Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Luận văn một số giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.95 KB, 48 trang )

1

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 10 năm đổi mới đất nớc ta đã đạt đợc rất nhiều thành tựu to lớn
về kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học-kỹ thuật...Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
tế, nớc ta đã thoát khỏi khủng hoảng, trong nhiều năm liên tiếp đã đạt đợc tốc độ
tăng trởng tơng đối cao và ổn định, một nền kinh tế thị trờng theo định hớng
XHCN có sự quản lý của Nhà nớc đã thay thế về cơ bản nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung. Đó là kết quả của việc đổi mới cơ chế kinh tế, hoàn thiện quan hệ
sản xuất để phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản xuất, phát huy sức mạnh
của các thành phần kinh tế trong cả nớc. Việc thừa nhận sự đa dạng của các
thành phần kinh tế đã khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nớc, doanh nghiệp liên doanh
với nớc ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài, khuyến khích mọi ngời tham
gia kinh doanh, phát triển sản xuất theo quy định của pháp luật.
Thực tế trong những năm qua, kinh tế ngoài quốc doanh đã thể hiện đợc
vai trò của mình trong nền kinh tế, là nơi huy động phát huy các nguồn lực của
nhân dân, tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nớc. Song
trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới các doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng sẽ
phải đối đầu với những thách thức to lớn. Đó là việc hoà nhập vào hệ thống pháp
luật chung của thế giới, khu vực... Nhng thách thức lớn hơn cả lại bắt nguồn từ
sức ép cạnh tranh của các đối tác mà họ hơn hẳn ta về nhiều mặt nh tài chính,
công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế.
Hội nhập đem lại cho ta rất nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức. Để
tận dụng đợc những cơ hội và hạn chế những thách thức đó phải có sự kết hợp
giữa các cơ quan quản lý Nhà nớc và các doanh nghiệp trong từng bớc đi. Đó là
sự phù hợp giữa kế hoạch phát triển của doanh nghiệp với kế hoạch chung của
đất nớc, giữa các chính sách của doanh nghiệp với chính sách của Nhà nớc.
Thế nhng hiện nay hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn


nhiều hạn chế, trong đó có cả sự cản trở từ phía Nhà nớc tới hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp: Doanh nghiệp gặp khó khăn trong huy động vốn,
thuê đất, xin giấy phép xây dựng, các vấn đề về thuế, khó tiếp cận với thông tin
về thị trờng trong nớc và quốc tế...


2

Do vậy các cơ quan quản lý Nhà nớc phải làm thế nào để cho các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng phát
huy đợc vai trò của mình để đa nền kinh tế nớc ta sang một trang sử mới về đổi
mới và phát triển. Đó là lý do cho sự ra đời của đề tài Một số giải pháp hoàn
thiện môi trờng vĩ mô nhằm nâng cao khả nămg cạnh tranh của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Đề tài đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng nh về thực
tiễn trong quá trình nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng và mở cửa
để hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay. Nội dung nghiên cứu của đề tài
nhằm làm sáng tỏ những vấn đề sau:
- Đặc điểm, vị trí và vai trò của khu vực doanh ngiệp ngoài quốc doanh
trong nền kinh tế nớc ta.
- Cạnh tranh và vai trò của nó đối với các doanh ngiệp ngoài quốc doanh
và nền kinh tế nớc ta.
- Hạn chế của môi trờng kinh doanh và những ảnh hởng của nó tới năng
lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh .
- Vai trò của Nhà nớc trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh ngiệp ngoài quốc doanh.
Việc lý giải những vấn đề trên tạo điều kiện tìm ra những giải pháp nhằm
thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh nói riêng và
của cả nền kinh tế nớc ta nói chung.

3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vào những ảnh hởng của môi trờng kinh
doanh tới năng lực cạnh tranh của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh ở nớc ta
hiện nay. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên khu vực doanh ngiệp
ngoài quốc doanh mà chúng em nghiên cứu trong đề tài này chỉ là các doanh
ngiệp không bao gồm yếu tố nớc ngoài đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
do Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1
tháng1 năm 2000.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng em có sử dụng một số phơng pháp nh
phơng pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phơng pháp duy vật biện chứng, ph-


3

ơng pháp nghiên cứu tài liệu và đàm thoại trực tiếp với một số doanh ngiệp
ngoài quốc doanh.

Kết cấu của đề án nghiên cứu khoa học:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề án bao gồm 3 phần:
Phần I Tổng quan
PhầnII Thực trạng môi trờng vĩ mô ở nớc ta

hiện

nay
PhầnIII Một số giải pháp trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh



4

Phần i
Tổng quan
1. Lý luận chung về cạnh tranh.
1.1 Khái niệm canh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm thờng đợc dùng trong khoa học kinh tế nhng
không đợc định nghĩa cụ thể và rõ ràng.
Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể đợc hiểu là sự ganh đua giữa
các nhà doanh nghiệp trong việc giành một yếu tố sản xuất hoặc khách hàng
nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trờng.
Cạnh tranh có thể đa lại lợi ích cho ngời này và thiệt hại cho ngời khác.
Song dới góc độ lợi ích toàn xã hội cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Khi
nhắc đến cạnh tranh, có hai khái niệm luôn đi theo nó là cạnh tranh hoàn hảo và
cạnh tranh không hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh xã hội khi không có một hãng nào có
thể gây ảnh hởng riêng đối với giá cả trên thị trờng, tất cả các hãng đều nhằm
đến mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh không hoàn hảo còn gọi là cạnh tranh bất hợp pháp. Cạnh
tranh không hoàn hảo là những hành vi cạnh tranh bằng những công cụ bất hợp
pháp hoặc không hợp với đạo lý luân thờng của xã hội gây thiệt hại cho ngời
tiêu dùng hoặc cho ngời cạnh tranh khác.
Cạnh tranh mang tính độc quyền là cạnh tranh giữa nhiều đơn vị cùng trên
một thị trờng với những sản phẩm khác biệt nhau (khác biệt về giá cả, địa d, chất
liệu, thời gian cung ứng, ngời cung ứng, dịch vụ cung ứng ). Sự khác biệt này tạo
điều kiện cho mỗi doanh nghiệp có thể có một vị trí độc quyền (tơng đối) trong
phạm vi nhỏ.
1.2 Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những đặc trng cơ bản và là động lực phát triển
của nền kinh tế thị trờng.Trong nền kinh tế thị trờng, khả năng cạnh tranh là

điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế
của doanh nghiệp trên thị trờng, vì thế từng doanh nghiệp cố gắng tìm cho mình
một chiến lợc cạnh tranh phù hợp để vơn tới vị thế cao nhất.
Trong những nền kinh tế thị trờng phát triển trên thế giới đều coi cạnh
tranh theo pháp luật là công cụ quan trọng của quản lý kinh tế, là cơ chế quan
trọng để huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh
tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng sau :


5

- Cạnh tranh sẽ bảo đảm việc điều chỉnh quan hệ cung cầu (quyền tự
chủ của ngời tiêu dùng).
- Cạnh tranh sẽ điều khiển sao cho những nhân tố sản xuất sẽ đợc sử
dụng vào những nơi có hiệu quả nhất, làm giảm thiểu tổng giá thành
sản xuất của xã hội.
- Dới điều kiện cạnh tranh là những tiền đề thuận tiện nhất làm cho sản
xuất thích ứng linh hoạt với sự biến động của cầu và công nghệ sản
xuất.
- Sự bóc lột dựa trên quyền lực thị trờng và việc hình thành thu nhập
không tơng ứng với năng suất sẽ bị cản trở bởi cạnh tranh, vậy cạnh
tranh sẽ tác động một cách tích cực đến việc phân phối và phân phối
lại thu nhập.
- Sự thúc đẩy đổi mới đợc coi là một chức năng cạnh tranh năng động
trong những thập kỷ gần đây.
1.3 Điều kiện để cạnh tranh
Từ khái niệm về cạnh tranh ngời ta có thể hình dung điều kiện để xuất
hiện cạnh tranh trong hoạt động kinh tế là:
1) Tồn tại một thị trờng.

2) Có tối thiểu hai thành viên ở bên cung hoặc ở bên cầu.
3) Mức độ đạt mục tiêu của thành viên này sẽ ảnh hởng đến mức độ đạt mục
tiêu của thanh viên khác.
Theo A.Smith, ngời đầu tiên đa ra những lý thuyết tơng đối hoàn chỉnh về
cạnh tranh. Ông cho rằng: điều kiện để canh tranh là phải bao gồm tự do hành
động cho mọi doanh nghiệp và các hộ gia đình, nghĩa là bảo đảm sự tự do cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp cũng nh sự tự do lựa chọn tiêu dùng của các hộ gia
đình. Thông qua cơ chế thị trờng, việc tận dụng tự do cạnh tranh để theo lợi ích
riêng dẫn đến việc mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận đợc những thành quả mà họ đã
cống hiến cho thị trờng. Nh vậy, sự hài hoà về lợi ích riêng đợc hình thành nh
thể thông qua sự sắp đặt của bàn tay vô hình.
Tuy vậy, khái niệm này không đồng nghĩa với việc bỏ mặc doanh nhân
mà nó đòi hỏi Nhà nớc phải tạo ra và bảo đảm một trật tự pháp lý làm khuôn
khổ cho quá trình cạnh tranh.
Điểm then chốt cho cạnh tranh trở thành động lực là môi trờng pháp luật
có hiệu lực đảm bảo đa ra mọi cơ hội cho mọi tác nhân có thể tham gia vào thị
trờng và tất nhiên là cả rút khỏi thị trờng.
Cạnh tranh chỉ phát huy hiệu quả trong một môi trờng bình đẳng. ở đây,
Nhà nớc đóng một vai trò vô cùng lớn bằng việc tạo ra một cơ chế chính sách


6

thống nhất, một môi trờng pháp luật ổn định, Nhà nớc tạo ra sân chơi chung cho
các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nói chung, cạnh tranh sẽ phát huy hiệu quả nếu nó hội tụ đầy đủ các điều
kiện của nó. Tuân thủ các quy luật kinh tế thị trờng, quy luật cạnh tranh...đồng
thời với những tác động của chính phủ nh tạo dựng một hệ thống thị trờng đồng
bộ: thị trờng vốn, thị trờng hàng hoá, thị trờng sức lao động, thị trờng thông tin,
thị trờng ngoại hối...

1.4 Kiểm soát cạnh tranh
Nền kinh tế thị trờng với những u điểm của nó vẫn còn những khuyết tật
không thể tránh khỏi: phát triển không ổn định, sự bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập và đặc biệt là sự tồn tại của thị trờng độc quyền đã phá vỡ quy
luật cạnh tranh, làm phơng hại đến lợi ích của toàn xã hội.
Vấn đề đặt ra là phải hạn chế độc quyền, khuyến khích cạnh tranh mà
điều này chỉ có Nhà nớc với những công cụ của mình mới có thể thực hiện đợc.
Đến lợt nó cạnh tranh cũng cần đợc kiểm soát trong khuôn khổ pháp luật.
Không thể vì chạy theo lợi nhuận mà một nhóm chủ thể nào đó sử dụng các thủ
đoạn làm phơng hại đến lợi ích các chủ thể khác hay của xã hội.
Với vai trò của mình, Nhà nớc phải đa ra các biện pháp nhằm khuyến
khích cạnh tranh, bảo vệ ngời tiêu dùng và giám sát độc quyền bằng cách:
- Kiểm soát hành vi của các hãng có khả năng và vị thế có thể khống
chế thị trờng.
- Kiểm soát sự sát nhập để ngăn ngừa quá trình độc quyền hoá.
- Kiểm soát và ngăn chặn các hành vi thoả thuận giữa các hãng nhằm
hạn chế cạnh tranh.
- Kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh.
2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vị trí của nó trong nền kinh tế
hiện đại.
2.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi đơn vị kinh doanh là một tổ
chức của những ngời sản xuất hàng hoá thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Họ đầu t vốn, thuê mớn và sử dụng lao động để sản xuất một loại hàng hoá hay
thực hiện một loại dịch vụ nhất định qua đó tìm kiếm lợi nhuận.Trong nền kinh
tế thị trờng, tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng
hoá chủ yếu là các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh bao gồm hoạt động
kinh doanh t nhân và hoạt động kinh doanh của Nhà nớc. Việc phân biệt hoạt
động kinh doanh t nhân với hoạt động kinh doanh của Nhà nớc căn cứ vào việc
ai là ngời tổ chức và chỉ đạo các hoạt động này.



7

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) là tổ chức kinh tế do cá nhân,
tổ chức đầu t vốn, thành lập và tổ chức quản lý theo qui định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
ở hầu hết các nớc trên thế giới hiện nay, các hình thức sở hữu thờng đan
xen nhau. Có nhiều doanh nghiệp trong đó vừa có yếu tố t nhân vừa có sự tham
gia của Nhà nớc.
ở Việt Nam trớc đây, t liệu sản xuất của một cơ sở sản xuất kinh
doanh(SX-KD) nào đó chỉ thuộc về một hình thức sở hữu duy nhất, sở hữu Nhà
nớc. Hội nghị trung ơng VI - Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam đã
xem xét lại các quan điểm cũ và khẳng định lại rằng: trong hoạt động SX-KD
các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất không ngăn cách nhau mà có nhiều loại
hình hỗn hợp, đan kết với nhau. Các doanh nghiệp quốc doanh có thể huy động
vốn cổ phần của các cá nhân và tổ chức khác. Còn các cơ sở SX-KD t nhân cũng
có thể liên kết với các doanh nghiệp quốc doanh nhằm mở rộng sản xuất. Do đó,
khu vực DNNQD không chỉ bao gồm các cơ sở SX-KD hoàn toàn thuộc sở hữu
t nhân mà bao gồm cả các cơ sở SX-KD có phần vốn góp của Nhà nớc nhng hoạt
động của chúng lại do một hay một nhóm t nhân tơ chức và chỉ đạo.
2.2 Các hình thức của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học phơng tây thì chỉ có hai hình
thức sở hữu trong hoạt động kinh doanh, đó là sở hữu công cộng và sở hữu t
nhân. Sở hữu t nhân đợc biểu diễn dới nhiều hình thức, trong đó ba hình thức sở
hữu t nhân chung nhất là: sở hữu một chủ, sở hữu nhóm hay đồng sở hữu, sở hữu
công ty.
- Sở hữu một chủ là hình thức sở hữu phổ biến và lâu đời nhất. Doanh
nghiệp sở hữu một chủ là doanh nghiệp do một cá nhân nắm quyền sở
hữu.

- Sở hữu nhóm là một nhóm gồm hai hay nhiều ngời với vai trò là các
thành viên đồng sở hữu cùng hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi
nhuận.
- Sở hữu công ty là một thực thể nhân tạo, không nhìn thấy đợc và chỉ
tồn tại trên giấy tờ pháp lý. Công ty là một pháp nhân và tách biệt hẳn
với các chủ sở hữu của nó.
Từ ba hình thức cơ sở hữu t nhân trên mà tơng ứng có các doanh nghiệp
sở hữu một chủ, doanh nghiệp sở hữu nhóm và doanh nghiệp thuộc hình thức sở
hữu công ty.
ở Việt Nam, phần đông các nhà kinh tế cho rằng có ba hình sở hữu trong
hoạt động kinh doanh là: sở hữu công cộng, sở hữu tập thể và sở hữu t nhân.


8

Trên cơ sở sở hữu t nhân và sở hữu tập thể, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh ở nớc ta bao gồm:
a. Doanh nghiệp t nhân
Doanh nghiệp t nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây là một hình thức sở hữu tơng ứng với hình thức sở hữu một
chủ ở các nớc trên thế giới. Doanh nghiệp t nhân không có t cách pháp nhân và
chịu chế độ trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh.
b. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên là công ty do một
tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Theo Điều 14 Nghị định 03/2000/NĐ-CP thì chủ sở hữu công ty phải là
một pháp nhân và có thể là: cơ quan Nhà nớc, đơn vị vũ trang, các pháp nhân
của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các loại

doanh nghiệp và các tổ chức khác theo qui định của pháp luật.
Nh vậy theo pháp luật, công ty TNHH một thành viên có thể là một doanh
nghiệp quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó là cơ quan Nhà nớc hay là một doanh
nghiệp ngoài quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó không phải là các cơ quan Nhà
nớc. Công ty TNHH hạn một thành viên là loại hình doanh nghiệp có t cách
pháp nhân nhng không có quyền phát hành cổ phiếu.
c. Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên
Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên là công ty đợc thành lập theo
sự góp vốn của nhiều thành viên. Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ
chức và tối đa là năm mơi, tối thiểu là hai. Công ty có t cách pháp nhân nhng
không có quyền phát hành cổ phiếu. Đây là loại hình công ty mà các doanh
nhân nớc ta a thích và hay thành lập.
d. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Vốn điều lệ của công ty đợc chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ
phần.
- Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ chức đợc gọi là cổ đông.
Số lợng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lợng tối đa.
- Công ty có t cách pháp nhân và có quyền phát hành các loại chứng
khoán.
d. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có đặc điểm:


9

- Công ty phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài thành viên hợp
danh công ty có thể có thnàh viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải
là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp. Còn thành
viên góp vốn có thể là cá nhân hay tổ chức.

- Công ty không có t cách pháp nhân và không có quyền phát hành hay
kinh doanh chứng khoán.
f. Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những ngời lao động có nhu cầu,
có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực
hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất. Hợp tác xã thuộc loại hình sở hữu
tập thể.

Hệ thống
doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Doanh
nghiệp
t nhân

Công
ty
TNHH

Công
ty
cổ
phần

Công
ty
hợp
doanh


Hợp
tác


Hình 1. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
ở nớc ta hiện nay.
2.3 Vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế
nớc ta.
Trong nền kinh tế của các nớc trên thế giới, vị trí và vai trò của DNNQD
luôn thay đổi qua các giai đoạn lịch sử cùng với sự tăng giảm vai trò của chính
phủ đối với hoạt động kinh doanh. Qua nhiều năm, ngời ta đã chứng minh những
u thế của hoạt động kinh doanh t nhân so với hoạt động kinh doanh của khu vực
Nhà nớc và nhiều nớc đã thực hiện quá trình t nhân hoá. Hiện nay ở hầu hết các
nớc trên thế giới, khu vực kinh tế t nhân chiếm tỷ trọng lớn về tổng sản phẩm
quốc nội(GDP), về vốn đầu t và ngày càng trở thành bộ phận có vị trí lớn và
quan trọng đối với nền kinh tế mỗi nớc.


10

a. Vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
Qua phần trên, ta thấy rằng doanh nghiệp ngoài quốc doanh(DNNQD) là
một bộ phận cấu thành không thể thiếu đợc trong nền kinh tế ở hầu hết các nớc
trên thế giới. Sự phát triển của các hình thức tổ chức kinh tế: kinh tế Nhà nớc,
kinh tế t nhân trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau là một tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, ở nớc ta trớc đây lại không công nhận sự tồn tại của khu vực
kinh tế t nhân làm cho khu vực này phải hoạt động chui hoặc đội lốt kinh tế tập
thể. Việc coi kinh tế t nhân là thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và muốn
tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội chỉ cần cải tạo nhanh thành phần kinh tế đó đã
dẫn đến tình trạng gần nh xoá sổ khu vực kinh tế t nhân, phát triển ồ ạt các xí

nghiệp quốc doanh dẫn đến nền kinh tế đình trệ, kém phát triển và đời sống
nhân dân gặp vô cùng khó khăn. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) là một bớc
ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế ở nớc ta. Đại hội đã xác định việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi lực lợng sản xuất, cải
tiến cơ chế quản lý kinh tế là một chiến lợc phát triển kinh tế lâu dài. Đến Đại
hội Đảng lần thứ VII (1991) đờng lối đổi mới kinh tế của Đảng đợc khẳng định
lại một lần nữa Chúng ta chủ trơng thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 cũng đã ghi
nhận sự tồn tại của sở hữu t nhân (điều 15) và khuyến khích các thành phần kinh
tế ngoài Nhà nớc phát triển (điều 21).
Nh vậy, việc phát triển khu vực kinh tế t nhân trong đó có DNNQD là một
tất yếu và có vị trí quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến lợc là giải
phóng mọi lực lợng sản xuất nhằm phát triển SX-KD, đảm bảo dân giàu, nớc
mạnh nghĩa là huy động mọi nguồn vốn, lao động và tài năng của ngời dân vào
hoạt động SX-KD, tạo công ăn việc làm cho ngời dân, nâng cao thu nhập cho
ngời lao động và cho ngân sách Nhà nớc.
b. Vai trò của doanh ngiệp ngoài quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
Từ khi nền kinh tế nớc ta chuyển đổi sang cơ chế mới, khu vực doanh
ngiệp ngoài quốc doanh đợc chấp nhận chính thức về mặt pháp lý thì khu vực
này đã từng bớc hình thành, phát triển và hoạt động trên nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế nh công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ với mức độ khác nhau
và dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.
Nếu nh năm 1991 chỉ có 123 doanh ngiệp đăng ký kinh doanh theo luật
thì năm 1993 là 12.131 doanh ngiệp và đến nay là trên 60.000 doanh nghiệp.
Nộp ngân sách của khu vực này từ 51 tỷ đồng năm 1991 nâng lên 1.051 tỷ đồng
vào cuối năm 1994. Số lao động bình quân trong các doanh ngiệp là 25 ngời vào
thời điểm giữa năm 1998, trong đó có một số ít doanh ngiệp có số lao động lên
tới 2.000, 5.000 thậm chí là 10.000 ngời. Vào năm 1999, mặc dù nền kinh tế có



11

nhiều khó khăn do ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới
thì khu vực này vẫn tạo ra hơn 7% GDP của cả nớc và cho đến nay con số này là
khoảng 9%. Qua số liệu trên có thể thấy vai trò tích cực của các doanh ngiệp
ngoài quốc doanh đó là:
- Thu hút và giải quyết việc làm cho lực lợng lớn lao động, giảm bớt sự
căng thẳng dôi thừa lao động trong xã hội, góp phần tạo sự ổn định
tình hình xã hội.
- Sản xuất một khối lợng sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng một phần
nhu cầu về hàng tiêu dùng của các tầng lớp dân c, mặt khác đóng góp
cho Nhà nớc một khoản ngân sách không nhỏ góp phần tăng ngân sách
Nhà nớc.
- Trong nền kinh tế thị trờng, các DNNQD phải bằng mọi cách hiện đại
hoá kỹ thuật, công nghệ để cạnh tranh với các doanh ngiệp trong nớc,
đồng thời cạnh tranh với các nớc trong khu vực và trên thế giới về mặt
hàng, mẫu mã, giá cả nghĩa là nâng cao chất lợng hàng hoá sản xuất
ra. Đó chính là sự góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc.
3. Môi trờng vĩ mô và ảnh hởng của các yếu tố môi trờng vĩ mô
Mọi sự vật hiện tợng đều tồn tại và phát triển trong một môi trờng nhất
định, chịu sự tác động của các yếu tố môi trờng. Năng lực cạnh tranh của các
DNNQD cũng vậy, nó chịu sự tác động của môi trờng vĩ mô từ đầy đủ mọi phơng diện: chính trị, pháp luật, kinh tế, khoa học công nghệ...
a. Môi trờng chính trị - pháp lý
Môi trờng chính trị - pháp lý là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát
triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Môi trờng chính trị - pháp lý bao
gồm các quan điểm, đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng, hiến pháp, luật,
các văn bản dới luật. Trong đó quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế nhiều
thành phần, công nhận sự tồn tại khách quan và vai trò tích cực của thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát

triển của các DNNQD. Từ đó mới tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các
doanh nghiệp trong nớc cũng nh sự cạnh tranh với nớc ngoài.
Xuất phát từ quan điểm chính trị, Nhà nớc đa ra các chính sách kinh tế xã
hội và ban hành luật. Một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh chặt chẽ sẽ tạo nên một
cơ chế, môi trờng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp đồng
thời hạn chế các tiêu cực trong quá trình cạnh tranh, cũng chính việc thiếu một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đã gây ra hiện tợng tiêu cực xã hội nh buôn lậu
chốn thuế lừa đảo tham nhũng, làm hàng giả...


12

b. Môi trờng kinh tế
Môi trờng kinh tế đợc phản ánh qua tốc độ tăng trởng kinh tế chung, về cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng, tỷ lệ lạm phát. Những yếu tố này có đảm bảo đợc ổn định cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển hay không đợc Nhà nớc
thực hiện thông qua các công cụ quản lý, trong đó các chính sách kinh tế vĩ mô
là một công cụ quan trọng, bao gồm các chính sách chủ yếu sau: chính sách tài
chính tín dụng, chính sách tiền tệ, chính sách về giá cả, vế đất đai, thuế và đầu t
phát triển, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách thơng mại...
c. Môi trờng khoa học kỹ thuật - công nghệ
Kỹ thuật - công nghệ mới bắt nguồn từ thành quả của công cuộc nghiên
cức khoa học đem lại những phát minh sáng chế sáng tạo làm thay đổi bộ mặt
thế giới và là một nhân tố quan trọng trong việc tạo ra thời cơ, cơ hội thị trờng
không hạn chế cho các doanh nghiệp. Một nền kinh tế với xuất phát điểm thấp
và đang chuyển mình nh Việt Nam thì khoa học kỹ thuật - công nghệ là một yếu
tố vô cùng quan trọng.
4. Kinh nghiệm một số nớc về vận dụng môi trờng vĩ mô đối với việc nâng
cao khả năng canh tranh của các DNNQD.
a. Kinh nghiệm của Đài Loan
Với chiến lợc thay thế nhập khẩu, trong thời gian đầu nền kinh tế Đài

Loan đã đạt tốc độ tăng trởng bình quân 8,2%. Với một đất nớc không đông dân
và sức mua yếu, chiến lợc này chỉ đạt đợc thành công bớc đầu và sau một thời
gian tốc độ này đã giảm dần. Điều đó đã đa chính phủ Đài Loan đến chỗ phải
hành động để thay đổi về cơ cấu và t duy kinh tế với việc chuyển hớng chiến lợc
hớng ra thị trờng quốc tế. Sự thay đổi này là đúng hớng và phù hợp, thể hiện ở
hiệu quả đạt đợc với mức tăng trởng đạt bình quân 9,8%/năm. Cùng với sự thay
đổi chiến lợc này là sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế t nhân. Trớc
đây chính phủ Đài Loan ra sức kìm hãm khu vực t nhân, mọi nhà máy, xí
nghiệp, ngân hàng đều đợc quốc hữu hoá. Tuy nhiên vào cuối những năm 60,
khu vực kinh tế t nhân đã phát triển mạnh mẽ và đã nắm giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Sự phát triển này một phần là nhờ sự hỗ trợ của chính phủ về
cơ sở hạ tầng, về việc sử dụng các nguồn vốn để cải tạo và mở rộng các ngành
công nghiệp t nhân, sự hỗ trợ về công nghệ kĩ thuật, những biện pháp khuyến
khích t nhân, hỗ trợ về thông tin, về dự báo tình hình thị trờng... Chẳng hạn nh
về mặt hàng nông sản, Chính phủ đã hỗ trợ thông tin về thị trờng xuất khẩu và kĩ
thuật phát triển mặt hàng này. Và với hệ thống hỗ trợ nh vậy, doanh nghiệp có
thể yên tâm về thị trờng đầu ra mà không lo ngại tình trạng d thừa hay giá không


13

ổn định. Có thể nói rằng phần lớn những khó khăn của các doanh nghiệp đã đợc
tháo gỡ và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp đã đợc nâng lên đáng kể.
b. Kinh nghiệm Hàn Quốc
Trong những năm 50, tốc độ tăng trởng của Hàn Quốc luôn ở mức thấp so
với một số nớc Đông á. Mời năm tiếp theo, những năm 60, tốc độ tăng trơng đạt
9,5% với tỉ lệ xuất khẩu trên GDP tăng mạnh. Điều này thể hiện sự thay đổi
chiến lợc hớng mạnh vào xuất khẩu. Trong giai đoạn này, chính phủ độc tài của
Park Chung Hee tuy tập trung khá nhiều quyền lực vào tay nhà nớc nhng đồng
thời cũng có sự hỗ trợ thúc đẩy khu vực t nhân. Trớc khi chính phủ đa ra một

quyết định hay ra chính sách có ảnh hởng tới khu vực t nhân thì đều có sự tham
gia đóng góp của khu vục này. Chính phủ cũng tham khảo ý kiến các nhà kinh tế
t nhân nên phát triển ngành công nghiệp nào, nên hỗ trợ cho ngành nào. Bên
cạnh đó chính phủ còn cung cấp các dịch vụ nghiên cứu và dịch vụ kĩ thuật, cơ
sở hạ tầng giá rẻ. Sự hợp tác và hỗ trợ trên rất có hiệu quả thể hiện qua sự phát
triển vợt bậc của những ngành đợc khuyến khích (ngành điện tử, điện gia dụng,
ngành đóng tàu...). Thực tế đã chứng minh mặc dù có sự can thiệp của chính phủ
nhng vấn đề tham nhũng, chậm chạp trong hành chính và cơ cấu khuyến khích
không hợp lý tồn tại rất ít. Điều này đã thể hiện vai trò quan trọng của chính
phủ.


14

Phần ii
Thực trạng môi trờng vĩ mô
ở nớc ta hiện nay
Các DNNQD cũng giống nh tất cả các doanh nghiệp khác đều nằm trong
một môi trờng môi trờng vĩ mô nhất định và chịu sự tác động qua lại của các yếu
tố thuộc môi trờng này. Mối quan hệ giữa các DNNQD với môi trờng vĩ mô có
thể đợc thể hiện theo sơ đồ sau:

Môi trường
pháp luật
Khách hàng

Môi trường
VH-XH

Doanh

nghiệp ngoài
quốc doanh

Nhà
phân phối

Nhà cung

Đối

cấp

thủ
cạnh tranh

Môi trường
ờng
KH-CN

Môi trư
kinh tế

Hình 2. Sơ đồ mối quan hệ giữa DNNQD với môi trờng
Các yếu tố của môi trờng vĩ mô không chỉ ảnh hởng đến hoạt động của
các DNNQD thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách mà còn tác động đến
mối quan hệ giữa các DNNQD với các tổ chức khác nh các nhà cung cấp, nhà
phân phối, đối thủ cạnh tranh, khách hàng... Dù dới hình thức nào thì các doanh
nghiệp cũng chịu tác động rất lớn từ môi trờng và Nhà nớc là ngời có ảnh hởng
mạnh nhất đến việc tạo ra môi trờng đó.
Môi trờng vĩ mô đợc xét trên hai phơng diện: Môi trờng pháp luật và Môi

trờng kinh tế.

A. Về môi trờng pháp luật


15

Môi trờng pháp luật là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của
các loại hình doanh nghiệp. Một môi trờng pháp luật ổn định, thuận lợi và bình
đẳng sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp yên tâm đầu t vào SX-KD. Trong những
năm qua, nhiều văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về kinh tế nói riêng đã
đợc ban hành nhằm thể chế hoá đờng lối đổi mới kinh tế của Đảng, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp đặc biệt là
khu vực DNNQD.
Năm 1990, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp t nhân đợc ban hành. Hai
luật này đã tác động tích cực tới sự phát triển của khu vực DNNQD. Theo thống
kê, đến năm 1998 đã có gần 40.000 doanh nghiệp đợc thành lập với tổng số vốn
đăng ký khoảng 21.000 tỷ đồng, tạo hơn 500.000 chỗ làm việc mới. Sự xuất hiện
và phát triển của khu vực doanh nghiệp này đã góp phần đáng kể vào quá trình
đổi mới và phát triển kinh tế của nớc ta. Sau 10 năm đổi mới, số lợng doanh
nghiệp tham gia thị trờng đã tăng lên đáng kể, cơ chế thị trờng đã hoạt động với
qui mô và cờng độ lớn hơn, mức độ mở cửa của nền kinh tế nớc ta với bên ngoài
cũng đã tăng lên rất nhiều. Trong khi đó, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp t
nhân do đợc ban hành từ những năm đầu đổi mới nên đã không còn phù hợp với
giai đoạn phát triển mới của đất nớc, làm giảm đi tính linh hoạt của các nhà đầu
t trong việc lựa chọn hình thức và cơ hội đầu t phù hợp với khả năng của họ, cha
tạo điều kiện phát huy tối đa các nguồn nội lực cho phát triển kinh tế đất nớc.
Đồng thời, đó cũng là nguyên nhân làm giảm hiệu lực quản lý và giám sát bằng
pháp luật của Nhà nớc.
Để khắc phục những hạn chế của hai luật kể trên thì Luật doanh nghiệp

đã ra đời. Đợc QH thông qua ngày 12/6/1999 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày
1/1/2000, Luật doanh nghiệp đã tạo một bớc tiến dài trong việc hình thành một
sân chơi bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, luật mới cũng đã đánh
dấu một bớc tiến dài về chất từ chỗ qui định ngời kinh doanh phải xin phép
chuyển sang một cách tiếp cận mới cho phép mọi ngời đợc làm những gì mà
pháp luật không cấm. Những cản trở cho việc thành lập doanh nghiệp đã đợc rỡ
bỏ, bãi bỏ yêu cầu về vốn pháp định. Do đó sau hơn 2 năm thi hành Luật doanh
nghiệp (tính đến 1/5/2002) đã có 42.567 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập
với số vốn mới đăng ký xấp xỉ 50.000 tỷ đồng, đồng thời tạo ra khoảng 700.000
chỗ làm việc mới. Các doanh nghiệp cũng tăng thêm đầu t, mở rộng thêm qui
mô và địa bàn kinh doanh dới nhiều hình thức nh mở thêm chi nhánh, văn phòng
đại diện, bổ xung thêm vốn đầu t...(cả nớc đã có khoảng 9200 chi nhánh và 900
văn phòng đại diện đăng ký thành lập). Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về số
lợng doanh nghiệp thì các ngành nghề kinh doanh đợc đăng ký cũng đa dạng và
phong phú hơn cũ rất nhiều. Đa số doanh nghiệp đã nhận thức đợc sự thay đổi về


16

quyền kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh
doanh trên nguyên tắc đợc kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Cái đợc lớn nhất của Luật doanh nghiệp là đã tạo bớc đột phá trong việc
cải cách thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nớc đối với doanh nghiệp ở nớc
ta. Trong 2 năm qua, các cơ quan Nhà nớc đã bãi bỏ 175 loại giấy phép khác
nhau (tức khoảng 44% tổng số giáy phép kinh doanh đã tồn tại trong nền kinh
tế), thể hiện sự thay đổi căn bản về t duy và phơng thức quản lý nhà nớc theo hớng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tách bạch rõ quyền SX-KD của doanh
nghiệp với hoạt động quản lý của Nhà nớc.
Tuy nhiên, nhận thức và tổ chức chỉ đạo Luật doanh nghiệp trong không ít
cơ quan thuộc hệ thống cơ quan Nhà nớc, nhất là ở cấp chính quyền địa phơng
còn thụ động, cha đầy đủ và kém nhiệt tình, thậm chí có nơi còn trì hoãn, làm

trái. Cho đến nay vẫn còn một số văn bản quan trọng liên quan đến triển khai
Luật doanh nghiệp cha đợc ban hành. Một số nơi đang làm trái với qui định của
Luật doanh nghiệp bằng cách ra lệnh tạm ngừng hoặc không cấp đăng ký kinh
doanh đối với một số ngành nghề không thuộc đối tợng cấm kinh doanh, đặt
thêm các thủ tục hoặc yêu cầu nộp thêm hồ sơ giấy tờ trái qui định của Luật,
không cấp hoặc yêu cầu rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh
nghiệp đang cạnh tranh với DNNN tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội kinh doanh,
làm mất đi cơ hội kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Các cơ quan Nhà nớc
cũng cha thiết lập đợc hệ thống lý lịch t pháp phục vụ cho việc quản lý Nhà nớc,
trong đó có xác minh nhân thân ngời thành lập doanh nghiệp để thực hiện qui
định về những đối tợng không đợc quyền thành lập doanh nghiệp (Điều 9- Luật
doanh nghiệp) dẫn đến có một số đối tợng bị cấm thành lập doanh nghiệp nhng
vẫn thành lập, một số doanh nghiệp đăng ký mà không hoạt động hoặc hoạt
động tại địa điểm khác nơi đăng ký kinh doanh. Theo điều tra của phòng Đăng
ký kinh doanh Hà Nội có khoảng 16% doanh nghiệp có tên trong sổ đăng ký ở
Hà Nội nhng không còn đóng trụ sở tại nơi đăng ký nữa.
Qua hơn 2 năm thực thi, Luật doanh nghiệp mới chủ yếu phát huy tác
dụng ở khâu đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp tức là giai đoạn gia
nhập thị trờng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vẫn còn vấp
phải hàng loạt trở ngại cha đợc tháo gỡ từ phía các cơ quan Nhà nớc. Theo các
cơ quan quản lý doanh nghiệp, có đến gần 80% doanh nghiệp thành lập theo
Luật doanh nghiệp đã không thực hiện qui định về nộp báo cáo tài chính cho cơ
quan quản lý đăng ký kinh doanh. Tại Tp Hồ Chí Minh, số doanh nghiệp cha
nộp báo cáo tài chính cũng chiếm đến 72%. Nếu chiếu theo đúng các qui định
trong Luật doanh nghiệp, tức là sau 2 năm liên tục không báo cáo, thì đến thời
điểm quí 2 năm 2002 sẽ có gần 80% doanh nghiệp trên cả nớc bị rút giấy phép


17


kinh doanh. Thế nhng qui định này vẫn không làm số doanh nghiệp nộp báo cáo
tài chính tăng lên thêm chút nào.
Nguyên nhân chính của vấn đề này là do hớng dẫn báo cáo tài chính quá
phức tạp, phần lớn các nhà quản lý không hiểu và do đó không làm đợc. Việc
thuê ngời có trình độ chuyên môn để lập đợc báo cáo nh qui định là rất tốn kém
đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nội dung báo cáo tài chính theo quyết định
số 167/QĐ-BTC chứa đựng những thông tin nhạy cảm mà đa số doanh nghiệp
không muốn công bố rộng rãi trong tình hình cạnh tranh gay gắt nh hiện nay.
Ngoài yếu tố khách quan nêu trên, trên thực tế cũng có không ít doanh
nghiệp ý thức chấp hành pháp luật cha cao, cũng nh không tuân thủ đúng các
qui tắc về quản lý nội bộ theo qui định của Luật doanh nghiệp, nhất là các qui
định về quyền, thẩm quyền, trình tự thẩm quyền nên đã dẫn đến một số hiện tợng tiêu cực nh làm trái luật, vi phạm quyền của các thành viên, cổ đông dẫn
đến mâu thuẫn nội bộ phát sinh, đổ vỡ doanh nghiệp, đình trệ SX nh trờng hợp
của công ty TNHH gas Bình Dơng, công ty cổ phần Hữu Nghị...
Một đạo luật nữa cũng có tác dụng mạnh mẽ tới các DNNQD đó là Luật
Khuyến khích đầu t trong nớc (KKĐTTN). Luật KKĐTTN có hiệu lực từ ngày
22/6/1994 và đã đợc điều chỉnh sửa đổi và bổ xung một vài lần, các văn bản dới
luật có không ít. Gần đây, ngày 23/11/2001, CP lại ban hành Nghị định số
90/2001/NĐ-CP về Trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có thể nói
theo nội dung của những văn bản pháp qui này thì các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đã đợc tạo rất nhiều thuận lợi trong hoạt động kinh doanh và
đợc hởng khá nhiều u đãi. Tuy nhiên trên thực tế, các doanh nghiệp đặc biệt là
các DNNQD đang gặp rất nhiều khó khăn.
Xin lấy ví dụ về yêu cầu xin u đãi mà pháp luật dành cho họ:
Để xin đợc Giấy chứng nhận u đãi đầu t, trớc hết doanh nghiệp phải có
một báo cáo khả thi về một dự án đầu t. Việc viết báo cáo ấy không quá khó, cái
khó ở đây là phải nhất thiết thuê chuyên gia viết hộ, vị chuyên gia ấy phải là
ngời của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có quyền đánh giá dự án ấy là khả
thi. Tất nhiên để thuê đợc thì phải trả chi phí và mức phí trong trờng hợp này là
miễn thoả thuận. Cha hết, sau khi đã nộp đơn xin u đãi đầu t kèm theo báo cáo

khả thi của dự án, để sâu sát thực tế , các cán bộ thẩm định nhất thiết phải
khảo sát doanh nghiệp, chi phí cho những cuộc khảo sát này không nhỏ.
Cha hết, sau đó phải có một hội đồng thẩm định. Chủ đầu t cũng nhanh chóng
đợc thông báo để đóng góp kinh phí cho cuộc thẩm định này. Kinh phí đóng
góp cũng không ít, tỷ lệ thuận với qui mô dự án nhỏ hay lớn. Thời gian làm thủ
tục còn dài, một số địa phơng kéo dài gấp 3 đến 5 lần thời gian qui định. Chậm


18

trễ trong khâu xét cấp u đãi đầu t ở một số địa phơng là một trở ngại không nhỏ
làm nản lòng các nhà đầu t.
Đối với những doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị, nguyên liệu nhập
khẩu thì thủ tục xác nhận danh mục đợc miễn thuế nhập khẩu còn phức tạp hơn,
các doanh nghiệp phải đến Bộ Thơng mại trình nộp hồ sơ để xin xem xét. Chỉ
riêng khâu đi lại làm thủ tục cũng đã gây ra lãng phí tiền của, thời gian, sức lực
đối với các doanh nghiệp.
Chính vì những khó khăn nh vậy mà trong một cuộc khảo sát do Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ơng và chơng trình phát triển dự án Mê Kông
tiến hành thì chỉ có 18 trờng hợp nộp hồ sơ xin u đãi trên tổng số 292 DNNQD
đợc khảo sát và cho đến nay mới chỉ có 5 trờng hợp đã nhận đợc Giấy chứng
nhận u đãi đầu t.
Về cơ bản, có thể thấy u đãi đầu t vẫn đợc điều chỉnh bởi cơ chế xin cho và không phù hợp với tinh thần của Luật KKĐTTN cũng nh Luật doanh
nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng còn gặp một số khó khăn khác nữa
do sự mâu thuẫn, chồng chéo của các luật, của các luật với các văn bản dới luật.
Chẳng hạn nh Luật Đất đai qui định điều kiện để đợc Nhà nớc giao đất, cho thuê
đất là có dự án đã đợc cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong khi Qui chế quản lý
và đầu t và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày
8/7/1999 của CP lại qui định các dự án của các thành phần kinh tế ngoài quốc

doanh do chủ đầu t tự quyết định.
Một vấn đề nữa gây thiệt hại nhiều cho các DNNQD là có không ít cán bộ
công chức, nhất là cán bộ t pháp cán bộ điều tra, không phân biệt đợc ranh giới
pháp lý giữa tài sản công ty là pháp nhân với tài sản của thành viên và cổ đông,
không phân biệt đợc sự vi phạm pháp luật do thành viên, cổ đông hay giám đốc
với vi phạm của công ty. Vì vậy, khi thấy cổ đông, giám đốc hay chủ tịch
HĐQT có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc bị khởi tố điều tra liền phong toả
niêm phong hay tịch thu tài sản của công ty khiến hoạt động của công ty đó bị
ngng trệ. Kết cục khó tránh khỏi là doanh nghiệp đó bị giải thể hoặc phá sản.
Cách xử lý nh trên là không tôn trọng nguyên tắc độc lập về tài sản của pháp
nhân và thành viên, vi phạm nghiêm trọng đối với quyền sở hữu tài sản của pháp
nhân đã đợc qui định tại Bộ luật hình sự.
Không những hệ thống pháp luật nớc ta còn cha đầy đủ, hoàn thiện mà
việc thực hiện luật pháp cũng rất kém. Nguyên nhân của việc thực hiện luật pháp
kém là:
- Dân ta ít hiểu biết và không có thói quen tìm hiểu luật pháp.


19

- Việc xử phạt vi phạm pháp luật cha nghiêm minh. Việc điều hành thực
hiện luật pháp còn có tính chất phân tán nhng lại tập trung quan liêu.
Bộ máy hành pháp cha mạnh.
Tình trạng trên đã dẫn tới một số tệ nạn nh buôn lậu và làm hàng giả phát
triển. Hàng buôn lậu do trốn đợc thuế nên giá rẻ làm cho hàng trong nớc không
thể cạnh tranh nổi. Hàng giả có giá bán thấp nhng chất lợng lại không đảm bảo,
ảnh hởng tới uy tín của các doanh nghiệp. Hai tệ nạn này đã làm cho khá nhiều
doanh nghiệp bị điêu đứng do không bán đợc hàng.
Bên cạnh các tệ nạn trên thì nạn lạm quyền và tham nhũng cũng đang là
vấn đề ảnh hởng nghiêm trọng tới các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD.

Theo một điều tra thì 20%-50% chi phí của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh
là do tham nhũng, sách nhiễu gây ra. Cũng qua điều tra 100 doanh nghiệp ở Hà
Nội và Tp Hồ Chí Minh cho thấy 77% các doanh nghiệp ở Tp Hồ Chí Minh và
60% các doanh nghiệp ở Hà Nội nói là thờng xuyên phải nộp các khoản ngoài
nghĩa vụ quy định. Tình trạng này đã làm xói mòn lòng tin vào Nhà nớc của cả
các nhà đầu t trong và ngoài nớc và tạo ra môi trờng đầu t, sản xuất-kinh doanh
đầy rủi ro.
Nh vậy, môi trờng pháp luật nớc ta mặc dù đã có nhiều thay đổi theo hớng
có lợi cho các doanh nghiệp nhng cha đợc coi là thuận lợi cho việc nâng cao khả
năng cạnh tranh của các DNNQD hiện nay.

B. Về môi trờng kinh tế
I. Chính sách tài chính
Chính sách tài chính đợc coi là chính sách của các chính sách kinh tế xã
hội khác. ở đây chỉ xin đề cập đến hai loại chính sách có tác động mạnh mẽ tới
các doanh nghiệp đó là chính sách tín dụng và thuế.

1. Về chính sách tín dụng
Cũng nh nhiều nền kinh tế đang phát triển trên thế giới, thị trờng tài chính
có thể chia làm hai nguồn: nguồn chính thức và nguồn phi chính thức.
Với nguồn vốn chính thức, chính sách tín dụng ở Việt nam đã có phần
quan tâm, chú ý đến DNNQD hơn trớc,bên cạnh ngân hàng thơng mại và cổ
phần nhà nớc, các quỹ tín dụng cung cấp tài trợ cho những doanh nghiệp này,
chính phủ cũng đã cố gắng thành lập các quỹ hỗ trợ DNNQD: quỹ hỗ trợ
DNNQD, quỹ hỗ trợ phát triển...
Mặc dù chính sách tài chính tín dụng đã có nhiêù cố gắng và tiến bộ nhng
vẫn cha đáp ứng đợc với nhịp độ đổi mới chung của nền kinh tế, còn thấp xa so


20


với đòi hỏi bức bách của nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có DNNQD.
Những cuộc điều tra gần đây cho thấy vốn vẫn đợc coi là khó khăn cơ bản đối
với sự phát triển của DNNQD. Mặc dù DNNQD nói chung chiếm 97% tổng số
doanh nghiệp trong nền kinh tế nhng nguồn vốn chỉ chiếm 30% đồng vốn của
khu vực doanh nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng DNNQD đang đối mặt với khó
khăn thiếu vốn cho sự hoạt động và phát triển. Mặt khác ta lại thấy rằng, theo
quy định hiện hành có liên quan đến chính sách tín dụng, các doanh nghiệp kể
cả DNNQD đều có thể tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng. Tuy nhiên do những
hạn chế trong thể lệ tín dụng, các DNNQD không thể tiếp cận đợc với các nguồn
tín dụng để thành lập cơ sở kinh doanh mới của mình, DNNQD gặp khó khăn
trong việc sử dụng tài sản thế chấp xuất phát từ những khó khăn trong việc xin
giâý chứng nhận quyền sử dụng đất và thủ tục định giá tài sản, cầm cố thế chấp.
Điều này là do có sự phân biệt đối xử gây bất lợi cho các DNNQD, DNNQD
không thể vay các khoản vay trung và dài hạn mà chỉ vay đợc trong ngắn hạn từ
các tổ chức ngân hàng. Lãi suất vay nội tệ đối với các DNNN thấp còn đối với
các DNNQD lại cao hơn ngoài ra còn phải vay lại của các DNNN với phụ phí
cũng hết sức tốn kém điều này làm các DNNQD thiệt đủ đờng. Kết quả là không
mở rộng đợc sản xuất, trang thiết bị không đợc đổi mới, nguồn nhân lực không
đợc đào tạo, năng suất thấp, chất lợng kém, giá thành cao và không thể cạnh
tranh trên thị trờng trong nớc cha nói đến nớc ngoài và không có con đờng nào
khác là phá sản. Những khó khăn trong vấn đề này đợc liệt kê cụ thể nh sau:
Thứ 1: Sự không đồng bộ giữa luật ngân hàng và những luật khác nh luật
hình sự, luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật thuế... Những luật này
trong chừng mực nào đó đã tạo ra phiền toái trong việc cấp tín dụng. Luật đất
đai đề cập đến vấn đề thế chấp, luật phá sản không hoàn toàn bảo vệ lợi ích của
ngân hàng, luật dân sự tạo ra sự phiền phức trong việc buôn bán với những tài
sản thế chấp trong trờng hợp những tài sản này quá hạn. Ngân hàng thơng mại
lại bị hạn chế bởi luật ngân hàng và luật tín dụng về việc kiểm soát tổng các
khoản vay quá hạn của các doanh nghiệp.

Thứ 2: Việc vay mợn lại phụ thuộc vào tại sản thế chấp đây là khó khăn
chủ yếu đối với các doanh nghiệp trong việc tiếp nhận vốn tín dụng. Lấy ví dụ
trong trờng hợp của tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy 98% DNNQD trong tỉnh có
nhu cầu vay vốn từ các ngân hàng nhng con số này giảm xuống chỉ còn 56,7%
nếu các ngân hàng yêu cầu giải trình những thông tin về thế chấp. Sự cầm cố thế
chấp bị hạn chế bởi thị trờng bất động sản còn kém phát triển hoặc chậm trễ
trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác vì không có cơ
quan tổ chức nào chiụ trách nhiệm để đánh giá tài sản thế chấp nên những hoạt
động này đợc thực hiện duy nhất bởi ngân hàng. Điều này dẫn đến vấn đề là


21

ngân hàng có xu hớng muốn đánh giá thấp tài sản của doanh nghiệp, không sát
với giá trị thực của tài sản theo giá thị trờng do đó tạo ra sự thua thiệt cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Hơn thế nữa không có luật nào xem
xét đến tài sản vô hình nh là loại tài sản có thể thế chấp. Bên cạnh đó, họ cũng
không thể sử dụng hàng hoá của mình để thế chấp bởi vì các DNNQD thờng sản
xuất nhiều mặt hàng.
Nhiều ngân hàng phàn nàn rằng vốn đăng ký của các doanh nghiệp t nhân
thờng rất hạn chế so với quy mô sản xuất của họ trong khi đó nhu cầu vay vốn
thì lớn hơn nhiều điều này làm cho họ không thể đáp ứng những yêu cần của
ngân hàng trong việc cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn. Theo luật
quy định thì doanh nghiệp nộp đơn phải có vốn đăng ký chiếm khoảng 30%
tổng số vốn đợc vay. Hơn thế nữa các doanh nghiệp cũng không thể trình ngân
hàng những tài liệu đúng, chính xác về tình trạng tài chính của chính mình hoặc
những tài liệu này không có chứng nhận của cơ quan kiểm toán nhà nớc. Điều
này khiến các ngân hàng không thể tiến hành kiểm tra để cung cấp tín dụng cho
doanh nghiệp đợc .
Thứ 3: Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều coi lợi nhuận là hàng

đầu, tuy vậy họ vẫn cảm thấy miễn cỡng khi phải cho các DNNQD vay. Bên
cạnh đó thì chi phí giao dịch cũng không đáng kể khi tài trợ cho DNNQD,
chúng cũng xấp xỉ bằng chi phí cho các doanh nghiệp lớn .
Năm
DNNQD
Các
doanh
nghiệp
khác

2000
10,78%
89,22%

6 tháng năm2001
4,5%
88,5%

Hình 3. Bảng phân phối nguồn vốn cho các Doanh nghiệp
Nguồn: Tạp chí KTPT 7/ 2001
Điều này một lần nữa chứng tỏ rằng DNNQD cha phải là đối tợng đợc các
ngân hàng quan tâm. Mặc dù đứng về mặt pháp lý mà nói thì các chủ thể là bình
đẳng nhng trong thực tế thì lại không diễn ra nh mong muốn. Vì vậy cần phải
xem xét lại nghiêm túc vấn đề này nhằm thay đổi thái độ của xã hội đối với sự
phát triển tất yếu của DNNQD.
Thứ 4: Bên cạnh những hạn chế về sự hỗ trợ do DNNQD thì luật bảo lãnh
tín dụng lại dờng nh nghiêng về phía các DNNN. DNNN với sự bảo lãnh từ các


22


cơ quan chủ quản có thể vay mà không cần cầm cố hay thế chấp một cách dễ
dàng. Hơn nữa do chính sách tiền tệ tín dụng còn nhiều bất hợp lý: hệ thống tài
chính trung gian cha phát triển. Các DNNN đợc lập ra là tức khắc đợc quyền đòi
tài chính cấp vốn, đòi ngân hàng cho vay. Nợ đến hạn không trả cũng chẳng sao
vì chỉ phải chuyển sang chịu phạt lãi suất nợ quá hạn, tuy có cao hơn mức lãi
suất trả đúng hạn nhng vẫn còn thấp hơn tốc độ mất giá của đồng tiền. Do đó
những khoản vay u đãi giành cho DNNQD lại thờng chảy vào những DNNN mà
có mối quan hệ tốt với ngân hàng và cơ quan chủ quản của họ hơn là đến với
những DNNQD. Theo thống kê chính thức năm 2000 cho thấy tỷ lệ vốn tín dụng
trong tổng số vốn kinh doanh của khu vức kinh tế ngoài quốc doanh là 19%
trong khi đó tỷ lệ vốn tín dụng trong kinh tế quốc doanh là 40% thậm chí có
nhiều nơi lên tới 80-90%. Hầu hết các hỗ trợ của chính phủ đều dành cho kinh tế
quốc doanh.
Đa số các doanh nghiệp t nhân không may mắn tiếp cận đợc các chính
sách u đãi, khuyến khích của chính phủ nh quỹ xuất khẩu hay vốn u đãi bởi vì
thủ tục hành chính, giấy tờ, dấu má quá phức tạp. Theo thống kê của phòng công
nghiệp và thơng mại Việt nam cho thấy chỉ 10% doanh nghiệp t nhân tiếp cận đợc với chính sách u đãi, khuyến khích của chính phủ trong đó có trên 60% nói
rằng họ đã phải vợt qua nhiều cửa ải, chịu không ít tốn kém mới đợc may mắn
nhng kết quả cuối cùng chỉ mang lại kết quả tinh thần thay cho giá tri vật chất.
Thứ 5: Thủ tục giải ngân áp dụng cho DNNQD cũng khá phức tạp. Thủ
tục tối thiểu gồm các bớc cơ bản sau:
+Nghiên cứu khả thi
+Tài sản thế chấp đợc công chứng bởi cơ quan công quyền
+Định giá tài sản thế chấp
+Nộp đơn
+Giải ngân
Nghiên cứu khả thi hay sự thành lập kế hoạch kinh doanh cũng lại là một
vấn đề đối với DNNQD.Trong khi đó khả năng thiết kế một nghiên cứu khả thi
đối với DNNQD rất hạn chế, các dịch vụ hỗ trợ thì lại kém phát triển. Hiện nay

thủ tục giải ngân bao gồm 10 giai đoạn điều đó cho thấy tính phức tạp của vấn
đề. Phần lớn các DNNQD cho rằng thủ tục này nên giảm xuống còn 5 là vừa :
đơn xin, kế hoạch kinh doanh, hồ sơ hợp lệ của doanh nghiệp, tình trạng tài
chính và chữ ký xác nhận của giám đốc .
Thứ 6: Một vấn đề khác đến từ phía các doanh nghiệp. Kế hoạch kinh
doanh của họ thờng không cung cấp đầy đủ thông tin cho ngân hàng để có thể
đánh giá. Các kế hoạch cũng không rõ ràng về chi phí, đầu t, công nghệ, lợi ích
của dự án...dẫn đến ngân hàng mất nhiều thời gian cho việc thẩm định dự án.


23

Các ngân hàng thì kêu ca rằng khả năng thiết lập một kế hoạch kinh doanh của
các doanh nghiệp là rất hạn chế và thờng không chứng minh đợc tính khả thi của
dự án đó. Bên cạnh đó chúng ta càng cần quan tâm đến sự thật rằng rất nhiều
ngân hàng cũng thờng chỉ chú ý tới tài sản thế chấp mà bỏ qua kế hoạch kinh
doanh, hoặc nếu có thì lại cho rằng do trình độ của cán bộ ngân hàng yếu kém
hay do tiêu cực dẫm đến không đánh giá đúng vấn đề càng trở nên phức tạp hơn
khi cả ngân hàng và các doanh nghiệp đều không tin tởng ở nhau làm cho ngân
hàng thì ứ đọng vốn còn doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng.
Thứ 7: DNNQD dờng nh không quan tâm lắm đến việc vay từ ngân hàng
do lệ phí và thủ tục không rõ ràng. Các chi phí phụ đối với các DNNQD khi tiếp
nhận tín dụng từ các nguồn tài chính chính thức là:
- Chi phí cơ hội.
- Chi phí cho việc công chứng tài sản thế chấp.
- Tài sảu thế chấp có thể bị đáng giá thấp bởi ngân hàng làm giảm khối
lợng vốn mà doanh nghiệp có thể vay từ ngân hàng và cuối cùng họ
phải đi vay từ các nguồn khác, tài sản của doanh nghiệp còn tiếp tục bị
giảm giá trị khi thanh toán trong trờng hợp doanh nghiệp phá sản và
giải thể. Đây là những tổn thất lớn cho DNNQD.

- Các ngân hàng thờng từ chối chịu khoản phí trả chi phí này nhng đứng
về mặt nguyên tắc mà nói thì doanh nghiệp là khách nàng của ngân
hàng và tất nhiên các doanh nghiệp không phải là ngời trả cho các
khoản phí đó. Điều này cho thấy ngân hàng vẫn còn trong tình trạng tơng đối độc quyền mà cha thấy đợc rằng chính các doanh nghiệp là lý
do tồn tại của họ.
- Chi phí cho t vấn lập nghiên cứu khả thi.
- Chi phí ngầm cho các quan chức ngân hàng khi họ thực hiện nhiệm vụ
giám sát hoạt động của doanh nghiệp hoặc trong quá trình trả tiền vay.
- Chi phí vô hình cho mất nhiều thời gian, công sức, thái độ tồi của các
nhân viên ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ lãi suất cho vay theo cơ chế thoả
thuận hiện nay là tơng đối hợp lý nhng tổng các khoản chi phí không
chính thức lại vợt quá khả văng của các doanh nghiệp. Điều này dẫn
tới kết cục là phần lớn các DNNQD đều tìm cách hạn chế hoạt động
trong phạm vi vốn của mình làm giảm khả năng mở rộng hoạt động
SX-KD. Phần lớn trong số đó đề cao nguồn vốn tự có, từ bạn bè hay
gia đình. Điều này chứng tỏ các ngân hàng không và cha đợc coi là nơi
tin cậu để tài trợ cơ bản cho DNNQD và chính sách tín dụng vẫn còn
quá nhiều hạn chế trong việc hỗ trợ DNNQD phát triển.


24

Nguồn
Tổng các nguồn
Trong đó:
- Ngân hàng thơng mại
Nhà nớc&t nhân
- Quỹ tín dụng của chính
phủ
- Dự án quốc tế

- Gia đình bạn bè
- Cá nhân ( vay lãi )
- Các nguồn khác

Tỉ lệ DNV &N nộp
đơn xin vay tín dụng
54,5

(Đơn vị : %)
Tỉ lệ thành công

24,7

20,2

8,7
1,9
38,8
11,2
2,6

7,1
1,3
38,5
10,6
1,9

Hình 4. Nhu cầu và khả năng nhận đợc tín dụng
Nguồn: Phòng công nghiệp và thơng mại Việt nam


2. Về chính sách thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan xuất hiện và tồn tại trong mọi
xã hội có Nhà nớc. Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nớc và ảnh hởng đến giá cả hàng hoá, làm thay đổi cung - cầu. Trong những năm vừa qua đặc
biệt 3 năm gần đây khi Việt nam đang gấp rút chuẩn bị cho tiến trình hội nhập
AFTA, Nhà nớc ta đã không ngừng cải cách sửa đổi hoàn thiện hệ thống thuế từ
đó góp phần tạo dựng môi trờng vĩ mô thông thoáng cho các doanh nghiệp phát
triển mạnh mẽ đặc biệt là DNNQD. Điều này đợc thể hiện thông qua việc Nhà
nớc ban hành một số luật thuế mới hoặc sửa đổi chúng sao cho phù hợp hơn bao
gồm luật thuế giá trị gia tăng(GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc thực
thi các qui định đợc đổi mới trong hai luật thuế này có tác động mạnh mẽ tới sự
phát triển của doanh nghiệp trên cả hai mặt.
a. Tác động tích cực
Luật thuế GTGT đợc Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11 (105-1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999.
- Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục đợc nhợc điểm của thuế doanh thu
là không thu trùng lắp thuế nên đã tác động tích cực đối với sản xuất,
dịch vụ. Trong giai đoạn đầu áp dụng luật thuế mới Uỷ ban Thờng vụ
Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy
tháo gỡ khó khăn vớng mắc cho các doanh nghiệp.


25

- Thứ hai, thuế GTGT và các luật thuế mới đã khuyến khích đầu t trong
nớc mở rộng quy mô đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nói
chung và DNNQD nói riêng. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động
đầu t tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài
sản cố định sẽ đợc Nhà nớc cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh
nghiệp từ đó khuyến khích các tổ chức cá nhân bỏ vốn ra đầu t phát
triển SX-KD phát huy nội lực.
- Thứ ba, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị

trờng tiêu thụ sản phẩm, kích thích phát triển SX-KD hàng hoá. Luật
thuế GTGT quy định một số loại hàng hoá xuất khẩu đợc hởng thuế
suất 0% và đợc hoàn thuế GTGT đầu vào nên đã khuyến khích xuất
khẩu và tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh đợc về
giá với hàng hoá tơng tự của các nớc trên thị trờng quốc tế.
Thuế thu nhập doanh nghiệp đợc thay cho thuế lợi tức công ty đã mở rộng
đối tợng chịu thuế với chế độ đối xử thống nhất cho cả nhà đầu t trong nớc và nớc ngoài. Xoá bỏ chế độ lợi tức u đãi với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài từ đó đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa đầu t nớc ngoài và đầu t trong
nớc.
b. Những tồn tại trong quá trình thực thi cần đợc tháo gỡ
Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực các luật thuế trên đây có một số
tồn tại gây khó khăn cho doanh ngiệp đặc biệt là các DNNQD.
Trớc hết là sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nớc và doanh
nghiệp t nhân. Điều này thể hiện qua sự không nhất quán trong việc xác định chi
phí hợp lý và chi phí thực tế để tiến hành khấu trừ từ lợi nhuận chịu thuế và lợi
nhuận bổ sung gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp t nhân. Chẳn hạn đối
với một DNNN một qui định mới đợc áp dụng với họ là mỗi khi chi phí đầu vào
mua bằng ngoại tệ tăng lên thì hàng tồn kho sẽ đợc tính lại để duy trì nguồn vốn
nhng qui định này không đợc áp dụng đối với doanh nghiệp t nhân nên họ phải
dùng nguồn vốn của chính mình để nộp thuế bất kể làm ăn có lãi hay không.
Nh vậy vô hình chung vốn đầu t phát triển của doanh nghiệp đã khan hiếm nay
càng bị ít hơn.
Thứ hai là về mức thuế suất. Trong các cuộc gặp gỡ giữa thủ tớng chính
phủ với các doanh nghiệp thì cũng đã không ít doanh nghiệp kêu ca phàn nàn về
mức thuế thu nhập doanh nghiệp 32% so với thực trạng hoạt động của các doanh
nghiệp nh hiện nay là cao. Đồng thời xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp t
nhân trớc khi thay đổi luật thuế chịu thuế suất thấp nay lại phải chịu mức thuế
suất cao hơn, điều này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong SX-KD.



×