Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Luận văn một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may việt nam trên thị trường thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.82 KB, 61 trang )

LI M U
Ngày nay, khi nền kinh tế thị trờng đã phát triển, hàng hoá đã đợc lu thông
rộng rãi trong các khu vực, các nớc khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa
của Đảng và Nhà nớc đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh
nghiệp trong nớc cũng nh các doanh nghiệp nớc ngoài kinh doanh tại Việt Nam
luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu đợc lợi nhuận
tối đa, đồng thời bảo đảm đợc các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản,
đôi khi phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản.
Nghiên cứu vấn đề này, nhiều nhà kinh tế cho thầy rằng sự thành công hay thất
bại của một doanh nghiệp trên thơng trờng phụ thuộc rất lớn vào chiến lợc cạnh
tranh mà họ đã đề ra.
Đã biết rằng, kinh tế thị trờng không chỉ là chiếc nôi cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn là một đấu trờng. Trên thị trờng
luôn diễn ra sự cạnh tranh gay go khốc liệt giữa các doanh nghiệp nhằm giành
lấy khách hàng. Tìm đợc các bí quyết để cạnh tranh có hiệu quả là tìm ra bí
quyết của sự tăng trởng, quyết định vận mệnh của doanh nghiệp .
Công cuộc CNH,HĐH đất nớc đã đem lại cho nền kinh tế nớc ta một sinh khí
mới và trong đó có ngành công nghiệp dệt may với những động lực và hớng phát triển
mới.
Cũng nh quá trình phát triển của nhiều nớc trên thế giới, trong giai đoạn
đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam , với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong nớc vừa tạo
điều kiện mở rộng thơng mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo u thế cạnh
tranh cho các sản phẩm trên thị trờng thế giới, và cũng là ngành có lợi tức tơng
đối cao.
Chỉ trong 3 năm 1995-1997, giá trị tổng sản lợng của ngành dệt may đã
tăng lên 20,3%, trong đó ngành dệt tăng 11,7% ngành may tăng 38,3% so với
mức 29.3% của giá trị tổng sản lợng toàn ngành công nghiệp. Sản phẩm xuất
khẩu của ngành dệt may cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nớc. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt


1349 triệu USD, chiếm 15,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc và chiếm
trên 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp.
Tuy nhiên, liệu mặt hàng dệt may của nớc ta cũng nh toàn ngành dệt may
tới đây có tiếp tục duy trì đợc tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành
công nghiệp mũi nhọn của nớc ta hay không ? Vấn đề này chỉ có thể giải đáp
dựa trên cơ sở những kết quả nghiên cứu dự báo về triển vọng thị trờng thế giới
mặt hàng này cũng nh lợi thế và năng lực phát triển ngành dệt may của Việt
1


Nam. Những biến động trên thị trờng thế giới trong thời gian qua đã tác động
mạnh mẽ đến thị trờng dệt may nói chung và ngành dệt, may nói riêng càng làm
cho việc nghiên cứu về thị trờng hàng dệt may trở nên cấp thiết. Nhằm phân tích,
đánh giá những thuận lợi và khó khăn của hàng dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó
xác lập những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh tranh của hàng dệt may
Việt Nam cũng nh đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ cho việc nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may trong nớc thời gian tơí.
Trớc những vấn đề đó, với sự khuyến khích của thầy giáo hớng dẫn, tôi đã
chọn đề tài: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam trên thị trờng thế giới. Đề tài này tập trung nghiên cứu những
biến động thị trờng dệt may trong những năm qua, triển vọng hàng dệt may, khả
năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trờng thế giới.. .
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau :
Chơng 1 Tổng quan về cạnh tranh.
Chơng 2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt
Nam
Chơng 3 Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam trên thị trờng thế giới.
Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi

những thiếu xót. Hy vọng sẽ nhận đợc sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc
để đề tài nghiên cứu này đợc hoàn chỉnh hơn .
Xin chân thành cảm ơn !

2


Chơng 1: Tổng quát về cạnh tranh
1.1 Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
1 .1.1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng.
Theo quan điểm cổ điển thì thị trờng là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi,
mua bán hàng hoá, theo nh cách hiểu này thị trờng đợc thu hẹp lại ở cái chợ

Sản xuất hàng hoá càng phát triển, các hình thức mua bán ngày càng đa
dạng phong phú thì khái niệm thị trờng có nhiều sự thay đổi. Theo nghĩa hiện
đại, thị trờng là quá trình mà ngời mua, ngời bán tác động qua lại nhau để xác
định giá cả và lợng hàng hoá mua bán. Nh vậy, theo cách hiểu này thị trờng đợc
mở rộng hơn cả về không gian, thời gian, cá nhân và dung lợng.
Nền kinh tế thị trờng là một nền kinh tế đợc điều tiết chủ yếu bởi các quy
luật của thị trờng nh quy luật cung cầu, giá cả, quy luật tiền tệ, quy luật cạnh
tranh. .. Trong số các quy luật của nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh là một trong
những quy luật có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết, thúc đẩy sự phát triển của
thị trờng. Sự tồn tại của cạnh tranh là tất yếu trong mỗi nền kinh tế.
Cạnh tranh kinh tế là một sự ganh đua giữa các cá nhân, tổ chức, đơn vị
trong các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. ở đâu có lợi ích
kinh tế thì ở đó sẽ có sự cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của
thị trờng, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh mà kết quả là sẽ có doanh
nghiệp bị bật ra khỏi thị trờng, có nguy cơ phá sản song cũng có những doanh
nghiệp trụ lại đợc và ngày càng phát triển.

Ngày nay, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sản xuất hàng hoá cũng
ngày càng phát triển với quy mô hết sức rộng lớn, nó không chỉ giới hạn ở một
quốc gia nào đó mà đã mở rộng ra phạm vi thế giới. Chính điều này đã làm cho
cạnh tranh ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Nó đợc xem nh một yếu tố tồn tại
khách quan của nền kinh tế. Mỗi một doanh nghiệp dù muốn hay không vẫn phải
chấp nhận sự cạnh tranh.
1 .1.2 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Cạnh tranh có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và với bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ một nền
kinh tế nào cũng cần thiết phải duy trì sự cạnh tranh. Đứng ở góc độ lợi ích xã
3


hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nớc sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ
hội để ngời tiêu dùng có thể lựa chọn đợc những sản phẩm có chất lợng tốt, giá
cả rẻ. Chính vì vậy duy trì sự cạnh tranh là nhằm bảo vệ lợi ích ngời tiêu dùng.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ là điều kiện thuận lợi để mỗi doanh
nghiệp tự khẳng định vị trí của mình trên thị trờng, tự hoàn thiện bản thân để vơn
lên giành u thế so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Trên thị trờng, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cuộc cạnh tranh khốc
liệt nhất nhằm giành dật ngời mua, chiếm lĩnh thị trờng tiêu thụ, toạ u thế về mọi
mặt cho doanh nghiệp nhằm thu dợc lợi nhuận lớn nhất.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung ứng những hàng
hoá và dịch vụ mà thị trờng cần để đáp ứng nhu cầu ngày càng dda dạng và
phong phú của khách hàng. Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có
đích, là quá trình các doanh nghiệp đa ra các biện pháp kinh tế tích cực và sáng
tạo nhằm đứng vững trên thơng trờng và tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra u thế về
sản phẩm, giá bán và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp muốn tạo ra u thế
về sản phẩm và giá bán thì phải tăng chất lợng sản phẩm và giá bán phải rẻ.

Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp phải không ngừng đa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất kinh doanh nhằm nâng coa chất lợng sản phẩm và dịch vụ, bên cạnh đó
phải tối u hoá các yếu tố đầu voà của sản xuất để giảm tối đa giá thành sản
phẩm. Trong cơ chế thị trờng, doanh nghiệp nào cung cấp hàng hoá dịch vụ với
chất lợng tốt mà giá thành rẻ nhất thì sẽ chiến thắng. Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ
loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh và khuyến
khích, tạo diều kiện cho các doanh nghiệp có chi phí thấp vơn lên.
Để tham gia vào thị trờng doanh nghiệp phải tuân thủ quy luật đào thải
chọn lọc. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao chất lợng của
mình, nâng cao trình độ kiến thức về kinh doanh. Do đó, cạnh tranh tranh là điều
kiện rất tốt để để đào tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách tối u nhất
lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của ngời tiêu dùng và lợi ích của xã hội. Trớc đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh đợc coi là cá lớn
nuốt cá bé, do đó không đợc khuyến khích. Song hiện nay, cạnh tranh đã đợc
nhìn nhận theo xu hớng tích cực, tác dụng của nó thể hiện rất rõ ở sự phá sản
của một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và sự phát triển vợt bậc của
những doanh nghiệp khác biết sử dụng hiệu quả các yếu tố của quá trình kinh
doanh.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực phát triển của mỗi quốc gia nói chung và

4


của từng doanh nghiệp nói riêng, là công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động kinh
doanh trên thơng trờng.
1 .1.3.Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh:
*Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh đợc chia làm 2 loại:
-Cạnh tranh trong nội bộ ngành:là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp
thua cuộc sẽ phải thu hẹp hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá sản còn doanh

nghiệp nào chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trờng,
uy tín và vị thế của doanh nghiệp sẽ đợc nâng cao. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu
cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải
tiến kỹ thuật, năng lực quản lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch
-Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục
tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hớng di
chuyển của vốn đầu t sang các ngành kinh doanh thu đợc lợi nhuận cao hơn và
tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
*Xét theo mức độ cạnh tranh:
-Cạnh tranh hoàn hảo:
Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng mà ở đó có rất nhiều ngời bán
sản phẩm tơng tự nhau về phẩm chất, quy cách, chủng loại, mẫu mã. Giá cả của
sản phẩm là do cung cầu trên thị trờng xác định,những nhời bán trong thị trờng
này không có khả năng chi phối đến giá cả. Các doanh nghiệp đợc tự do gia nhập
và rút khỏi thị trờng. Do đó, trong thị trờng cạnh tranh hoàn hảo, các doanh
nghiệp tham gia kinh doanh muốn thu đợc lợi nhuận tối đa thì không còn cách
nào khác là phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào tới mức thấp nhất.
Cạnh tranh hoàn hảo là trạng thái thị trờng u việt nhất. Trong thị trờng này,
ngời tiêu dùng có thể dễ dàng lựa chọn những hàng hoá dịch vụ tốt nhất với mức
giá hợp lý. Đồng thời, các doanh nghiệp sc kinh doanh phải luôn tìm mọi cách
cải tiến công nghệ, nâng cao chất lợng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của
ngời tiêu dùng. Lợi ích của xã hội luôn đợc bảo đảm do có sự phân bổ hợp lý các
nguồn tài nguyên. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay không có thị trờng nào lại
đạt đợc trạng thái cạnh tranh hoàn hảo.

5



-Cạnh tranh không hoàn hảo:
Thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trờng phổ biến nhất hiện
nay. Sức mạnh thị trờng thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp trên thị trờng này kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ
khác nhau. Sự khác biệt giữa những loại hàng hoá và dịch vụ này ở nhãn hiệu. Trên
thị trờng, có những loại hàng hoá dịch vụ chất lợng nh nhau song sự lựa chọn của
ngời tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín của nhãn hiệu sản phẩm. Cạnh tranh không
hoàn hảo có 2 hình thức:
+Độc quyền tập đoàn: là loại thị trờng mà ở đó nhu cầu về một số loại hàng
hoá và dịch vụ đều do một vài doanh nghiệp lớn đáp ứng. Những doanh nghiệp
này rất nhạy cảm với hoạt động kinh doanh của nhau, họ phụ thuộc lẫn nhau
trong việc định giá và số lớn hàng hoá bán ra. Các doanh nghiệp đều muốn cung
cấp hàng hoá dịch vụ với giá rẻ nhằm thu hết khách hàng song nếu họ có ý định
giảm giá xuống thấp thì sau một thời gian sẽ có doanh nghiệp khác giảm giá
xuống mức thấp hơn. Trong thị trờng này các doanh nghiệp cũng không thể tự ý
tăng giá vì nếu tăng giá trong khi giá của các doanh nghiệp khác không tăng thì
sẽ rất có hại, khách hàng sẽ tìm đến những doanh nghiệp cung cấp với giá rẻ
hơn.
+Cạnh tranh mang tính độc quyền với mức độ rất khác nhau. Số lợng doanh
nghiệp tham gia kinh doanh trên thị trờng này tơng đối lớn. Sản phẩm của các
doanh nghiệp là khác nhau thể qua bao bì, nhãn hiệu sản phẩm, mẫu mã, quy
cách, chủng loại Giá cả của mỗi doanh nghiệp là do chính doanh nghiệp đó đặt
ra tuy nhiên không thể hoàn toàn theo ý mình.
Mức độ cạnh tranh ở thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo giảm hơn so với
thị trờng cạnh tranh hoàn hảo.
Độc quyền:
Thị trờng cạnh tranh độc quyền là loại thị trờng mà ở đó có một doanh
nghiệp duy nhất kiểm soát hoàn toàn số lợng hàng hoá, dịch vụ bán ra trên thị
trờng. Trên thị trờng này, các doanh nghiệp không thể tự do ra nhập vì họ phải

bảo đảm rất nhiều yếu tố nh vốn đầu t, công nghệ kỹ thuật giá cả trên thị trờng
do doanh nghiệp đặt ra, ngời mua phải chấp nhận giá. Vì vậy, để kiếm đợc lợi
nhuận tối đa doanh nghiệp độc quyền đã tạo ra sự khan hiếm hàng hoá để nâng
mức giá lên cao. Nhiều nớc trên thế giới đã có lụt chống độc quyền, tuy nhiên
độc quyền cũng có nhiều mặt tích cựcbởi vì doanh nghiệp độc quyền có khả
năng bỏ vốn lớn để nghieen cứu phát triển công nghệ hiện đại, mở rọng quy mô
sản xuất do đó giảm đợc chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm.
6


Trong điều kiện hiện nay, ở tất cả các nớc trên thế giới hầu nh không tồn tại
trạng thái thị trờng cạnh tranh hoàn toàn và độc quyền hoàn toàn.
ở nớc ta, thị trờng độc quyền chỉ tồn tại dới dạng ít bị cạnh tranh nh ngành
xăng dầu, bu chính viễn thông... Nhà nớc ta cho phép một số doanh nghiệp trong
nớc và nớc ngoài kinh doanh trong một số lĩnh vực lớn để phá vỡ độc quyền,
đảm bảo lợi ích của ngời tiêu dùng.
1 .2. Những hoạt động chủ yếu của cạnh tranh trong kinh doanh.
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng không thể tránh khỏi cạnh tranh.
Nếu doanh nghiệp không dám đơng đầu với sự cạnh tranh thì sẽ dân đến phá sản.
Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh, dự báo trớc sự cạnh tranh và sẵn
sàng sử dụng linh hoạt vũ khí cạnh tranh để thắng đợc các đối thủ. Bản chất của
cạnh tranh trong kinh doanh là phải tạo ra u thế so với các đối thủ. Mỗi doanh
nghiệp khác nhau sẽ có u thế khác nhau, song nhìn chung các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau về sản phẩm, về giá cả của sản phẩm, về cách thiết lập mạng lới
kênh phân phối, về các hoạt động xúc tiến, khuếch trơngu thế của doanh nghiệp
cề dịch vụ và một số hoạt động khác Song trớc hết mỗi doanh nghiệp muốn
cạnh tranh thành công thì phải xây dựng chiến lợc kinh doanh. Chiến lợc kinh
doanh có vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định đến vận mệnh của doanh
nghiệp.
Thực tiễn ở nhiều nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển mạnh đã cho thấy

rằng, không ít những ngời ra nhập lang kinh doanh từ số vốn ít ỏi nhng đã nhanh
chóng thành đạt trên thơng trờng nhờ có chiến lợc kf hiệu quả. Bên cạnh đó đã
có những ngời đã từng khuynh gia bại sản do không có chiến lợc kinh doanh
hoặc có chiến lợc kinh doanh sai lầm trong đó có cả những ngời đã từng một thời
rất nổi tiếng trên thơng trờng.
Chiến lợc kinh doanh giúp các doanh nghiệp thấy rõ cơ hội và nguy cơ xảy
ra trong hiện tại và trong tơng lai, để phân tích đánh giá dự báo các điều kiện
môi trờng trong tơng lai, tận dụng cơ hội, giảm nguy cơ, đa doanh nghiệp vợt
qua cạnh tranh dành thắng lợi trên thơng trờng. Kinh doanh trong một môi trờng
có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh thì việc xây dựng chiến lợc kinh doanh sẽ giúp
doanh nghiệp tránh đfợc những rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh.
Xây dựng chiến lợc kinh doanh hiệu quả là vấn đề đầu tiên cần phải thực
hiện nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, khi đac xây dựng đợc
chiến lợc kinh doanh thì các doanh nghiệp mới có cơ sở để thực hiện các hoạt động
tiếp thao.
7


1 .2.1.Cạnh tranh về sản phẩm.
Sản phẩm xét dới góc độ kỹ thuật là những hàng hoá cứng, còn xét dới góc
độ khách hàng là những hàng hoá mềm và bao gồm cả dịch vụ đi kèm với sản
phẩm, thoả mãn nhu cầu con ngời. Mỗi doanh nghiệp cần xem xét sản phẩm dới
góc độ của khách hàng.
Chúng ta thấy rằng, yếutố đầu tiên quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đợc thể hiện trớc hết ở chỗ sản phẩm của doanh nghiệp
có thể cạnh tranh đợc với sản phẩm của các doanh nghiệp khác hay không? Mỗi
doanh nghiệp đều có u thế khác nhau về sản phẩm. Sức cạnh tranh của doanh
nghiệp đợc thể hiện qua chất lợng. Chất lợng là yếu tố quan trọng nhất mà ngời
tiêu dùng sẽ quyết định nên lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp nào. Để có thể

cạnh tranh đợc về chất lợng sản phẩm bắt buộc các doanh nghiệp phải đầu t
nghiên cứu, cải tiến công nghệ kỹ thuật sản xuất, tạo ra sự khác biệt thông qua
tính năng tác dụng của sản phẩm. Sản phẩm muốn cạnh tranh đợc phải có những
nét đặc sắc riêng, điều này cũng ảnh hởng tới vị trí của sản phẩm trên thị trờng.
Đảm bảo chất lợng sản phẩm luôn là phơng châm kinh doanh đồng thời là vũ khí
cạnh tranh rất hiệu quả của nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Nhà sản xuất ô tô
Mercedes Benz cua CHLB Đức khi đợc hỏi: Bí quyết thành công ở đâu? Họ
đã trả lời rằng ở chất lợng của hàng hoá và dịch vụ. Công ty này đã luôn coi chất
lợng là lòng tin. Chính vì vậy khi nền kinh tế của các nớc trên thế giới gặp khó
khăn, các loại ô tô bị ứ đọng thì ô tô Mercedes Benz đã trở thành món hàng
tiêu thụ đợc trên thế giới. Tục ngữ có câu: Không sợ không biết hàng hoá, chỉ
sợ hàng hoá đối địch với hàng hoá. Do đó cải tiến và nâng cao chất lợng hàng
hoá và dịch vụ là cơ sở quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lợng của sản phẩm mới cũng là công cụ để
cạnh tranh rất hiệu quả. Trong tình hình hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật trên thế giới đang thay đổi nhanh chóng, cạnh tranh về thị trờng hết sức
gay gắt, để thoả mãn nhu cầu không ngừng thay đổi của khách hàngthì biện pháp
quan trọng nhất của doanh nghiệp là phải không ngừng đổi mới sản phẩm và
cung cấp những dịch vụ mới. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm mới và tốc
đọ phát triển càng nhanh thì càng có khả năng cạnh tranh.
Vậy phát triển về sản phẩm mới là liều thuốc cải tử hoàn snh, phát triển sản
phẩm mới phải căn cứ vào nhu cầu của thị trờng. Trong trờng thị trờng khan
hiếm về sản phẩm của doanh nghiệp thì việc doanh nghiệp đa ra những loại sản
phẩm mới có phong cách độc đaó , chất lợng cao sẽ là điều kiện rất thuận lợi để
giành giật thị trờng.
8


Với hàng dệt may Việt Nam thì về sản phẩm có những đặc tính sau để có

thể cạnh tranh: sản phẩm phong phú, đa dạng, mang tính thời trang cao, phụ
thuộc vào thời vụ... Những đặc trng đó cũng tạo nên những thuận lợi trong cạnh
tranh về sản phẩm.
Với những doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thì việc
nâng cao chất lợn sản phẩm và phát triển các sản phẩm mới chính là việc doanh
nghiệp nâng cao chất lợng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng và phát triển
thêm nhiều loại dịch vụ mới. Đây là kinh nghiệm cạnh tranh và gây uy tín cho
khách hàng của công ty kinh doanh dịch vụ bu chính viễn thông, kinh doanh các
khu vui chơi giải trí ở một số nớc phát triển trên thế giới.
Nh vậy, cạnh tranh về sản phẩm là một trong những sách lợc cạnh tranh cơ
bản nhất mà các doanh nghiệp thờng áp dụng. Trong đó cạnh tranh về chất lợng,
về chủng loại, về kiểu dáng một sản phẩm là những vấn đề trọng tâm, chất lợng
của sản phẩm là nội dung quyết định hiệu quả của nội dung cạnh tranh. Các
doanh nghiệp phải thiết lập đợc chiến lợc về sản phẩm hợp lý, phải nghiên cứu từ
khâu thiết kế, đa vào sản xuất, tung ra thị trờng đến các hoạt động hoàn thiện đổi
mới sản phẩm, đảm bảo nâng cao chất lợng tạo uy tín trên thị trờng. Ngoại hình
và kiểu dáng của sản phẩm cũng là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả. Chỉ có những
sản phẩm có kiểu dáng mới, ngoại hình đẹp thì mới có sức hấp dẫn mạnh. Nhất
là trên thị trờng quốc tế, không có những sản phẩm mang phong cách độc đáo thì
sẽ thiếu năng lực cạnh tranh. Vì vậy, cạnh tranh về sản phẩm luôn là vấn đề mà
các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thơng trờng đều quan tâm.
1 .2.2.Cạnh tranh về giá cả.
Giá cả là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm.
Một doanh nghiệp có sản phẩm có chất lợng tốt, giá cả hợp lý thì luôn chiếm u
thế trên thị trờng. áp dụng những chính sách định giá linh hoạt, đa dạng là nhân
tố quan trọng tạo nên thành công trong tiêu thụ sản phẩm. Sách lợc định giá sản
phẩm chủ yếu phải căn cứ vào giá thành sản phẩm, nhu cầu thị trờng và nhu cầu
cạnh tranh của thị trờng để xác định. Cạnh tranh bằng giá cả phải tuỳ thuộc vào
tình hình và phải lấy giá thị trờng làm chuẩn.
Có các chính sách định giá n sau:

-Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trờng. áp
dụng khi doanh nghiệp mới xâm nhập thị trờng hoặc tiêu thụ khối lợng sản phẩm
lớn trong thời gian ngắn hoặc nhằm mục đích cạnh tranh. Một số doanh nghiệp
trên thế giới đã rất thành công trong chiến lợc cạnh tranh bằng cách định giá
thấp nh cửa hàng bán lẻ lớn nhất nớc Pháp La Fayetle. Họ đã đa ra khẩu hiệu:
9


hãy định giá bán thấp hơn ngời khác. Kinh nghiệm làm ăn của cửa hàng này là
nếu bạn muốn cạnh tranh thành công thì giá bán hàng hoá của bạn phải thấp hơn
của đối thủ cạnh tranh.
-Chính sách bán với giá thị trờng: áp dụng khi doanh nghiệp không có ý
định lôi cuốn khách hàng bằng cách bán với giá thấp hơn giá của doanh nghiệp
cạnh tranh và cungx không muốn để mất khách hàng.
Bán với giá thị trờng sẽ không mang lại nhiều lợi nhuận song vẫn đảm bảo
có lãi. Trong quá trình kinh doanh một số doanh nghiệp đã áp dụng chính sách
định giá này nh siêu thị Đại Vinh của Nhật Bản, họ đã áp dụng đối với những
loại hàng hoá chiến lợc. Đối với những loại hàng hoá này thì kiểu cách, chủng
loại làm chính, giá cả không phải là yếu tố thu hút khách hàng.
-Chính sách bán với giá cao hơn giá thị trờng: áp dụng trong trờng hợp
doanh nghiệp có hàng hoá và dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh. Kinh
doanh độc quyền thì việc định giá là không có giới hạn, bởi vì những ngời có
nhu cầu muốn mua thì giá cao bao nhiêu họ vẫn có thể mua. Làm nh vậy vừa mở
rộng đợc thị trờng , vừa thu đợc lãi nhiều. Đây chính là chính sách định giá của
nhiều hãng kinh doanh nổi tiếng trên thế giới nh hãng sản xuất TV của Nhật Bản
khi kinh doanh trên thị trờng Trung Quốc. Năm 1979, khi ngành sản xuất TV của
Nhật Bản thâm nhập thị trờng Trung Quốc họ đã nghiên cứu kỹ thị trờng và thấy
Trung Quốc là thị trờng tiêu thụ TV trắng đen có tiềm lực rất lớn. Trong khi đó ở
Trung Quốc cha có sự cạnh tranh của TV nớc ngoài. TV của Nhật Bản sản xuất
chất lợng tốt hơn TV do Trung Quốc sản xuất nên họ quyết định định giá sản

phẩm của mình cao hơn Trung Quốc hàng trục nhân dân tệ. Với cách định giá
này, Nhật bản đã thu đợc một khoản lợi nhuận lớn mà vẫn chiếm đợc thị trờng
Trung Quốc.
Nhng theo quan điểm của nhiều hãng kinh doanh trên thế giới (nh công ty
điện máy National) thì trong điều kiện kinh doanh thị trờng phát triển nh ngày
nay mà áp dụng cạnh tranh giá cả thì chỉ là cạnh tranh mang tính chất chữa cháy.
Nếu dùng giá cả để khống chế thị trờng thì đơng nhiên dẫn đến sự cạnh tranh hạ
giá của đồng nghiệp và sẽ dẫn đến thất bại. Đây là sự thất bại triệt để của kinh
doanh thị trờng. Vì vậy, để có thể cạnh tranh trong kf, mỗi doanh nghiệp phải ra
sức phát triển những hàng hoá và dịch vụ mới có chất lợng tốt, có những đặc
điểm riêng của mình và giá cả phải hợp lý.
1 .2.3.Cạnh tranh trong thiết lập mạng lới kênh phân phối:
Thiết lập mạng lới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi để
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Một doanh nghiệp mà có khả năng cung
10


cấp hàng hoá, dịch vụ đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng nhu cầu khách hàng
một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất thì sẽ tạo đợc lòng tin, uy tín đối với khách
hàng và sẽ đợc khách hàng lựa chọn.
Thiết lập mạng lới kênh phân phối phải căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá
dịch vụ và yêu cầu của khách hàng. Có các cách thiết lập kênh phân phối nh sau:
Cách 1: sản xuất --- Tiêu dùng.
Cách 2: sản xuất --- Ngời bán lẻ --- Tiêu dùng.
Cách 3: sản xuất --- Bán buôn --- Bán lẻ --- Tiêu dùng.
Cách 4: sản xuất --- Trung gian --- Bán buôn --- Bán lẻ --- Tiêu dùng.
Lựa chọn hình thức bán cũng là một trong những vấn đề quyết định đến
hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp vì nó tác động rất lớn đến tâm lý của
khách hàng. Kinh nghiệm kinh doanh của nhiều nớc đã cho thấy, bán hàng thông
qua các hình thức nh gọi điện thoại (bán hàng từ xa), bán hàng qua các nhân viên

tiếp thị ... là những hình thức rất hiệu quả.
ở nớc ta, hình thức phục vụ khách hàng đến tận nơi cũng bắt đầu phổ biến.
Một số công ty đã rất thành công trong lĩnh vực này nh Công ty bu chính viễn
thông Hà nội với phơng thức thu cớc phí điên thoại, công ty sẽ phục vụ tận nơi.
Một số doanh nghiệp lớn trên thế giới cũng đã rất thành công trong hoạt
động cạnh tranh khi họ biết thiết lập hợp lý mạng lới kenh phân phối, chẳng hạn
nh công ty Daiwa Seiko của Nhật Bản đã cạnh tranh thành công khi họ quyết
định bỏ cửa hàng bán buôn để giảm khâu lu thông hàng hoá. Olympic và Daiwa
Seiko là hai công ty sản xuất lỡi câu lớn nhất của Nhật Bản. Đầu những năm
1960 sản phẩm của Olympic hầu nh đã lũng đoạn thị trờng cả nớc còn của
Daiwa Seiko thì cả về doanh thu đến lợi nhuận kinh doanh đều cha băng một nửa
của Olympic. Vào thời kỳ khó khăn này, Daiwa Seiko đã quyết định áp dụng hai
sách lợc để thay đổi cách buôn bán ở trong nớc và xuất khẩu hàng loạt sản phẩm.
Công ty đã nhận thấy nớc Nhật đất hẹp, thị trờng có hạn, không có tiền đồ phát
triển rộng lớn, cần phải đi vào thị trờng quốc tế. Đồng thời thay đổi trình tự buôn
bán hàng hoá vốn đã thành truyền thống trong nớc là: Công ty --- Cửa hàng bán
buôn --- Cửa hàng bán lẻ --- Ngời tiêu dùng. Công ty đã dứt khoát bỏ khâu trung
gian là cửa hàng buôn bán làm cho quá trình buôn bán thành: Công ty --- Cửa
hàng bán lẻ --- Ngời tiêu dùng và nhờ đó mà công ty đã khống chế đợc toàn bộ
quá trình sản xuất, tiêu thụ. Do vậy, một mặt đã giảm đợc những phiền phức do
cửa hàng bán buôn gây ra, mặt khác quan trọng hơn là có thể nhanh chóng và
trực tiếp nắm đợc sở thích của ngời tiêu dùng, gắn chặt sản xuất với tiêu dùng,
11


tăng hiệu quả sản xuất và tiêu thụ. Quyết sách của công ty Daiwa Seiko đã bắt
đầu có hiệu lực từ cuối những năm 1960. Vào cuối những năm 1970 nó đã hoàn
toàn vợt hẳn Olympic và từ đó đã chiếm vị trí hàng đầu trên thị trờng thế giới về sản
phẩm lỡi câu.
1 .2.4. Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo.

Quảng cáo và xúc tiến bán hàng là những hoạt động nhằm giới thiệu và
thông tin cho khách hàng về các sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời lôi kéo
khách hàng tiêu dùng những sản phẩm đó. Hoạt động này không thể thiếu đợc
trong cạnh tranh của doanh nghiệp.
Quảng cáo, đó là hoạt động thông qua các phơng thức tuyên truyền để
tuyên truyền một cách rộng rãi các loại hàng hoá, các thông tin dịch vụ nhằm đạt
mục đích và mở rộng ảnh hởng, đi vào lòng ngời và tăng hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Tất nhiên, sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp
chủ yếu tuỳ thuộc vào chất lợng của sản phẩm. Nhng một sản phẩm có chất lợng
tốt, nếu đợc quảng cáo thì hiệu quả tiêu thụ sẽ lớn hơn nhiều. Ngày nay trong
điều kiện nền kinh tế hàng hoá phát triển, phần lớn hàng hoá, dịch vụ đều phải đợc quảng cáo, đặc biệt là những sản phẩm mới vì chúng cha đợc mọi ngời biết
đến. Trong điều kiện đảm bảo chất lợng hàng hoá dịch vụ thì việc cố gắng nâng
cao hiệu quả tuyên truyền quảng cáo dịch vụ cũng là biên pháp để doanh nghiệp
cạnh tranh thành công trong kinh doanh. Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu
kỹ các cách quảng cáo, dùng phơng thức gì để quảng cáo, áp dụng những kỹ sảo
quảng cáo nào, lợi dụng những dịp nào để quảng cáo sao cho mang lại hiệu quả
cao nhất.
Quảng cáo chính là nghệ thuật thu hút khách hàng, do đó mỗi doanh nghiệp
muốn thành công thì phải:
-Khéo lợi dụnh các phơng tiện thông tin để quảng cáo rộng rãi.
Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, phơng tiện
thông tin cũng ngày càng nhiều, ngày càng tiên tiến. Nhiuuè doanh nghiệp có
thể tuyên truyền, quảng cáo một cách thành công vì trớc hết họ đã khéo léo trong
việc lựa chọn những phơng tiện thông tin có hiệu quả, rõ ràng, chẳng hạn nh:
+ Quảng cáo thông qua phơng tiện in ấn, bu điện, truyền thanh nh báo, tạp
trí, phát thanh, th từ và đơn đặt hàng, danh mục hàng hoá và các bản thuyết
minh
+ Quảng cáo qua màn ảnh: Cách quảng cáo này rất lý thú và hấp dẫn, có tác
dụng cạnh tranh cao song tốn kém hơn.
12



-Vận dụng nghệ thuật quảng cáo khéo léo:
Nghệ thuật quảng cáo khéo léo là sự kết tinh của trí tuệ, đòi hỏi ngời làm
quảng cáo phải có kiến thức, am hiểu nghệ thuật và có khả năng tởng tợng nhạy
bén về nhiều mặt. Nếu kết hợp các loại nghệ thuật thì có thể phát huy đợc tác
dụng của quảng cáo, thu hút đợc nhiều đối tợng tuyên truyền. Mặc dầu cần có
nghệ thuật khéo léo trong quảng cáo nhng không có nghĩa là giả tạo, bởi vì nh
vậy chính là lừa dối mọi ngời mà ngợc lại quảng cáo phải chân thực. Tuyên
truyền một cách thực sự cầu thị là thái đọ cơ bản và cũng là một kỹ sảo trong
quảng cáo.
-Doanh nghiệp phải biết nắm bắt các thời cơ để quảng cáo. Nắm đợc thời cơ
thì đôi khi có thể giành giật đợc thời gian để đi trớc một bớc khi đối thủ cạnh
tranh hoặc có thể giành đợc khách hàng để mở rộng thị trờng, hay giảm đợc chi
phí, tiết kiệm đợc thời gian và tiền của. Nghĩa là nâng cao hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp.
Bên cạnh quảng cáo, xúc tiến bán hàng và yểm trợ bán hàng cũng là hoạt
động giúp cho chiến lợc cạnh tranh của doanh nghiệp hiệu quả hơn. Những hoạt
động này thờng đợc thực hiện thông qua các triển lãm, hội chợ, cửa hàng giới
thiệu sản phẩm, thông qua việc bàn thử các loại sản phẩm.
Nói tóm lại, việc lựa chọn hình thức quảng cáo và xúc tiến nh thế nào phải
dựa vào những nhân tố nh tính năng, đặc điểm của loại hàng hoá, dịch vụ , giá sử
dụng cũng nh phạm vi sử dụng và khả năng chi phí cho quảng cáo. hiệu quả của
hs quảng cáo và xúc tiến bán hàng sẽ ảnh hởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thơng trờng nói riêng và việc thực hiện các mục tiêu trong
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung trong điều kiện có nhiều doanh nghiệp
cạnh tranh khác.
1.2.5. Cạnh tranh bằng hoạt động dịch vụ trớc, trong và sau bán hàng.
Trong nền kinh tế thị trờng phát triển, dịch vụ là một trong những kâu đợc
các nhà kinh doanh chú ý đến nhiều nhất bởi vì ngời tiêu dùng sẽ lựa chọn những

doanh nghiệp có những hoạt động dịch vụ thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ.
Dịch vụ thờng là những hoạt động đánh vào tâm lý ngời tiêu dùng rất hiệu quả.
Vì thế, mỗi doanh nghiệp muốn cuốn hút khách hàng, muốn tạo ra u thế so với
các doanh nghiệp khác thì phải đầu t và hoàn thiện các hoạt động dịch vụ của
mình. Các hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp có thể đợc thực hiện trớc, trong
và sau khi bán hàng tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh.
Nh vậy, các hoạt động dịch vụ cũng là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả. Mỗi
13


doanh nghiệp phải nghiên cứu để tìm cho mình những cách thức phục vụ tối u để
thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói riêng đến các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ta thấy rằng họ đã bắt
đầu chú ý đến những khâu dịch vụ bởi vì họ đã nhận ra rằng hoạt động dịch vụ
hỗ trợ rất đắc lực cho các hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. Chính vì vậy
trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã nổi trội hơn hẳn các doanh
nghiệp khác trên thị trờng đôi khi không phải là do chất lợng sản phẩm của họ
tốt hơn mà là họ đã biết sử dụng những hoạt động dịch vụ đi kèm rất hiệu quả.
Cạnh tranh trong nền kinh tế chủ yếu là ở hoạt động dịch vụ. Sản phẩm của
mỗi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trờng nói chung đều giống nhau
ửo chất lợng. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp thể hiện u thế của mình đều bằng
các hoạt động dịch vụ. Dịch vụ sẽ là nam châm thu hút khách hàng đến với
doanh nghiệp.
1.3.Các nhân tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng sẽ chịu ảnh hởng
rất nhiều bởi những yếu tố của môi trờng kinh doanh. Những doanh nghiệp chiến
thắng trong các cuộc cạnh tranh trên thơng trờng là những doanh nghiệp biết
tặan dụng và khai thác tối đa những yếu tố môi trờng. Môi trờng kinh doanh có
thể tác đọng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhìn chung, những nhân tố ảnh hởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp

có thể chia làm 2 loại:
1 .3.1.Các nhân tố khách quan.
Nhân tố khách quan là những nhân tố tác động từ bên ngoài doanh nghiệp,
dù muốn hay không muốn, doanh nghiệp vẫn phải chấp nhận sự tác động này,
tìm mọi cách khai thác những điểm thuận lợi và tránh những bất lợi ảnh hởng tới
khả năng cạnh tranh cuả doanh nghiệp trên thơng tròng.
Trên thực tế, nhân tố khách quan cơ bản nhất tác động đến hoạt động kinh
doanh nói chung và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng là luật pháp
và các chính sách của chính phủ. Đây là nhân tố thuộc môi trờng vĩ mô của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có biết tận dụng u thế cạnh tranh của mình hay không
phụ thuộc rất lớn vào khả năng khai thác những yếu tố trong luật pháp và trong các
chính sách của chính phủ.
Giả sử loại hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp đang kinh doanh nằm trong
chính sách khuyến khích hỗ trợ của chính phủ thì đây là một điều kiện rất thuận lợi
và doanh nghiệp phải biết khai thác lợi thế này để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh
14


của mình tạo vị thế cạnh tranh trên thơng trờng, đồng thời đạt đợc các mục tiêu về
lợi nhuận.
Nh vậy, luật pháp và các chính sách của chính phủ vừa là yếu tố thúc đẩy
đồng thời cũng là yếu tố hạn chế khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nớc muốn hớng để phát triển một ngành nào đó thì sẽ tạo điều kiện cho ngành đó
nh u đaic về thuế, lãi suất, vốn đầu t... Và đây cũng là những yếu tố để các doanh
nghiệp trong cùng một ngành cạnh tranh với nhau nhằm đạt đợc các mục tiêu
của doanh nghiệp và đảm bảo thực hiện đợc các mục tiêu của xã hội.
Nhân tố khách quan thứ hai ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp đó là u thế của các đối thủ cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Doanh
nghiệp phải biết tận dụng những kẽ hở của đối phơng, đánh vào những yếu điểm
đó để có thể làm nổi bật những u thế về hàng hoá, dịch vụ của mình. Bên cạnh
đó phải cố gắng tìm hiểu mục tiêu hiện tại và tơng lai của đối thủ cạnh tranh là

gì? Và đối thủ cạnh tranh đánh giá nh thế nào về mục tiêu và năng lực của các
đối thủ cạnh tranh của họ. Một đối thủ cạnh tranh mà họ đã từng nổi tiếng trên
thơng trờng thì khả năng cạnh tranh đợc là rất khó khăn. Doanh nghiệp phải
phân tích đợc diểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh để có những biện
pháp hợp lý rtrong từng điều kiện, từng hoàn cảnh. Tất cả phải đều nhằm vào
mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp và lợi nhuận, vị thế, an toàn.
Nhân tố khách quan thứ ba cũng có tác động không nhỏ đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp đó là tình hình kinh doanh của các đối tác trong cùng
một tập đoàn kinh doanh. Đây là yếu tố thuộc môi trờng vĩ mô của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trờng mọi sự liên kết kinh doanh giữa các doanh
nghiệp rất có lợi cho việc cạnh tranh với tập đoàn kinh tế khác. Nếu nh đối tác
kinh doanh với doanh nghiệp đàn trong thời kỳ hng thịnh thì khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp nói riêng và cả tạap đoàn kinh doanh nói chung sẽ tăng lên bởi vì
sức mạnh sẽ đợc tổng hợp lại. Và ngợc lại, một sự rủi ro trong kinh doanh của đối
tác cũng có thể ảnh hởng đến cả chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn một yếu tố khách quan khác ảnh hởng đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nh: tình hình tài chính tiền tệ trong nớc và nớc ngoài hay
sự khủng hoảng kinh tế của các nớc trên thế giới có quan hệ hợp tác voứi Việt
Nam cũng có ảnh hởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Nói tóm lại, các nhân tố khách qua là những nhân tố doanh nghiệp không
thể tự tạo ra và cũng không thể làm mất đi. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình, mỗi doanh nghiệp cần phải chấp nhận sự tồn tại của các nhân tố

15


đo để tìm ra biện pháp hợp lý nhất, hiệu quả nhất cho hoạt động cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1 .3.2.Các nhân tố chủ quan.

Các nhân tố chủ quan là những nhân tố xuất phát từ nội tại của doanh
nghiệp, thể hiện tiềm năng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, tiềm năng của một doanh nghiệp thờng đợc thể hiện qua
tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Hai yếu tố nàycó tín chất quyết định thế lực
của doanh nghiệp trên tơng trờng.
Tài sản hữu hình thể hiện bằng tiền vốn, máy móc, thiết bị kỹ thuật. Tài sản
hữu hình của doanh nghiệp càng lớn bao nhiêu thì uy tín của doanh nghiệp sẽ
càng lớn bấy nhiêu. Tuy nhiên, tài snả hữu hình chỉ biểu hiện một phần nào đó
tiềm lực của doanh nghiệp còn phần phần quyết định lớn nhất đến khả năng cạnh
tranh trên thị trờng là tài sản vô hình.
Tài sản vô hình là tài sản quý giá nhất của dnm không thể định lợng đợcc.
Đó là sự tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp, uy tín của doanh
nghiệp trên thị trờng, hay có thể là hình ảnh quen thuộc, sự nổi tiếng của nhãn
hiệu hàng hoá đó, cũng có thể là bầu không khí tổ chức nhân sự trong doanh
nghiệp, là chất lợng trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp.
Nhân tài kinh doanh là vốn quý nhất của doanh nghiệp. Mờu chốt để một
doanh nghiệp kinh doanh thành công là ở chỗ phải có nhân tài kinh doanh. Đó là
những ngời dũng cảm, mạnh dạn, biết mu lợc kinh doanh, thông thạo kỹ năng
kinh doanh và t duy nhạy bén, hành động mau lẹ, có năng lực ứng phó, năng lực
xã hội, năng lực công tác nghiệp vụ tơng đối mạnh. Nhân tài kinh doanh của một
doanh nghiệp nói chung thờng bao gồm những ngời lãnh đạo, những ngời làm
công tác kinh doanh, những ngời làm công tacd kỹ thuật và công nhân viên chức,
những ngời này hình thành một tập đoàn nhân tài kinh doanh. Tập đoàn nhân tài
kinh doanh của rất nhiều doanh nghiệp thành công còn có kết cấu trí tuệ hợp lý,
tức là có những chuyên gia cứng và cũng có cả những chuyên gia mềm,
nghĩa là có những ngời lãnh đạo có sở trờng trong vieẹc ra những quyết sách
kinh doanh mang tính chiến lợc và có cả công nhân viên chức tinh thông nghiệp
vụ và nghệ thuật kinh doanh. Nhờ sự hợp lý về kết cấu trí tuệ, biết kễt hợp lẫn
nhau đã làm cho kinh doanh của doanh nghiệp thành công. Vì vậy, để có thể

thành công trong kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tìm mọi cách khai thác
nhân tài kinh doanh và ra sức bồi dỡng kiến thức, năng lực kinh doanh, tạo sơ sở
16


vững chắc cho họ phái huy đợc tài năng kinh doanh của mình.
Nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã thành công trong kinh doanh là do họ
biết phát huy thế mạnh về con ngời trong doanh nghiệp. Công ty bút bi Saced
(Pakistan) là một ví dụ điển hình. Công ty đã tăng cờn sức cạnh tranh băng biện
pháp chú trọng bồi dỡng con ngời. Họ cho rằng, đối với một doanh nghiệp đang
phát triển, con ngời là nhân tố cơ bản để tác động vào mặt kỹ thuật, thiết bị và
quản lý. Do đó, công ty hết sức coi trọng việc phát huy tinh thần sáng tạo của
toàn thể công nhân viên chức. Công ty thờng xuyên cử cán bộ kỹ thuật và cán bộ
quản lý ra nớc ngoài khảo sát, tiếp thu những kỹ thuật và những kinh nghiệm
mới. Chính vì vậy, trình độ công nhân đợc nâng cao đã tăng cờng mạnh mẽ sức
cạnh tranh của công ty và đã thu đợc hiệu quả kinh tế rất tốt.
Nh vậy, trìng độ của đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp có ảnh hởng rất lớn
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có một yếu tố cũng góp
phần không nhỏ vào sự thành công trong kinh doanh nói chung và khả năng cạnh
tranh nói riêng đố là sự tín nhiệm- hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trờng.
Sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp là uy tín và ảnh hởng của doanh nghiệp
trên thị trờng, là vị trí và hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt ngời tiêu
dùng. Rất nhiều doanh nghiệp đều coi việc xây dựng uy tín là một trong những
bí quyết để kinh doanh thành công. Tín nhiệm đối với doanh nghiệp trên thị trờng bao gồm:
-Tín nhiệm về chất lợng sản phẩm: Sự tín nhiệm đối với sản phẩm càng
cao, ngời tiêu dùng càng tin tởng, chỉ cần nghe nói đến sản phẩm mang tên nhãn
hiệu đó thì không thể hoài nghi về chất lợng của sản phẩm. Những sản phẩm nổi
tiếng lâu đời là những sản phẩm có sự tín nhệm về chất lợng cao.
-Tín nhiệm về tác phong kinh doanh của doanh nghiệp: Những doanh
nghiệp có tác phong kinh doanh tốt, tuân thủ thời gian, tuân thủ hợp đồng, có

tinh thần trách nhiệm cao đối với ngời tiêu dùng sẽ có uy tín rất cao trên thị trờng.
-Tín nhiệm về sự phục vụ của doanh nghiệp bao gồm sự phục vụ về kỹ
thuật, phục vụ tiêu thụ... Trong quá trình tiêu thụ hoặc sau khi bán, nếu doanh
nghiệp phục vụ chu đáo, thái độ phục vụ tốt, làm cho ngời mua hay không mua
cảm thấy hài lòng. Sau khi khách mua hàng về nhà, nếu có vấn đề thì doanh
nghiệp đến tận nhà để giải quyết. Tất cả những cái đó thể hiện sự tín nhiệm đối
với việc phục vụ của doanh nghiệp.
Mặc dù bản thân sự tín nhiệm không có giá trị và giá trị sử dụng nhng bất
17


cứ doanh nghiệp nào cũng phải tìm cách xây dựng tín nhiệm tố trên thị trờng.
Bởi vì việc xây dựng và giữ gìn tín nhiệm tôt trên thị trờng đối với doanh nghiệp
có tác dụng to lớn trong sự thành công của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp
càng không đợc tín nhiệm càng không có chỗ đứng trên thị trờng. Tác dụng của
tín nhiệm đối với việc kinh doanh của một doanh nghiệp đợc biểu hiện ở các mặt
sau đây:
+Sự tín nhiệm của doanh nghiệp càng cao thì càng dễ tiêu thụ sản phẩm.
Đây là kinh nghiệm của hiệu giầy Nội Liên Tục Bắc Kinh. Cửa hàng này chủ
yếu kinh doanh giầy vải bắt đầu từ năm 1636. Mặc dù hiện nay các loại giầy
không ngừng thay đổi về mẫu mã và kiểu dáng, nhng do sự độc đáo về công
nghệ sản xuất nên giầy Nội Liên Tục vẫn có uy tín trên thị trờng. Hiện nay các
loại giầy vải của họ vừa rất dễ bán vừa không ngừng mở rộng đợc thị trờng mới ở
nớc ngoài nh Braxin, Nhật Bản Bất cứ sản phẩm của doanh nghiệp nào, chỉ cần
xây dựng đợc tín nhiệm tốt trên thị trờng, ngời tiêu dùng tin tởng thì doanh
nghiệp qua đó đợc sự thử thách của cạnh tranh, nhờ đó giữ vững đợc sức sống
sản phẩm của mình.
+ Uy tín của doanh nghiệp càng cao thì càng có thể không ngừng mở rộng
thị trờng, mở rộng tiêu thụ.
+ Sự tín nhiệm của doanh nghiệp càng cao thì càng có thể nâng cao đợc

hiệu quả kinh tế. Mặc dù bản thân sự tín nhiệm không có giá trị nhng một khi
doanh nghiệp xây dựng đợc tín nhiệm trên thị trờng thì có thể mở rộng thị trờng,
tăng thêm tiêu thụ, sản phẩm mới sản xuất đợc lâu dài, hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp mới có thể đợc nâng cao. Ngợc lại doanh nghiệp không đợc tín
nhiệm, hoặc một khi sự tín nhiệm bị mai một đi, thì sản phẩm sẽ không có thị trờng,
cho dù đã chiếm lĩnh đợc cũng sẽ mất đi cùng với sự mai một của sự tín nhiệm. Tín
nhiệm là hiệu quả kinh tế, tín nhiệm là tiền. Chính vì vậy nhiều doanh nghiệp đã coi
sự tín nhiệm là sinh mệnh của mình.
Bất cứ doanh nghiệp nào đã thành công trong kinh doanh đều coi việc xây
dựng và giữ gìn tín nhiệm là một nhiệm vụ có tính chiến lợc. Có giữ đợc sự tín
nhiệm thì cơ hội kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trờng mới đợc nâng
cao.
Nói tóm lại, những yếu tố chủ quan của doanh nghiệp có tính chất quyết
định đến khả năng cạnh tranh trong kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng nh hiện nay, doanh nghiệp nào biết
phát huy năng lực của mình thì sẽ chiến thắng trong cuộc chạy đua trên thơng trờng.
18


Chơng 2
Thực trạng hoạt động kinh doanh
của ngành dệt may Việt Nam
2 .1 Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt May Việt Nam.
2 .1.1.Vai trò.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển
đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng hớng xuất
khẩu của đất nớc, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt
Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu
trong giai đoạn đầu phát triển của các nớc, xuất khẩu hàng dệt may đem lại

nguồn thu ngoại tệ để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở
cho nền kinh tế cất cánh.
Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thờng mở đờng cho sự xuất
hiện của một chiến lợc phát triển định hớng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thất
bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại
có tính thâm căn cố đế trong nớc và sự bất lực, không phát huy đợc lợi thế so
sánh tiềm năng.
Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nớc, trong giai đoạn phát triển dệt may
thờng đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho ngời
lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành
công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã
hội.
Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các
ngành công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của
nền kinh tế nó sẽ cần một lợng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực
khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu t phát triển các ngành công nghiệp này.
Tại các nớc đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần
phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt
nh bông, đay, tơ tằm và là phơng tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nớc công nghiệp phát triển, công nghiệp
dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, dáp ững nhu cầu ngày càng cao, đa

19


dạng, phong phú của ngời tiêu dùng.
2 .1.2 . Đặc điểm
Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay, còn những
hoạt động thủ công truyền thống nh thêu thùa, đan lát thì đã có từ lâu. Theo nột
số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may

này bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định đợc thành lập vào năm 1889.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn,
đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại của
Châu Âu đã đợc thành lập. Trong thời kỳ này tại miền Bắc, các doanh nghiệp
Nhà nớc sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu, cũng đã đợc thành lập.
Mặc dù từ những năm 1970 sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát
triển quan trọng hớng về xuất khẩu mới bát đầu.
Vì vậy, công nghiệp dệt may có những đặc điểm sau.
-Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một
trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có
những đặc trng riêng biệt ảnh hởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Nghiên
cứu những đặc trng riêng biệt của thơng mại thế giới hàng dệt may là một trong
những yếu tố quan trọng cần thiết ddể tăng cờng tính cạnh tranh của sản phẩm và
đảm bảo xuất khẩu thành công trên thị trờng quốc tế. Một số đặc trng đó là:
+Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tợng
tiêu dùng - ngời tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo,
khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác sẽ có nhu cầu rất khác
nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trờng để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của
từng nhóm ngời trong các bộ phận thị trờng khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
+Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thờng xuyên thay đổi mẫu
mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng đợc nhu cầu thích đổi mới, độc đáo
và gây ấn tợng của ngời tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ đợc sản phẩm, việc am hiểu
các xu hớng thời trang là rất quan trọng.
+Vấn đề nhã mác cũng là một trong những đặc trng nổi bật trong buôn bán
hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo đợc nhãn hiệu hàng hoá của
riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thờng là yếu tố chứng
nhận chất lợng hàng hoá và uy tín của ngời sản xuất, đây là vấn đề quan tâm
trong chiến lợc của sản phẩm vì ngời tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn
rất coi trongj chất lợng sản phẩm.

20


+Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải
căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trờng mà cung
cấp hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng.
Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lu ý trong buôn bán hàng dệt
may vì nó ảnh hởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trờng tiêu thụ chio sản phẩm.
-Về sản xuất: Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản
đơn, vốn đầu t ban đầu không quá lớn nhng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản
xuất dệt may thờng phát triển mạnhvà có hiệu quả rất lớn đối với các nớc đang
phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi một nớc
trở thành nớc công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh
trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vơn tới những ngành công nghiệp
khác có hàm lợng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận. Công
nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nớc kém phát triển hơn. Lịch
sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công
nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển
dịch về lợi thế so sánh. Nh vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn
tại ở những nớc công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao
hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của Việt Nam đã có những tiến
bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế
giới.
-Về thị trờng: Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng đợc bảo
hộ chặt chẽ. Trớc khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng
đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản
phẩm dệt may đợc điều chỉnh theo các thể chế thơng mại đặc biệt và nhờ đó
phần lớn các nớc nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lợng để hạnh chế hang dệt
may nhập khẩ. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn

so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó ảnh hởng rất lớn
đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới.
2 .2.Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
Theo ớc tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1999 có thể đạt 1650
1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1998. Với tốc độ phát triển của ngành
dệt may nh hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1900 2000 triệu
USD vào năm 2000 là có thể trở thành hiện thực
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam đợc xuất khẩu sang hơn 40 nớc trên thế
21


giới Trong đó xuất khẩu sang các nớc EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nớc ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999 kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may tại thị trờng hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so
với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị
trờng có hạn ngạch.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đợc ký kết ngày
15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bớc tiến quan trọng
trong phát triển ngành dệt may nớc ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu
sang thị trờng EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân
hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam EU giai
đoạn 1998 2000 đợc ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt
may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với
mức tăng trởng 3%-6%/năm
Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trờng lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt
Nam, loại thị trờng cần hạn ngạch gồm có 10 nớc, trong đó có 9 nớc thuộc EU.
Những nớc trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%),
Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%7%)
Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam đợc tổng
hợp qua ngững vấn đề sau:

2 .2.1 .Về sản lợng.
Số liệu có đợc chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9%
tổng sản lợng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt
may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dẹt trong tổng sản lợng của ngành công
nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%).
Ngoài ra số liệu cũng cho thấy sản lợng sợi tăng chậm, mặc dù sản lợng
năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lợng vải thể hiện một xu hớng cũng không
sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993 sản lợng đã tăng lên một cách rõ rệt nhng đến
năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản
lợng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ
tăng trởng đợc thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu (xem bảng 1)

22


Bảng 1: Sản lợng của ngành dệt may 1991-1997.
Mặt hàng

1991

1992

1993

1994

1995

1996


Sợi (1000 tấn)

40

44

38

44

50

57

Vải (triệu mét)

180

272

215

228

221

281

Quần áo (triệu cái)


100

104

91

121

127

200

1997

-Số liệu về sản lợng sản
phẩm.

-Giá trị tổng sản lợng
(tỷ đồng- giá cố định)
Dệt

2.859 3.800 5.278 6.853 9.361 1051
8

May

585

1131
7


700 1.350 3.411 3.411 4.270 5.125

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ công nghiệp.
2 .2.2 . Về loại hình sở hữu:
Đối với ngành dệt, doanh nghiệp Nhà nớc chiếm khoảng 60% tổng sản lợng
của ngành năm 1996, trong khi đó doanh nghiệp t nhân chiếm khoảng 24% và
đầu t nớc ngoài chiếm khoảng 16% .
Ngành may, đầu t nớc ngoài chiếm một tỷ lệ tơng tự là 15 %, trong khi đó
doanh nghiệp t nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và doanh nghiệp Nhà
nớc chiếm 36% . Nét đặc trng không bình thờng của tỷ trọng chia theo loại hình
sở hữu đó là khu vực t nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt may của Việt
Nam. Tại phần lớn các nớc có nền kinh tế thị trờng , khu vực này thờng chi phối
ngành công nghiệp dệt may. Đồng thời vẫn còn có sự tồn tại của bộ phận lớn
doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam, điều này phản ánh dấu tích một thời của nền
kinh tế kế hoạch tập trung cùng với những tính chất cũ của chúng trong thời kỳ
đổi mới. Nh vậy, việc cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực t
nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành
dệt may.
2 .2.3 . Đầu t nớc ngoài :
Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bớc đầu thực hiện tự do hai chính sách về
FDI, các dự án đầu t nớc ngoài đợc phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm
1993 trở lại đây, đầu t nớc ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhng năm 1997 và
năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nớc ngoài đã hấp dẫn
23


các nhà đầu t. Kéo sợi, dệt vải và may mặc đợc coi là những bộ phận chính thu
hút đợc nguồn vốn đầu t nớc ngoài. Các nớc và vùng lãnh thổ Đông á là những
nhà đầu t chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm

90% tổng đầu t vào ngành dệt may.
Sau 10 năm ban hành Luật Đầu T nớc ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178
dự án dệt may đợc cấp giấy phép với vốn đầu t đăng ký là 1.794,65 triệu USD,
trừ 33 dự án đã giải thể trớc thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số
vốn đầu t là 1.628,192 triệu USD. Trong đó:
+Ngành dệt: Trừ 12 dự án đã bị giải thể, ngành dệt có 61 dự án với tổng số
vốn đầu t đăng ký là 1.47,88 triệu USD, trong đó có 30 dự án sản xuất sợi, dệt
vải, dệt kim ; 10 dự án dệt vải lớn, đầu t đồng bộ từ sản xuất vải tới in , nhuộm
hoàn tất; 3 dự án dệt tơ tằm, lụa; 3 dự án nhuộm; 4 dự án dệt khăn bông và 11 dự
án dệt len, thảm. Trong các dự án trên có 40 dự án ( chiếm 66% so với tổng số dự
án ) đang hoạt động với tổng số vốn đầu t 1.431,11 triệu USD, gồm 5 dự án đang
xây dựng cơ bản và 35 dự án đã đa vào hoạt động .
Về hình thức đầu t, số dự án 100% vốn nớc ngoài có xu hớng tăng lên trong
những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền
cơ sở hợp đồng giảm đi.
Nớc đầu t lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với 16 trong 40 dự án đang
hoạt động và tổng số vốn đầu t lên tới677,268 triệu USD; Malaysia 4dự án với
tổng số vốn đầu t 477,134 triệu USD, Đài Loan 11 dự án với số vốn đầu t
137,162 triệu USD, các dự án dệt phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam 37
trong tổng số 40 dự án đang hoạt động, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh 13 dự
án với vốn đầu t 723,429 triệu USD, và Đồng Nai- 9dự án với vốn đầu t 735,875
triệu USD.
Ngành may mặc : trừ 21 dự án đang xây dựng cơ bản, 47 dự án đã đi vào
sản xuất, còn lại đang làm thủ tục xây dựng cơ bản.
Ngành may không có hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng mà
chỉ theo hai hình thức Liên doanh và 100% vốn nớc ngoài. Với u thế đầu t của
17 nớc, trong đó có Đài Loan đứng đầu với 23 dự án với tổng số vốn đầu t 56,43
triệu USD, Hàn Quốc 14 dự án với tổng số vốn đầu t là 21,843 triệu USD, Nhật
Bản 10 dự án với tổng số vốn đầu t 20,374 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với
số vốn đầu t 19, 206 triệu USD, Đức 4 dự án với vốn đầu t 29,058 triệu USD.

Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố
Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu t 104, 397 triệu USD;
24


Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu t 36,679 triệu USD; Bình Dơng 8 dự án
với số vốn đầu t 16,2 triệu USD. . .
2 .2.4 Về thiết bị
Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ
PE) với chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi
chải kỹ, 43200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000
máy, xí nghiệp Quốc doanh địa phơng - 3200 máy và Hợp tác xã t nhân 29000
máy, các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ
nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm cũng nh công nghệ in hoa
khác nhau, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900 tấn sản phẩm / năm, bao
gồm 19500 tấn dệt kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm .
Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng
bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là
máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu
thị trờng Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số
chất lợng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao
dùng cho dệt kim và vải cao cấp dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu
phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi
phí cao.
Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lợng và chất
lợng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy
8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên
dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng
loại mặt hangf nh máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn
kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không ... Trong từng công đoạn sản

xuất may cũng đợc trong bị thêm máy mọc mới với tính năng công dụng mới
nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lợng sản phẩm trên mỗi công
đoạn của chu trình sản xuất.
Về công nghệ:
Trong một số năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng
công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất
lợng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và
kiểm tra chất lợng sợi, trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp,
giảm trọng lợng... nhiều sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt
đầu dc sản xuất và tạo uy tín trên thị trờng: trong khâu dệt kim, do phần lớn máy
móc đợc nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ
25


×