tác sản xuất với hãng Tenamyd Canada.
Hiện nay Công ty là một trong số các Nhà sản xuất Bánh kẹo hàng đầu Việt Nam với sản lượng
bình quân hàng năm trên 15.000 tấn. Công ty đã áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO 9001:2000 và Hệ thống HACCP theo Tiêu chuẩn TCVN 5603:1998 và HACCP CODE:2003.
Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà là Doanh nghiệp đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất bánh kẹo
được cấp chứng nhận hệ thống "Phân tích mối nguy và các điểm kiểm soát tới hạn" (HACCP) tại
Việt Nam. Điều này thể hiện cam kết của Lãnh đạo doanh nghiệp về đảm bảo an toàn thực phẩm
đối với sức khoẻ của người tiêu dùng.
Cơ cấu tổ chức Công ty
Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà được tổ chức và hoạt động tuân thủ theo Luật Doanh nghiệp
2005. Các hoạt động của Công ty tuân theo Luật Doanh nghiệp, các Luật khác có liên quan và Điều
lệ Công ty. Điều lệ Công ty bản sửa đổi đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua ngày 24/03/2007
là cơ sở chi phối cho mọi hoạt động của Công ty.
Trụ sở, chi nhánh Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà
- Trụ sở chính: 25 Trương Định, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội
- Chi nhánh miền Nam: Lô 27, Đường Tân Tạo, Khu Công Nghiệp Tân Tạo, Quận Bình Tân, TP Hồ
Chí Minh
- Chi nhánh miền Trung: 134- Ðường Phan Thanh - Quận Thanh Khê, Đà Nẵng
- Các nhà máy, xí nghiệp sản xuất
16
Tình hình hoạt động:
HAIHACO có tốc độ tăng trưởng doanh số ổn định từ 10% đến
20%/năm. Tỷ lệ cổ tức năm 2008 là 15%. Với chiến lược phát triển trong thời gian tới, Công ty sẽ
nâng cao được năng lực sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc đầu tư các
dây chuyền thiết bị hiện đại và đồng bộ
2.1.2 Đặc điểm về lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm kinh doanh
- Sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước bao gồm các lĩnh vực bánh kẹo
và chế biến thực phẩm.
- Kinh doanh xuất nhập khẩu: các loại vật tư sản xuất, máy móc thiết bị, sản
phẩm chuyên ngành, hàng hoá tiêu dùng và các loại sản phẩm hàng hóa khác;
- Ðầu tư xây dựng, cho thuê văn phòng, nhà ở, trung tâm thương mại
- Kinh doanh các ngành nghề khác không bị cấm theo các quy định của pháp
luật.
Công ty hiện có các nhóm sản phẩm chính sau: - Bánh quy - Kẹo Chew Bánh kẹo hộp - Kẹo mềm - Bánh kem xốp - Kẹo jelly - Bánh Cracker - Bánh
trung thu - Kẹo cứng – Lollipop.
2.1.3 Đặc điểm về thị trường và khách hàng
a, Thị trường
Phạm vi địa lý:
+ Hiện nay Văn phòng Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà đặt tại 25-27 Trương Định - Hai Bà Trưng
- Hà Nội có diện tích 22.349 m2. Công ty được Nhà nước giao cho sử dụng khu đất này từ năm
1960 đến nay. Hiện tại Công ty trả tiền thuê đất hàng năm và đang làm thủ tục để cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng cho khu đất này.
+ Văn phòng Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đặt tại Lô 27, Đường Tân Tạo, Khu Công Nghiệp
Tân Tạo, Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh có diện tích là 2.565 m2, Khu đất này Công ty mua từ
năm 2004 và có giá trị sử dụng đất trong 46 năm.
17
+ Văn phòng Chi nhánh Miền Trung đặt tại 134A - Ðường Phan Thanh, Quận Thanh Khê, Đà Nẵng
có diện tích 110 m2 được Công ty mua từ năm 2002, hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
+ Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà I đặt tại 19 Phố Sông Thao, Phường Tiên Cát, Thành Phố Việt Trì, Tỉnh
Phú Thọ, có diện tích 29.985 m2. Công ty đang trả tiền thuê đất hàng năm và đã được Nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2004.
+ Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà II đặt tại Km số 3, Đường Thái Bình, Phường Hạ Long, Thành phố Nam
Định có diện tích 8833 m2. Công ty đang trả tiền thuê đất hàng năm và đã được Nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005.
+ Tại TP Hồ Chí Minh, Công ty đang sở hữu một căn nhà 4 tầng trên diện tích 80m2 tại địa chỉ
778/13 Đường Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận.
Sở hữu nhiều khu đất có giá trị cao, phân bố khắp cả nước giúp cho sản phẩm đến tay người
tiêu dùng dễ dàng, thuận tiện hơn.
Thị trường:
Mỗi đoạn thị trường đều có nhu cầu khác nhau về số lượng và chất lượng
sản phẩm. Vì vậy, mọi quyết định về chất lượng sản phẩm cho các khu vực
khác nhau là không giống nhau. Vì thực tế cho thấy thị hiếu, động cơ mua của
khách hàng đều có sự phụ thuộc chặt chẽ vào các điều kiện: Văn hóa, phong
tục tập quán, môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội… của từng vùng dân cư.
Thị trường miền Bắc, điều kiện tự nhiên ở đây đủ bốn mùa, độ ẩm cao.
Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng bánh kẹo trong quá trình chế
biến, cung ứng, sử dụng, các quyết định về bao gói… Bên cạnh đó còn chịu
sự chi phối của điều kiện kinh tế, nhìn chung thu nhập còn thấp. Những sản
phẩm có chất lượng cao thường được tiêu dùng ở những thành phố, thị xã lớn,
còn ở vùng nông thôn thì người tiêu dung ít quan tâm đến chất lượng mẫu mã,
với họ, giá cả mới là vấn đề cần xem xét.
Với thị trường miền Trung, người tiêu dùng ở khu vực thị trường này
18
thường hay không quan tâm đến khối lượng, bao bì mẫu mã của hàng hóa,
song lại rất quan tâm đến hương vị (độ ngọt, cay), hình dạng của bánh kẹo.
Một đặc điểm không thể phủ nhận là một thị trường dễ tính, nhu cầu lớn. Với
năng lực của mình, Hải Hà hoàn toàn có thể gia nhập và phát triển thị trường.
Trước đây, Hải Hà tập trung nhiều nhất cho thị trường miền Bắc, song một
vài năm gần đây Hải Hà đã coi khu vực này là một thị trường đầy hứa hẹn và
không ngừng hoàn thiện kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm.
Đặc điểm của thị trường miền Nam: Người tiêu dùng ở đây có điều kiện
thu nhập khác cao, đặc biệt ở TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương,… nên khá khó
tính. Đồng thời khí hậu ở đây cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến sở thích người
tiêu dùng. Họ không quan tâm đến khối lượng mà phần lớn là chất lượng sản
phẩm. Mặt khác, người miền Nam ưa ngọt cũng như các loại hương vị hoa
quả khác nhau. Đây vừa là thế mạnh vừa là điểm yếu của công ty. Đó là, Hải
Hà có ưu thế về độ ngọt song hương vị hoa quả chưa đa dạng. Hệ thống kênh
phân phối xa, khó điều hành quản lý trực tiếp, dân cư không đều nên hiệu quả
kinh doanh trên thị trường là chưa cao.
b, Khách hàng
HHC chủ yếu hướng tới thị trường bình dân trong khi các công ty khác
tập trung khai thác thị trường trung và cao cấp.
2.1.4 Đặc điểm nội tại
Vốn: Haihaco hiện có vốn điều lệ 54,75 tỷ đồng chuyên sản xuất, kinh
doanh bánh kẹo và chế biến thực phẩm; kinh doanh xuất nhập khẩu: nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị, sản phẩm chuyên ngành, hàng hoá tiêu dùng và các
sản phẩm hàng hoá khác; đầu tư xây dựng, cho thuê văn phòng, nhà ở, trung
tâm thương mại… Cơ cấu sở hữu: Nhà nước: 51%, cổ đông trong, ngoài công
ty: 49%.
19
Nhân lực:
7/2008).
Số lượng nhân sự trong Công ty: 1.350 người (tính tại thời điểm tháng
Với đội ngũ lãnh đạo giàu kinh nghiệm, Công ty luôn đề ra được
những chiến lược kinh doanh tốt, đội ngũ kỹ sư được đào tạo chuyên ngành
có năng lực và lực lượng công nhân giỏi tay nghề.
Công nghệ: Haihaco đang được sở hữu những dây chuyền sản xuất bánh
kẹo tương đối hiện đại tại Việt Nam, trong số đó có một số dây chuyền thuộc
loại hiện đại nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Toàn bộ các máy móc
thiết bị của Công ty được trang bị mới 100% mỗi dây chuyền sản xuất từng
dòng sản phẩm có sự phối hợp tối ưu các loại máy móc hiện đại có xuất xứ từ
nhiều nước khác nhau.
Các dây chuyền sản xuất chính gồm:
Hai dây chuyền đồng bộ sản xuất Kẹo chew của Cộng hòa Liên bang Đức trị giá trên 2 triệu
Euro, công suất 20 tấn/ngày, đưa vào sản xuất năm 2002 và 2004;
+ Dây chuyền sản xuất Kẹo mềm nguyên giá 1 triệu USD của CHLB Đức, công suất 10 tấn/ngày,
đưa vào sản xuất từ năm 1996;
+ Một dây chuyền sản xuất Bánh quy, cookie của Đan Mạch nguyên giá 1 triệu USD, công suất 6
tấn/ngày đưa vào sản xuất năm 1992;
+ Một dây chuyền sản xuất Bánh cracker của Italia nguyên giá 1 triệu USD, công suất 7 tấn/ngày,
đưa vào sản xuất năm 1996;
+ Một dây chuyền sản xuất kẹo Jelly của Australia, nguyên giá 0,6 triệu USD, công suất 4
tấn/ngày, đưa vào sản xuất năm 1997;
+ Dây chuyền sản xuất kẹo Jelly cốc của Malaysia, nguyên giá 100.000 USD công suất 2 tấn/ngày,
đưa vào sản xuất năm 1997;
+ Dây chuyền sản xuất Bánh kem xốp của Malaysia công suất 6 tấn/ngày trị giá 500.000 USD đưa
vào sản xuất năm 2000 và nâng công suất năm 2006;
+ Một dây chuyền sản xuất Bánh xốp cuộn của Malaysia công suất 3 tấn/ngày trị giá 150.000 USD
đưa vào sản xuất từ cuối năm 2006 ;
20
+ Dây chuyền sản xuất Kẹo cứng nhân của Trung Quốc, Ba Lan, Đức công suất 10 tấn/ngày, trị giá
0,5 triệu USD;
+ Một dây chuyền sản xuất Kẹo cây trị giá 0,4 triệu USD do Đài Loan sản xuất, công suất 1
tấn/ngày đưa vào sử dụng năm 2004;
+ Một dây chuyền sản xuất bánh snack trị giá 100.000 USD do Trung Quốc sản xuất, công suất
thiết kế 1 tấn/ngày đưa vào sử dụng từ tháng 06/2007.
Quy trình sản xuất kẹo Chew:
21
2.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ
phần bánh kẹo Hải Hà.
2.2.1 Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải
Hà
- Tổng doanh thu: 418 tỷ so với kế hoạch 360 tỷ, tăng 16%
- Tổng lợi nhuận trước thuế: 22,084 tỷ so với kế hoạch 19 tỷ, tăng 16%
- Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn điều lệ là: 34,37%
- Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên doanh thu là: 4,56%
- Thu nhập bình quân của CBCNV là: 3 triệu đồng/người/tháng, so với
kế hoạch tăng 9%.
- Cổ tức năm 2008: 15%
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
ST
Nội dung
Đơn vị
T
tính
TH
KH
TH
2007
2008
2008
Tỉ lệ (%)
TH/KH TH/CKNT
1
Doanh thu thuần
Tỷ đồng
344
360
418
116
121
2
Nộp ngân sách
Tỷ đồng
22
23
25
109
113
3
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ đồng
24,6
19
22,1
116
90
4
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ đồng
21,1
16,34
19
116
90
5
Giá trị xuất khẩu
Nghìn
248
313
387
123
156
3.000 109
120
USD
6
Thu nhập bình quân
(nghìn đồng)
Nghìn
2.500 2.750
đồng
(Nguồn: phòng kinh doanh – công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà)
22
2.2.2 Phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty
cổ phần bánh kẹo Hải Hà
Danh mục sản phẩm
Hiện nay, HAIHACO tập trung phát triển 2 loại sản phẩm chính là Kẹo và Bánh, mỗi loại bao
gồm các nhóm sản phẩm sau:
+ Kẹo: Kẹo “CHEW HAIHA”, Kẹo xốp mềm, Kẹo Jelly “CHIP HAI HA”, Kẹo cứng nhân, Kẹo cây “
HAIHAPOP”;
+ Bánh: Bánh quy, Bánh kem xốp, Bánh xốp cuộn MINIWAF, Bánh Snack-mimi, Bánh cracker;
Bánh Trung thu, Bánh hộp;
+ Dòng bánh mềm cao cấp phủ sôcôla với công nghệ và thiết bị hiện đại của châu Âu và Hàn Quốc
sẽ có mặt trên thị trường vào tháng 11 năm 2007 với các nhãn hiệu: Long-pie, Long-cake, Hi-pie,
Lolie.
Kẹo Chew:
+ Kẹo Chew là loại kẹo dẻo, có thành phần chủ yếu từ đường Gluco, chất béo, sữa...với
các hương vị hoa quả vùng nhiệt đới. Trong các năm 2002 và 2004 Công ty đã đầu tư hai
dây chuyền thiết bị đồng bộ sản xuất kẹo Chew trị giá trên 2 triệu Euro của Cộng hòa liên
bang Đức với công suất 20 tấn/ngày. Qua 5 năm phát triển, Công ty đã cho ra đời hàng
chục mẫu mã sản phẩm khác nhau, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng của
nhiều đối tượng khách hàng. Nhãn hiệu “Chew Hải Hà” được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bảo
hộ độc quyền quyền năm 2003.
+ Sản phẩm kẹo “Chew Hải Hà” của Công ty được đánh giá là dòng sản phẩm chủ lực,
khẳng định lợi thế đi đầu của Công ty và chất lượng của nhóm sản phẩm.
+ Các nhãn hiệu sản phẩm tiêu biểu cho nhóm hàng này là chuỗi sản phẩm kẹo Chew
hoa quả: Chew nho đen, Chew dâu, Chew đậu đỏ, Chew Coffee, Chew Taro, Chew
caramen, Chew me cay, Chew sôcôla …
23
Kẹo mềm, kẹo cứng:
+ Kẹo mềm và kẹo cứng là nhóm sản phẩm truyền thống của công ty với 2 dây chuyền
nhập khẩu trị giá 1,5 triệu USD, công suất 20 tấn/ngày. Sản phẩm được sản xuất liên tục
với trên 40 nhãn hiệu để đáp ứng mọi nhu cầu tiêu thụ của khách hàng.
+ Nhãn hiệu tiêu biểu: kẹo caramen Gold Bell, kẹo me, kẹo nhân dứa, kẹo cứng nhân
sôcôla, kẹo xốp cam, kẹo xốp dâu, kẹo xốp chuối...
Kẹo Jelly:
+ Các nhãn hiệu được đăng ký độc quyền với Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Kẹo Jelly được đầu tư
nghiên cứu với nhiều chủng loại, hương vị mang tính cách tân, mẫu mã phong phú, rất phù hợp
với các đối tượng khách hàng trẻ trung, năng động.
+ Các loại kẹo Jelly mà Công ty đang sản xuất: Jelly cốc, Jelly xốp, Jelly “Chip Hải Hà”
Bánh quy & cracker
+ Bánh quy, cookie có thành phần chủ yếu từ bột, trứng, đường, sữa. Với công suất 6 tấn mỗi
ngày trên dây chuyền sản xuất trị giá 1 triệu USD của Đan Mạch, các sản phẩm của Công ty sản
xuất ra có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng, nhất là trong các dịp Lễ, Tết
hàng năm.
+ Bánh craker là loại sản phẩm chế biến từ bột lên men. Công ty đầu tư một dây chuyền trị giá 1
triệu USD, công suất 7 tấn/ngày, với các nhãn hiệu như Bánh Dạ Lan Hương, bánh kẹp kem, Bánh
cracker vừng, Bánh cracker dừa, Bánh Bisavit-A...
Sản phẩm của HAIHACO rất đa dạng về kiểu dáng và phong phú về
chủng loại đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Có những sản phẩm mang
hương vị hoa quả nhiệt đới như Nho đen, Dâu, Cam, Chanh..., có những sản
phẩm mang hương vị sang trọng như Chew cà phê, Chew caramen,
sôcôla....lại có những sản phẩm mang hương vị đồng quê như Chew Taro,
Chew đậu đỏ, Cốm... Mặt khác các sản phẩm Bánh kẹo Hải Hà luôn luôn có
chất lượng đồng đều, ổn định nên được người tiêu dùng đặc biệt là ở miền
Bắc rất ưa chuộng. Thị phần của Haihaco ở thị trường này là rất lớn.
So sánh với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu
24
Thị
Công ty
trường
chủ yếu
Hải Hà
Miền Bắc
Sản phẩm cạnh Thị
tranh
phần
Điểm mạnh
Điểm yếu
Kẹo các loại, bánh 7,5%
Uy tín, hệ thống phân Chưa có sản phẩm cao
kem xốp, biscuit
phối rộng, quy mô lớn, cấp, hoạt động quảng
giá hạ
Hải Châu Miền Bắc
Kẹo
hoa
quả, 5,5%
sôcôla, bánh kem
cáo kém
Uy tín, hệ thống phân Chất lượng chưa cao,
phối rộng, giá hạ
mẫu mã chưa đẹp
xốp
Kinh Đô
Cả nước
Snack, bánh tươi, 12%
Chất lượng tốt, bao bì Giá còn cao
biscuit,
đẹp, quảng cáo và hỗ
sôcôla,
bánh mặn
trợ bán tốt, kênh phân
phối rộng
Biên Hòa Miền
Trung
Miền Nam
Tràng An Miền Bắc
Biscuit, kẹo cứng, 7%
Mẫu
kẹo mềm, snack,
lượng tốt, hệ thống kém, giá còn cao
sôcôla
phân phố rộng
Kẹo hương cốm
3%
mã
đẹp,
chất Hoạt động xúc tiến
Giá rẻ, chủng loại kẹo Chủng loại bánh kẹo
hương cốm phong phú còn ít, quảng cáo kém
2.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo của công ty cổ
phần bánh kẹo Hải Hà
2.3.1 Những thành tựu
Trên thị trường sản xuất bánh kẹo hiện nay có khoảng hơn 30 doanh
nghiệp sản xuất bánh kẹo có tên tuổi trong đó Haihaco là một trong 5 nhà sản
xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam, là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các
Công ty như Bibica, Kinh Đô miền Bắc.
Sản phẩm bánh kẹo Hải Hà liên tục được người tiêu dùng bình chọn là
Hàng Việt Nam chất lượng cao trong nhiều năm liền từ 1996 đến nay. Gần
25