Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Luận văn một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh dầu nhờn của công ty dầu nhờn petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.41 KB, 81 trang )

Phần I
Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thơng mại trong nền
kinh tế thị trờng.
-==&==I - Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thơng
mại trong nền kinh tế thi trờng:
1.Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng:

Kinh tế thị trờng là nền kinh tế chủ yếu đợc điều tiết bởi thị trờng.
Nền kinh tế thị trờng đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề cơ bản: sản xuất
cái gì, xản xuất nh thế nào, sản xuất cho ai, và nó đều chịu sự tác động
của các quan hệ cung cầu, quan hệ cạnh tranh và giá cả thị trờng.
Một điều tất yếu và là đặc trng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trờng đó là: bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh một loại hàng hoá nào đó trên thị trờng đều phải chấp nhận
cạnh tranh.
Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng
hoá t bản chủ nghĩa. Vậy cạnh tranh là gì ?
Theo Marx " Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt
giữa các nhà t bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu đợc lợi nhuận siêu ngạch ".
Còn theo cuốn từ điển kinh doanh (xuất bản 1992 ở Anh ), cạnh
tranh trong cơ chế thị trờng đợc định nghĩa là " sự ganh đua, sự kình
định giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất
cùng một loại về phía mình ".
Nh vậy, hiểu theo một nghĩa chung nhất, cạnh tranh là sự ganh
đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành giật thị trờng và khách
hàng.
Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể tham gia thị trờng. Đối với ngời mua, họ muốn mua đợc
loại hàng hoá có chất lợng cao, với một mức giá rẻ. Còn ngợc lại, các


doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình. Vì
mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật khách
hàng và thị trờng về phía mình. Và nh vậy, cạnh tranh sẽ xảy ra.
Cạnh tranh là một điều tất yếu của thị trờng. Các doanh nghiệp

1


bắt buộc phải chấp nhận cạnh tranh, ganh đua với nhau, phải luôn
không ngừng tiến bộ để giành đợc u thế tơng đối so với đối thủ. Nếu
nh lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ phải tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả cao nhất
nhằm thu đợc lợi nhuận tối đa. ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi
nền kinh tế, cạnh tranh đợc thừa nhận là một quy luật kinh tế khách
quan và đợc coi nh là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức điều hành
kinh doanh trong từng doanh nghiệp.
Do vậy, cạnh tranh là tất yếu của nền kinh tế thị trờng, là một phơng thức vận động của thị trờng. Nói đến thị trờng cũng có nghĩa là
nói tới sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Không có cạnh tranh thì
không có nền kinh tế thị trờng. Do vậy, quá trình sản xuất và kinh
doanh của doanh nghiệp buộc phải tuân theo những quy luật cạnh tranh.
Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trờng hay có thể nói
cơ chế thị trờng là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh
tranh (các doanh nghiệp), mà kết quả sẽ là một số doanh nghiệp bị thua
cuộc và bị gạt ra khỏi thị trờng, trong khi một số doanh nghiệp khác vẫn
tồn tại và phát triển hơn nữa. Quy luật chọn lọc nghiệt ngã thông qua
cạnh tranh của thị trờng đã chia các doanh nghiệp thành hai nhóm: nhóm
năng động và nhóm trì trệ. Điều đó đặt ra cho những doanh nghiệp đang
yếu kém và lúng túng phải nhanh chóng thích nghi, vì nếu thích nghi đợc
thì đó là cơ hội để phát triển và ngợc lại, nếu không thích nghi thì đó là

dấu hiệu của sự phá sản. Vì vậy, trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trờng đạt đợc một trình độ cạnh tranh cao là con đờng đảm
bảo chắc chắn cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Cạnh tranh trên thị trờng giữa các doanh nghiệp đợc phân thành
nhiều loại khác nhau. Nhng xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh
đợc chia làm 2 loại: Cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh trong nội
bộ ngành. Để giành lợi thế trên thị trờng, các doanh nghiệp phải nắm
vững các loại cạnh tranh này để xác định đúng đối thủ cạnh tranh, từ đó
lựa chọn chính xác vũ khí cạnh tranh phù hợp với điều kiện và đặc điểm
của mình.


Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc đấu tranh giữa các nhà doanh
nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác
nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ
ra và đầu t vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh
giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những
ngành đầu t có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang
ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự điều chuyển tự
nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành lên sự

2


phân phối vốn hợp lí giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng
là các chủ doanh nghiệp đầu t ở các ngành khác nhau với số vốn bằng
nhau chỉ thu đợc lợi nhuận nh nhau.


Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh

nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ, một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trờng
đồng nhất đối với hàng hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của
hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp thôn
tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi họat
động của mình trên thị trờng, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu
hẹp kinh doanh, thậm chí bị phá sản.
Trong nền kinh tế thị trờng, mục tiêu tối cao và duy nhất trong
kinh doanh của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì đó là thu nhập
hiện tại của chủ sở hữu doanh nghiệp và là tiền đề để hiện đại hoá và
phát triển doanh nghiệp, tạo thu nhập trong tơng lai cho họ. Bên cạnh đó,
trên thị trờng có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng
hoá, cạnh tranh trên thị trờng là không tránh khỏi vì đó là cuộc cạnh
tranh vì lợi ích vật chất giữa các doanh nghiệp với nhau.
Và nh vậy, cạnh tranh lành mạnh là nh là một động lực quan
trọng để phát triển lực lợng sản xuất, tiến bộ khoa học kĩ thuật, quản lí, là
điều kiện để giáo dục tính tháo vát, năng động, nhậy bén và óc sáng tạo
của các nhà doanh nghiệp.
2. Vai trò của cạnh tranh đối với quá trình sản xuất kinh doanh ở các
doanh nghiệp:

Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trờng. Cội nguồn của
sự cạnh tranh là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng kiểu dáng,
nhiều thành phần kinh tế, nhiều ngời hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích. Ai cảm nhận
thấy đích thì ngời đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vợt lên phía trớc.
Chạy đua về mặt kinh tế phải luôn luôn ở phía trớc để tránh những trận
đòn của ngời chạy phía sau, và không phải chỉ để thắng một trận tuyến
giữa các đối thủ mà là để thắng trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa
những ngời mua với ngời bán và cạnh tranh giữa những ngời bán với

nhau.
Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh giữ vai trò làm cho giá cả hàng
hoá, dịch vụ giảm xuống, nhng chất lợng hàng hoá dịch vụ ngày càng
cao, phù hợp với mong muốn của ngời tiêu dùng.


Cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất
kinh doanh hàng hoá và khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp.
Điều này đã tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải giảm chi phí đầu vào
trong sản xuất kinh doanh. Mặc dù điều này là phù hợp với lợi ích lâu dài

3


của xã hội, song cũng làm cho một số doanh nghiệp bị phá sản và nạn
thất nghiệp không thể khắc phục đợc.


Cạnh tranh là công cụ để tớc quyền thống trị về kinh tế trong lịch sử.



Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đa tiến bộ khoa
học kĩ thuật vào sản xuất. Đồng thời cạnh tranh cũng buộc các doanh
nghiệp phải nắm bắt thông tin kịp thời, bắt đợc những thời cơ hấp dẫn.



Cạnh tranh đã tạo ra các nhà kinh doanh giỏi, chân chính.
Tóm lại, cạnh tranh không phải là huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế

những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí những nguồn
lực của xã hội bằng các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, nhằm
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của đất nớc
phát triển. Có thể nói rằng, cạnh tranh lành mạnh _ động lực phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng nh của từng doanh nghiệp. Cạnh
tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lợng sản xuất, tiến bộ
kĩ thuật, là điều kiện giáo dục tính tháo vát, năng động và sáng kiến
cho các nhà sản xuất kinh doanh
II. Các hình thái cạnh tranh trong kinh doanh thơng mại:

(Phân loại thị trờng theo mức độ cạnh tranh)
Đây là dạng phân loại thị trờng gắn liền với phơng thức hình thành và
vận động giá cả thị trờng.
Theo cách phân loại này có các dạng thị trờng sau:

4


1. Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo:
a) Khái niệm:

Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng mà ở đó có rất nhiều ngời bán mà không có ngời nào có u thế để cung ứng một số lợng sản phẩm
lớn ảnh hởng đến giá cả. Các sản phẩm mua bán trên thị trờng này là sự
đồng nhất, tức là nó rất ít khác nhau về quy cách, mẫu mã, phẩm chất.
Điều kiện tham gia và rút khỏi thị trờng rất dễ dàng. Những ngời bán
tham gia trên thị trờng chỉ có cách thích ứng với giá thị trờng. Họ không
có khả năng định giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trên
thị trờng này chủ yếu tìm biện pháp giảm thấp chi phí tới mức thấp nhất.
b) Tác dụng của thị trờng cạnh tranh hoàn hảo:


Thúc đẩy các doanh nghiệp phải cải tiến công nghệ, thay đổi sản
phẩm cho phù hợp với thị hiếu của ngời tiêu dùng.
Làm cho ngòi tiêu dùng dễ dàng lựa chọn cho mình những sản phẩm
vừa ý với mức giá thấp.
Nhìn chung, xã hội thu đợc lợi ích do tài nguyên đợc phân phối theo
hớng có lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh doanh
mặt hàng phù hợp với yêu cầu của xã hội
Thế nhng đối với hình thái cạnh tranh này, trong điều kiện hiện nay thì
rất khó tìm thấy.
2. Thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo:

Có thể nói rằng, thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo là một thị trờng
cạnh tranh bình thờng vì nó thực tế và rất phổ biến trong điều kiện hiện
nay.
Đây là một thị trờng mà phần lớn sức mạnh thị trờng thuộc về một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trờng
này kinh doanh hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Sự khác nhau giữa hàng
hoá và dịch vụ này là ở nhãn hiệu. Mặc dù sự khác biệt giữa các sản
phẩm chỉ là sự khác biệt trong tâm trí của ngời tiêu dùng, nhng mỗi nhãn
hiệu hàng hoá đều mang hình ảnh với những uy tín khác nhau.
Có hai hình thái thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo sau:
a) Độc quyền tập đoàn:

Đây là một thị trờng mà ở đó có một vài doanh nghiệp đáp ứng hầu hết
nhu cầu về một loại hàng hoá dịch vụ cụ thể nào đó. Những doanh
nghiệp này rất nhạy cảm với các hoạt động kinh doanh của nhau. Thế nhng, một điều cần chú ý ở đây là các doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau
trong việc định gía, và lợng hàng bán ra. Bởi vì, khi một doanh nghiệp

5



trong nhóm độc quyền giảm giá hàng hoá bán ra thì họ không bao giờ
cảm thấy tin tởng rằng có thể đạt đợc kết quả lâu dài vì sẽ có một số
doanh nghiệp khác có thể sẽ giảm giá xuống mức thấp hơn; và ngợc lại
khi một doanh nghiệp tăng giá, các doanh nghiệp khác không tăng giá thì
sẽ dẫn đến doanh nghiệp tăng giá phải trở lại giá cũ hoặc có nguy cơ bị
mất khách hàng.
b) Cạnh tranh độc quyền:

Chính vì đặc điểm của thị trờng độc quyền là số lợng doanh nghiệp
tham gia trên thị trờng này tơng đối lớn, cho nên mỗi doanh nghiệp sẽ có
ảnh hởng tơng đối lớn đến các quyết định về sản xuất và kinh doanh của
riêng mình.
Trên thị trờng cạnh tranh độc quyền, sản phẩm của các doanh nghiệp
là khác nhau. Ngời tiêu dùng phân biệt đợc các sản phẩm của doanh
nghiệp thông qua nhãn hiệu, quảng cáo, bao bì và các dịch vụ khác.Trên
thị trờng này, doanh nghiệp có quyền định gía hàng hoá nhng không
hòan toàn tuỳ ý của mình, và các điều kiện mua bán hàng hoá cuãng
khác nhau. Doanh nghiệp có thể có uy tín độc đáo khác nhau đối với
khách hàng.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trờng hiện nay, trạng thái thị trờng độc
quyền hầu nh rất khó đạt đợc và nếu nó xuất hiện thì xem xét nó nh trạng
thái cạnh tranh độc quyền để giải quyết. Và nh vậy là, mức độ khốc liệt
của cạnh tranh giảm dần từ cạnh tranh hoàn hảo đến cạnh tranh độc
quyền.
3. Thị trờng độc quyền:

Thị trờng độc quyền là thị trờng mà ở đó có một hay ngòi bán độc
nhất có thể kiểm soát trên thị trờng. Điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi
thị trờng độc quyền có rất nhiều trở ngại do đầu t vốn lớn hoặc do độc

quyền kĩ thuật, công nghệ...Vì vậy mà thị trờng này không có cạnh tranh
về giá mà ngời bán hoàn toàn quyết định giá.
Trên thị trờng độc quyền, đờng cầu của toàn xã hội về một loại
hàng hoá dịch vụ cũng chính là đờng cầu của hãng độc quyền. Doanh
nghiệp độc quyền có thể chi phối và quyết định giá cả và lợng hàng hoá
bán ra trên thị trờng bằng các biện pháp ứng xử của mình.
Để gây trở ngại cho ngời tiêu dùng, doanh nghiệp độc quyền có thể
tạo ra sự khan hiếm hàng hoặc bán hàng với giá cao. Do vậy, nhiều nớc
đã có luật chống độc quyền. Tuy nhiên, độc quyền cũng có mặt tích cực
của nó, đó là độc quyền đem lại lợi ích cho xã hội nhờ đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu và phát triển. Doanh ngiệp độc quyền thờng có trình độ
tập trung hoá sản suất cao, mở rộng đợc quy mô sản xuất nên giảm đợc
chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm.

6


III. Sự thích ứng với điều kiện cạnh tranh của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trờng:
Để thích ứng và vợt trên cạnh tranh, nhà doanh nghiệp có thể thực
hiện cạnh tranh theo các hớng sau:
1. Sử dụng lợi thế của doanh nghiệp để thắng đối thủ cạnh
tranh:

Sáng tạo, khai thác các lợi thế cạnh trnah về phía mình, các nhà
doanh nghiệp bao giờ cũng phải lựa chọn vũ khí nào? Làm thế nào để
sử dụng vũ khí ấy để thắng lợi trớc các đối thủ cạnh tranh. Những vũ khí
cạnh tranh mà các nhà cạnh tranh thờng sử dụng là:
_ Sản phẩm và chất lợng sản phẩm.
_ Giá cả sản phẩm.

_ Dịch vụ sau bán hàng và các vũ khí cạnh tranh khác trong kinh doanh.
Việc lựa chọn vũ khí cạnh tranh đòi hỏi nhà doanh nghiệp cần
nghiên cứu phân tích về:
_ Thị trờng chiếm lĩnh của mình ở vùng nào?
_ Ngời tiêu thụ của mình là ai?
_ Những yếu tố nào có thể thắng đối thủ cạnh tranh.
Khi đã quyết định dùng vũ khí nào để cạnh tranh, nhà doanh nghiệp
phải tập trung phát triển mạnh vũ khí ấy.


Cạnh tranh bằng chất lợng sản phẩm:
Là việc đa ra thị trờng những loại hàng hoá có chất lợng cao, đáp
ứng đợc nhu cầu của khách hàng. Vũ khí này chỉ phát huy lợi thế của nó
trong trờng hợp hàng hoá trên thị trờng còn nhiều cấp độ chất lợng khác
nhau, hàng giả, hàng kém phẩm chất.
Chất lợng sản phẩm đợc chia làm 4 loại chính:
+ Chất lợng thị trờng: là chất lợng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu
nhất định theo mong đợi của ngời tiêu dùng.
+ Chất lợng thành phẩm: là chất lợng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu
của một hoặc một số tầng lớp ngời nhất định.
+ Chất lợng phù hợp: là chất lợng đảm bảo theo thiết kế hay tiêu chuẩn
hoá quy định.
+ Chất lợng thị hiếu: là chất lợng phù hợp với ý thích và tâm lí của ngời
tiêu dùng.
Yêu cầu cao nhất đối với từng doanh nghiệp là phải thoả mãn đợc
tất cả bốn loại chất lợng nêu trên. Thế nhng, trong thực tế doanh nghiệp
chỉ có thể thoả mãn đợc một số loại chất lợng nhất định.
7



Để thoả mãn cao nhất cả bốn loại chất lợng nêu trên, khi xác định
chiến lợc sản phẩm doanh nghiệp nên kéo dài giai đoạn làm chủ thị trờng
của sản phẩm của mình thông qua xem xét một số chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu công dụng, chỉ tiêu độ tin cậy, chỉ tiêu động lực học, chỉ
tiêu thẩm mỹ, chỉ tiêu công nghệ, chỉ tiêu thống nhất hoá, chỉ tiêu sinh
thái.
Tuỳ loại sản phẩm mà doanh nghiệp tập trung nghiên cứu và giải
quyết những chỉ tiêu nào.
Tuy nhiên để có sản phẩm có chất lợng cao, doanh nghiệp phải có
trang thiết bị máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến và tăng cờng quản lí
kĩ thuật.


Cạnh tranh bằng giá cả: Đây là hình thức hấp dẫn khách hàng bằng
cách bán hàng với giá rẻ hơn của đối thủ cạnh tranh. Nó đợc đa ra để làm
vũ khí cạnh tranh trong trờng hợp cung hàng hoá lớn hơn cầu về một loại
hàng hoá. Khi chất lợng hàng hoá trên thị trờng đã đợc bảo đảm, khách
hàng yên tâm về chất lợng thì họ sẽ tìm đến với doanh nghiệp bán hàng
với giá rẻ để mua. Song không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể
dùng vũ khí này bởi lẽ nó còn phụ thuộc vào chi phí cho sản phẩm đó.
Mặt khác, nên sử dụng này tuỳ theo thời điểm, tuỳ thuộc vào từng loại
khách hàng, nếu không chính nó lại tác động không tốt đối với doanh
nghiệp, làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thị trờng.



Cạnh tranh bằng dịch vụ: là sự cạnh tranh trong việc tổ chức thực
hiện các dịch vụ trong tiêu thụ hàng hoá gây uy tín và tiện lợi cho sản
phẩm của doanh nghiệp đối với khách hàng. Đây là loại vũ khí cạnh
tranh rất lợi hại của doanh nghiệp, dịch vụ này là văn minh trong th ơng

mại.
Hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng sản phẩm là vũ khí cạnh
tranh lợi hại nhất và đợc kèm theo các dịch vụ phụ. Cạnh tranh về giá cả
đợc coi là biện pháp nghèo nàn nhất vì nó giảm bớt khả năng sinh lời.
Tuy nhiên mỗi vũ khí có thể đợc sử dụng thành công trong các thời điểm
khác nhau.
Để cạnh tranh thắng lợi bằng vũ khí của mình, các doanh nghiệp
phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết, hạ thấp chi phí sử dụng các vũ khí
cạnh tranh. Muốn thế, doanh nghiệp phải sử dụng các lợi thế của mình,
cần tập trung các nguồn lực của mình vào một trọng điểm nào đó là một
yếu điểm của đối phơng, tạo điều kiện sử dụng vũ khí cạnh tranh một
cách có hiệu quả nhất.
2. Xây dựng hàng rào chắn với đối thủ:

Khi doanh nghiệp tìm các lợi thế cạnh tranh thì các nhà doanh
nghiệp khác cũng có chiến lợc cạnh tranh với các đối thủ của mình. Vì

8


vậy, để giữ vững thế cạnh tranh nhà doanh nghiệp phải luôn luôn có
những giải pháp bảo vệ mình khỏi sự tấn công của các đối thủ cạnh
tranh.
Để giữ vững cạnh tranh, nhà doanh nghiệp thờng sử dụng những
giải pháp sau: làm giảm ý chí tấn công của các đối thủ cạnh tranh, tạo lập
hàng rào ngăn chặn sự tấn công của đối phơng. Đồng thời doanh nghiệp
cần có những giải pháp mới đối với hệ thống phân phối hàng hoá nhằm
củng cố chặt chẽ mối quan hệ với bạn hàng để bạn hàng nhận thấy: nếu
không làm ăn chặt chẽ với doanh nghiệp mà lại làm ăn với doah nghiệp
khác sẽ dẫn đến sự thiệt thòi...

Trong các thủ pháp nhằm xây dựng hàng rào chắn với các đối thủ
và tránh đối đầu với đối thủ cạnh tranh thì phơng pháp hay đợc áp dụng
nhất là chia tuyến thị trờng, ngăn cản sự gia nhập, hợp tác.


Chia tuyến thị trờng: Đây là phơng pháp làm cho các đối thủ cạnh
tranh thấy rằng mình không phải là đối thủ, kẻ thù của họ.
Giải pháp này có những cách tiếp cận sau:
_Chọn các tuyến thị trờng cha hoặc còn ít các nhà doanh nghiệp tiếp cận
_Những vùng, địa phơng có nhu cầu lớn mà cha có nhà doanh nghiệp nào
thoả mãn.
_Tiếp cận những thị trờng mà nhận thấy đối phơng đang hoạt động cha
tốt.
Khi chọn tuyến thị trờng, nhà doanh nghiệp cần phân tích:
_Tiềm năng của tuyến thị trờng cần tiếp cận ra sao?
_Bằng cách nào để xâm nhập thị trờng?
_Làm gì để bảo vệ vị trí của doanh nghiệp khi có đối phơng tấn công trên
tuyến thị trờng này?
_Tại sao các nhà doanh nghiệp khác cha hoặc tiếp cận yếu với tuyến thị
trờng này?
Trên cơ sở luận chứng đầy đủ các dữ kiện, nhà doanh nghiệp cần chủ
động dũng mãnh chiếm lĩnh tuyến thị trờng sao cho thắng lợi.



Ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh:
Sau khi mở rộng tuyến thị trờng, nhà doanh nghiệp phải củng cố và
tìm mọi biện pháp để hạn chế sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh
trên tuyến thị trờng mình hoạt động.
Có thể có những cách làm sau đây:

_Chuẩn bị khối lợng hàng lớn, chất lợng tốt hoặc có sản phẩm mới... để
phản công sản phẩm của đối phơng.

9


_Có thể giảm giá thấp hơn sản phẩm của đối phơng.
_Có chính sách hấp dẫn hơn với các đại lí, các nhà bán sỉ, bán lẻ, ngời
tiêu dùng.
_Nâng cao uy tín sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trờng.
_Khai thác các lợi thế của doanh nghiệp
Tuy nhiên ngăn chặn chỉ làm chậm sự xâm nhập của đối phơng mà
thôi chứ không thể nào loại bỏ sự xâm nhập của các nhà cạnh tranh khác.


Hợp tác với các nhà doanh nghiệp:
Ngày nay, xu hớng đối đầu giữa các nhà doanh nghiệp có giảm đi.
Xu hớng chủ yếu là hợp tác trên những phơng diện có thể hợp tác đợc nh:
các lĩnh vực về khoa học, kĩ thuật, tiêu chuẩn hoá chất lợng sản phẩm,
tham gia hiệp hội...
Tóm lại, để thành công, một công ty phải triển khai những chiến lợc
cạnh tranh có hiệu quả chống lại đối thủ và đem lại cho công ty lợi thế
cạnh tranh khả dĩ mạnh mẽ nhất. Và công ty cũng phải thích nghi liên
tục chiến lợc của mình theo môi trờng cạnh tranh đang thay đổi nhanh
chóng. Nhng trong hoàn cảnh thị trờng cạnh ngày càng tăng này, công ty
có thể trở thành quá tập trung vào đối thủ, công ty có thể giành quá
nhiều thì giờ vào việc dòm chừng các hoạt động của đối phơng và quên
mất việc để ý đến nhu cầu của khách hàng mà công ty đang tìm cách
thoả mãn. Do vậy, khi phác hoạ các chiến lợc cạnh tranh, công ty phải
xét đến các sự định vị và hành động của đối thủ, nhng mục tiêu cơ bản

nhất là thành công chống lại đối thủ bằng cách tìm những con đờng tốt
hơn nữa để thoả mãn nhu cầu khách hàng.
IV - Sự cần thiết khách quan của việc tăng sức cạnh tranh
đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh:
1. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp:
1.1. Thế nào là 'sức cạnh tranh của doanh nghiệp ' ?

Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc trên thị tròng
và ngày càng đợc mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể
cạnh tranh trên thị trờng. Cái đó chính là sức cạnh tranh của một doanh
nghiệp.
'' Sức cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà
doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trênthị trờng
cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỉ lệ đòi
hỏi cho việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp".
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 mặt : Giá cả, giá trị sử
dụng hay là chất lợng sản phẩm và nghệ thuật tổ chức tiêu thụ hàng hoá và

10


yếu tố thời gian. Các doanh nghiệp phải luôn luôn đa ra các phơng án, các
giải pháp tối u nhất để giảm chi phí sản xuất để từ đó giảm giá thành, giá
bán, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý để
nâng cao chất lợng sản phẩm, tổ chức tốt màng lới bán hàng và biết chọn
đúng thời điểm bán hàng nhằm thu hút đợc khách hàng, mở rộng thị trờng.
Chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá sức cạnh tranh của một doanh
nghiệp là thị phần mà doanh nghiệp đã chiếm đợc. Thị phần càng lớn càng
thể hiện rõ sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và có
sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ đợc một phần thị trờng bất kể

nhiều hay ít, chính điều này đã phản ánh đợc quy mô tiêu thụ của doanh
nghiệp. Qua đó ta cũng có thể đánh giá đợc sức cạnh tranh của mỗi một
doanh nghiệp u thế cũng nh các điểm mạnh, điểm yếu tơng đối của doanh
nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành.
Tăng sức cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh nghiệp
hoạt động trong cơ chế thị trờng.
1.2 - Các yếu tố quyết định sức cạnh tranh của công ty.
a/ Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm.

Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh là phải trả lời đợc những câu hỏi cơ bản: Sản xuất cái gì ? cho ai
? nh thế nào? và nh vậy có nghĩa là doanh nghiệp đã xây dựng cho mình
một chính sách sản phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị
trờng mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô
hình.Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm cho sản phẩm của
mình thích ứng đợc với thị trờng một cách nhanh chóng thì mới có thể tiêu
thụ hết trên thị trờng, mở rộng thị trờng, tăng sức cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trờng, doanh nghiệp phải
thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp phải luôn đợc
hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trờng bằng cách cải
tiến các thông số chất lợng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các
loại sản phẩm hiện đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh
ngiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng
thị trờng tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo
đáp ứng đợc nhu cầu thị trờng, thu nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp
phân tán sự rủi trong kinh doanh khi mà cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt quyết liệt.
Đi đôi với việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng
vững trong điêù kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện

trọng tâm hoá sản phẩm vào một số loại sản phẩm nhằm cung cấp cho một
nhóm ngời hoặc một vùng thị trờng nhất định của mình. Trong phạm vi này,
doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn

11


các đối thủ cạnh tranh và nh vậy, doanh nghiệp đã tạo dựng đợc một bức
rào chắn, đảm bảo giữ vững đợc phần thị trờng của mình.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện chiến lợc khác biệt
hoá sản phẩm, tạo ra các nét độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp
dẫn cho khách hàng vào các sản phẩm của mình, nâng cao uy tín của doanh
nghiệp.
Nh vậy, sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối u là một trong những
yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trờng.
b) Yếu tố giá cả.

Giá của một sản phẩm trên thị trờng đợc hình thành thông qua quan
hệ cung cầu. Ngời bán và ngời mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới
mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên đều có lợi. Giá cả đóng vai trò quan
trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền
kinh tế thị trờng, có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, ''khách hàng là
thợng đế '' họ có quyền lựa chọn những gì mà họ mà họ cho là tốt nhất,
và cùng một loại sản phẩm với chất lợng tơng đơng nhau, chắc chắn họ
sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó sản lợng tiêu thụ của doanh
nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả đợc thể hiện nh một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định
giá của sản phẩm: Định giá thấp, định giá ngang thị trờng hay là chính
sách định giá cao.
Với một mức giá ngang thị trờng giúp doanh nghiệp giữ đợc khách

hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra những biện pháp giảm giá thành thì lợi
nhuận thu đợc sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao. Ngợc lại, với một
mức giá thấp hơn giá thị trờng thì sẽ thu hút đợc nhiều khách hàng và
tăng sản lợng tiêu thụ, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm nhập thị trờng,
chiếm lĩnh thị trờng mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn mức giá
thị trờng chỉ sử dụng đợc với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều
này sẽ giúp cho doanh nghiệp thu đợc rất nhiều lợi nhuận (lợi nhuận siêu
ngạch).
Để chiếm lĩnh đợc u thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải
có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng
giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng
vùng thị trờng.
c) Chất lợng sản phẩm.

Nếu nh trớc kia, giá cả đợc coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh
tranh thì ngày nay nó đã phải nhờng chỗ cho chỉ tiêu chất lợng sản phẩm.
Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là ''biện pháp nghèo nàn'' nhất vì nó làm
giảm lợi nhuận thu đợc, mà ngợc lại, cùng một loại sản phẩm, chất lợng
sản phẩm nào tốt đáp ứng đợc yêu cầu thì ngời tiêu dùng cũng sẵn sàng

12


mua với một mức giá có cao hơn một chút cũng không sao, nhất là trong
thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát
triển mạnh, đời sống của nhân dân đợc nâng cao rất nhiều so với trớc.
Chất lợng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm đợc xác định
bằng các thông số có thể đo đợc hoặc so sánh đợc thoả mãn những điều
kiện kỹ thuật và những yêu nhất định của ngời tiêu dùng và xã hội. Chất
lợng sản phẩm đợc hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và

ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố:
công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao
động, trình độ quản lý...
Chất lợng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với một doanh
nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam khi mà
họ đang phải đơng đầu với các đối với các đối thủ cạnh tranh từ nớc
ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lợng sản phẩm không đợc đảm bảo thì
cũng có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất thị trờng,
nhanh chóng đi tới chỗ suy yếu và bị phá sản.
Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới
về chất lợng đã xuất hiện: Chất lợng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp
mà nó còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lợng sản phẩm là yếu
tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan, ở
đây, nhân tố khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Đây là
một quan niệm mới xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trờng ngày càng trở nên quyết liệt hơn.
Chất lợng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của
doanh nghiệp ở chỗ :
+
Nâng cao chất lợng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản
phẩm, tăng khối lợng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản
phẩm.
+
Sản phẩm chất lợng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh
nghiệp, kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trờng.
+
Chất lợng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải
thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp.
d) Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm.

Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh

doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận.
Việc đầu tiên của quá trình tổ chức tiêu thụ sản phẩm là phải lựa
chọn các kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm
mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, nhanh
chóng giải phóng nguồn hàng, để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn.
Xây dựng một hệ thống mạng lới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là
13


xây dựng một nền móng vững chắc để phát triển thị trờng, bảo vệ thị
phần của doanh nghiệp có đợc.
Bên cạnh việc tổ chức màng lới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần
đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng nh quảng cáo, khuyến mại, các
dịch vụ sau bán hàng. Đây là một hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự
chú ý và thu hút khách hàng.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm đợc tổ chức tốt sẽ làm tăng sản lợng
bán hàng từ đó sẽ tăng doanh thu, tăng lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu hồi
vốn nhanh, kích thích sản xuất phát triển.
Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm
tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trờng. Các hoạt động nh quảng cáo
tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... là những hình thức tốt
nhất để giới thiệu về các sản phẩm và doanh nghiệp của mình từ đó giúp
cho doanh nghiệp tìm ra đợc nhiều bạn hàng mới, mở rộng thị trờng nâng
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
e) Yếu tố thời gian

Sự phát triển nh vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn
hiện nay làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay là nhu cầu của
con ngời cũng nh kéo theo sự rút ngắn của chu kỳ sản phẩm. Đối với các
doanh nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh

hiện đại chính là thời gian và tốc độ chứ không phải là các yếu tố truyền
thống nh nguyên vật liệu hay lao động.
Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã làm
cho các cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt hơn và
trong cuộc chạy đua này những ai biết nắm bắt thời cơ, đi trớc thì ngời đó
sẽ thắng. Tốc độ cạnh tranh đã đạt tới một mức độ có thể gọi là "tốc độ
tức khắc". Muốn chiến thắng trong cuộc chiến này, các doanh nghiệp
phải biết tổ chức tốt hoạt động thu thập và xử lý thông tin thị trờng, nắm
bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trờng, nhanh chóng tổ
chức kinh doanh, tiêu thụ thu hồi vốn trớc khi chu kỳ sản phẩm kết thúc.
Hiện nay, ở nhiều nớc phát triển cạnh tranh bằng thời gian là một
biện pháp cạnh tranh rất quan trọng mang yếu tố sống còn của doanh
nghiệp. Đi trớc một bớc trong cạnh tranh là đã giành đợc một chiến thắng
quan trọng trong việc thu hút khách hàng và mở rộng thị trờng, tăng tính
cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, khi xây dựng một chiến lợc kinh
doanh, các doanh nghiệp thờng đề cập tới vấn đề " tốc độ thị trờng ",
"cạnh tranh dựa trên thời gian" và chú trọng tới vấn đề về chu kỳ sản
phẩm, thời gian nắm bắt, thoả mãn nhu cầu thị trờng, thời gian đầu t, thờì
gian thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch và giao hàng, tốc độ của
công tác nghiên cứu và triển khai...
Ngoài các yếu tố này, vốn, quy mô doanh nghiệp... cũng sẽ tác
14


động rất lớn tới sức cạnh tranh cũng nh việc nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp cũng là một yếu tố rất quan trọng, đó là
cơ sở để doanh nghiệp có thể dễ dàng giành thắng lợi trong cạnh tranh vì
họ đã có một lợng khách hàng quen thuộc,tín nhiệm. Uy tín của một
doanh nghiệp đợc hình thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trờng và là một tài sản vô hình mà doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và

phát huy tài sản đó
2. Vì sao phải tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thực chất của tăng sức cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn
các u thế về các mặt giá cả, giá trị sử dụng, chất lợng, uy tín của sản
phẩm và doanh nghiệp, nhằm giành đợc những u thế tơng đối trong cạnh
tranh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ.
Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách
quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trờng đều phải chấp nhận cạnh
tranh. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó sẽ
đào thải không thơng tiếc những doanh nghiệp yếu thế không có đủ sức
cạnh tranh. Do vậy để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không
ngừng phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất giá hành
giá bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ môt cách tốt nhất, đúng lúc
nhất mà vẫn đảm bảo chất lợng sản phẩm đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay.
Đi đôi với sự phát triển nh vũ bão của khoa học kỹ thuật, những đòi hỏi,
yêu cầu của ngời tiêu dùng ngày càng ở mức cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu
thị trờng, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp buộc phải
tiến hành các hoạt động marketing, tìm hiểu thị trờng. Và trong cuộc chiến
này ngời nào nhanh hơn ngời đó sẽ thắng.
Nh vậy, cùng với cạnh tranh, tăng sức cạnh tranh là một tất yếu
khách quan. Để thắng thế trong các cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp buộc
phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực
tiếp nh giá thành, giá bán, chất lợng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp hay
gián tiếp nh các hoạt động quảng cáo, tham gia hội chợ...
ở nớc ta, từ một nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp nhà nớc chắc chắn có phần nào bỡ
ngỡ: Từ chỗ chỉ hoạt động sản xuất một cách thụ động cho tới chỗ phải
tự quyết định lấy các vấn đề quan trọng mang tính sống còn của doanh

nghiệp (sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất nh thế nào, bao
nhiêu...) là cả một vấn đề. Các doanh nghiệp nhà nớc buộc phải làm
quen với điều này cũng nh phải thích nghi với môi trờng kinh doanh mới
của cơ chế thị trờng, chấp nhận các quy luật của thị trờng cũng nh là phải
chấp nhận cạnh tranh. Đặc biệt là trong giai đoạn này, khi đất nớc ta

15


đang xâydựng một nền kinh tế mở, kêu gọi vốn đầu t từ bên ngoài vào
Việt Nam, các hãng nổi tiếng trên thế giới đầu t vào nớc ta ngày một
nhiều và rõ ràng họ có nhiều u thế hơn mình về tiềm lực tài chính cũng
nh là trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. Chính điều này đã buộc các
doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nớc phải tìm
cách nâng cao sức cạnh tranh của mình thì mới có thể tồn tại và phát
triển đợc trên thị trờng.
3. Các nhân tố đã ảnh hởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ cũng gắn
liền với môi trờng kinh doanh và do vậy, nó phải chịu sự tác động, ảnh hởng của nhiều nhân tố bao gồm cả chủ quan và khách quan.
3.1 - Các nhân tố khách quan.
a) Môi trờng kinh tế quốc dân.

Môi trờng kinh tế quốc dân hay còn gọi là môi trờng tổng thể của
một doanh nghiệp bao gồm 4 nhóm nhân tố chính.


Nhóm nhân tố kinh tế.

Đây là những nhân tố quan trọng nhất của môi trờng hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ
kéo theo sự tăng thu nhập cũng nh khả năng thanh toán của ngời dân
cũng tăng lên do vậy nhu cầu hay sức mua của nhân dân cũng sẽ tăng
lên. Mặt khác nền kinh tế phát triển mạnh có nghĩa là khả năng tích tụ và
tập trung t bản lớn nh vậy tốc độ đầu t phát triển sản xuất kinh doanh sẽ
tăng lên. Đây chính là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp phát triển. Doanh
nghiệp nào có khả năng nắm bắt đợc những cơ hội này thì chắc chắn sẽ
thành công và sức cạnh tranh cũng tăng lên.
Tuy nhiên, do sự tăng trởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên
một cách nhanh chóng số lợng các doanh nghiệp tham gia thị trờng, và
nh vậy mức độ cạnh tranh sẽ lại trở nên gay gắt. Ai đi trớc trong cuộc
cạnh tranh này ngời đó sẽ thắng. Và ngợc lại, khi nền kinh tế đang trong
giai đoạn suy thoái, tỉ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả sẽ tăng, sức mua
của ngời dân bị giảm sút, các doanh ngiệp phải tìm mọi cách để giữ
khách hàng, do đó sự cạnh tranh trên thị trờng cũng sẽ khốc liệt hơn
Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng là một nhân tố quan trọng
ảnh hởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Với mức lãi suất đi vay
cao, chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên do phải trả lãi
tiền vay lớn, do vậy sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ bị giảm đi
đặc biệt là đối với các đối thủ có tiềm lực mạnh về tài chính.
Các nhân tố lạm phát, tỉ giá hối đoái, tiền công, tiền lơng... cũng
ảnh hởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh sức cạnh tranh của từng
doanh nghiệp cũng nh là mức độ cạnh tranh trên thị trờng.
16




Nhân tố chính trị và pháp luật.


Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng nh là
cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị
trờng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trờng thuận lợi đảm
bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh
tranh có hiệu quả. Mặt khác chúng cũng có thể đem lại những trở ngại,
khó khăn thậm chí là rủi ro cho các doanh nghiệp. Ta có thể lấy ví dụ
nh các chính sách về xuất nhập khẩu về thuế, các khoản nộp ngân sách,
quảng cáo là những yếu tố tác động trực tiếp kìm hãm hay tạo điều kiện
để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.


Các nhân tố khoa học công nghệ kỹ thuật.

Khoa học công nghệ tác động một cách mạnh mẽ đến sức cạnh
tranh cuả doanh nghiệp thông qua chất lợng sảnphẩm và giá bán. Bất kỳ
một sản phẩm nào đợc sản xuất ra đều phải gắn liền với một công nghệ
kỹ thuật nhất định. Công nghệ sản xuất sẽ quyết định chất lựơng sản
phẩm cũng nh tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó
tạo ra sức cạnh tranh của tng doanh nghiệp cũng nh của toàn doanh
nghiệp.
Khoa học công nghệ mới cũng sẽ giúp cho các doanh nghiệp xử lý
thông tin một cách chính xác và có hiệu quả nhất là trong thời đại bùng
nổ thông tin nh hiện nay. Để có thể cạnh tranh trong thời đại hiện nay,
bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có đầy đủ và chính xác thông
tin về thị trờng và đối thủ cạnh tranh và biết cách xử lý có hiệu quả và
khoa học công nghệ hiện đại sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể thu
thập, xử lý, lu trữ và truyền đạt thông tin một cách nhanh nhất, đầy đủ và
chính xác nhất.
Khoa học công nghệ mới sẽ tạo hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng nh của từng doanh

nghiệp nói riêng, đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định nâng cao
sức cạnh tranh của mình.


Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, văn hoá xã hội.

Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận
lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh. Vị trí địa lý
thuận lợi ở những thành phố lớn, phát triển hay trên các trục đờng giao
thông quan trọng... cũng nh nguồn tài nguyên phong phú đa dạng sẽ tạo
cơ hội cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí thu đợc nhiều lợi nhuận
song mức độ cạnh tranh tại những vùng này cũng sẽ hết sức quyết liệt
buộc các doanh nghiệp phải luôn nâng cao sức cạnh tranh của mình để
tồn tại và phát triển.
Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn hoá tác động
một cách gián tiếp tới sức cạnh tranh của công ty thông qua khách hàng
17


và cơ cấu nhu cầu của thị trờng. ở từng khu vực thị trờng, ở từng vùng
khác nhau, lối sống cũng nh sở thích thị hiếu, phong tục tập quán của ngời dân khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần có những biện pháp nghiên
cứu kỹ thị trờng, có những chính sách phù hợp với từng vùng, lựa chọn
các kênh tiêu thụ thích hợp để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của
từng vùng, từng loại thị trờng.
b) Môi trờng ngành.

Môi trờng ngành- đó là môi trờng mà doanh nghiệp tham gia và
chấp nhận cạnh tranh. Dovậy sự tác động của môi trờng ngành tới sức
cạnh tranh của doanh nghiệp là một điều tất yếu.


Tốc độ tăng trởng của ngành sẽ quyết định mức độ cạnh
tranh của ngành đó. Khi tốc độ phát triển của ngành chậm thì mức độ
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trởng đó sẽ cao và găy gắt hơn
do chỉ cần một biến động nh: sự mở rộng thị trờng của doanh nghiệp này
sẽ ảnh hởng tới phần thị trờng của các doanh nghiệp khác. Các doanh
nghiệp phải cạnh tranh quyết liệt do vậy mỗi doanh nghiệp phải luôn
luôn tìm cách bảo vệ phần thị trởng của mình.

Thêm vào đó số lợng các doanh nghiệp cạnh tranh và các
đối thủ tiềm ẩn cũng là một nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của
một doanh nghiệp. Khi xem xét nghiên cứu thị trờng, doanh nghiệp phải
đánh giá nghiên cứu kỹ lỡng từng đối thủ của mình: Quy mô khả năng
tài chính, trình độ công nghệ, đặc điểm sản phẩm... để từ đó định ra mức
độ cạnh tranh trên thị trờng và đánh giá sức cạnh tranh của đối thủ cũng
nh của doanh nghiệp mình.
Trong một ngành, nếu nh các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có
quy mô và thế lực ngang nhau thì sự cạnh tranh trên thị trờng sẽ trở nên
gay gắt hơn và khi đó sức cạnh tranh của doanh nghiệp hoặc cao hơn
hoặc thấp đi. Mức độ cạnh tranh sẽ càng quyết liệt hơn khi mà có sự
tham gia của các doanh nghiệp mới với công nghệ hiện đại, chất lợng sản
phẩm hơn hẳn, do vậy doanh nghiệp cần phải biết sử dụng một cách hữu
hiệu nhất những gì mà mình có đợc (uy tín, sản phẩm, thị trờng...) và đa
ra các giải pháp mới để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Sản phẩm thay thế: cũng là một nhân tố đe doạ tới sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một
tất yếu nhằm đáp ứng đợc sự thay đổi của thị trờng theo hớng ngày càng
đa dạng và phong phú hơn. Sản phẩm thay thế luôn luôn đợc sản xuất
trên những dây chuyền công nghệ tiên tiến hơn và rõ ràng nó có nhiều u
điểm hơn. Do vậy, chính nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của các sản

phẩm bị thay thế. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trờng bao giờ cũng
phải tính đến mối đe doạ của các sản phẩm thay thế.
Ngoài ra, khách hàng và nhà cung cấp cũng là những ngời tác
18


động tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp vì chất lợng sản phẩm có thể
nói là do họ quyết định một cách gián tiếp.
3.2 - Các nhân tố chủ quan :

Đây là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của
doanh nghiệp vì đây chính là nội lực của doanh nghiệp.

Nguồn nhân lực : Đây chính là những ngời tạo ra sản phẩm
một cách trực tiếp và gián tiếp.
Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp sẽ là những ngời quyết
định các hoạt động sản xuất kinh doanh: Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai,
sản xuất nh thế nào, khối lợng bao nhiêu. Mỗi một quyết định của họ có
một ý nghĩa hết sức quan trọng liên quan tới sự tồn tại phát triển hay diệt
vong của doanh nghiệp. Chính họ là những ngời quyết định cạnh tranh
nh thế nào, sức cạnh tranh của công ty sẽ tới mức bao nhiêu bằng những
cách nào...
Cùng với máy móc thiết bị và công nghệ, công nhân là những ngơì trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Sản lợng cũng nh chất lựơng sản phẩm
là do họ quyết định. Trình độ tay nghề cao cùng với một lòng hăng say
làm việc là cơ sở đảm bảo chất lợng sản phẩm và tăng năng suất lao
động. Đây là tiền đề để doanh nghiệp có thể tham gia cạnh tranh và đứng
vững trên thị trờng.


Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.


Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công
nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn
sẽ làm tăng sức cạnh tranh của công ty lên rất nhiều. Với một cơ sở vật
chất nh vậy chất lợng sản phẩm đợc nâng cao hơn cùng với nó giá thành
sản phẩm hạ đi kéo theo sự giảm giá bán trên thị trờng, khả năng chiến
thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ là rất lớn. Ngợc lại, không
một doanh nghiệp nào lại có sức cạnh tranh cao khi mà công nghệ sản
xuất lạc hậu máy móc thiết bị cũ kỹ vì chính nó sẽ làm giảm chất lợng
sản phẩm tăng chi phí sản xuất.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp:
Đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng nh là
chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt
động đầu t, mua sắm trang thiết bị, nguyên vật liệu hay phân phối, quảng
cáo... đều phải đợc tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng
trang bị các dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lợng,
hạ giá thành, giá bán sản phẩm, tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến
mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài
chính hùng mạnh, một doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một

19


thời gian ngắn, hạ giá sản phẩm nhằm giữ và mở rộng thị phần của doanh
nghiệp để sau đó lại tăng giá, thu đợc lợi nhuận nhiều hơn

20



phần ii

đánh giá sức cạnh tranh
của công ty dầu nhờn petrolimex ( plc )
- == & ==-

I - Giới thiệu chung về công ty dầu nhờn Petrolimex (PLC).
1/ Quá trình hình thành, phát triển của công ty PLC.

Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) là một trong những
tổng công ty mạnh của Việt Nam trực thuộc bộ Thơng mại, hoạt động
kinh doanh xăng dầu lớn nhất nớc ta. Với một hệ thống mạng lới bao
gồm 58 công ty và chi nhánh, Petrolimex đã đáp ứng đợc khoảng 70%
nhu cầu thị trờng xăng dầu cả nớc. Công ty Dầu nhờn Petrolimex hay còn
gọi là PLC là một trong những công ty thành viên của Petrolimex có
chức năng chính là kinh doanh các loại sản phẩm Dầu mỡ nhờn và các
loại sản phẩm dầu mỏ khác.
Tiền thân của công ty là phòng kinh doanh dầu mỡ nhờn của
Petrolimex. Lúc này việc kinh doanh dầu mỡ nhờn chỉ là một bộ phận
nhỏ, doanh thu không đáng kể ( chỉ bằng 3 - 5% doanh thu của các loại
dầu sáng) và hơn nữa Petrolimex gần nh chiếm độc quyền thị trờng này.
Cho tới năm 1991, đất nớc ta bớc vào một giai đoạn mới của thời kỳ
chuyển đổi nền kinh tế. Nhu cầu về dầu mỡ nhờn tăng đột ngột, trong khi
đó, nguồn hàng từ các nớc Đông Âu không còn nữa, Petrolimex đã mở
rộng nguồn hàng, các mặt hàng kinh doanh đợc nhập từ nhiều nớc nh
Anh, Pháp, Mỹ, Nhật... Đây cũng là thời kỳ đầu phát triển của thị trờng
dầu mỡ nhờn. Trên thị trờng đã xuất hiện nhiều hãng nổi tiếng trong và
ngoài nớc tham gia thị trờng nàynh Castrol, BP, Shell, Vidamo... Mức độ
cạnh tranh trên thị trờng trở nên gay gắt. Trớc tình hình nh vậy, để nâng
cao sức cạnh tranh của mình, đáp ứng một cách tốt hơn nhu cầu thị trờng, vấn đề đặt ra đối với Petrolimex là cần phải có một công ty chuyên

sản xuất kinh doanh sản phẩm dầu mỡ nhờn một cách có quy mô, có hiệu
quả.
Ngày 01/ 09/ 1994, Công ty dầu nhờn Petrolimex đợc thành lập.
Tên giao dịch : Petrolimex Lubricant Petrolimex ( PLC )
Trụ sở giao dịch : Số 1 Khâm Thiên - Hà Nội.
PLC là một doanh nghiệp nhà nớc Trực thuộc Tổng công ty Xăng

21


dầuViệt Nam có t cách pháp nhân hoạt động theo chế độ hạch toán độc
lập với tổng số vốn điều lệ 52.500 triệu đồng trong đó vốn cố định là
15.000 đồng.
Qua gần 4 năm hoạt động và phát triển công ty đã thiết lập đợc một
màng lới đại lý trải dài trên toàn quốc với 4 chi nhánh lớn đợc đặt tại Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng một hệ
thống kho cảng, bến bãi, dây chuyền pha chế dầu nhờn công suất lớn đáp
ứng đợc khoảng 20% nhu cầu thị trờng. Ngoài ra, công ty còn đặc biệt
chú ý mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nớc ngoài. Hiện nay, công ty
đại diện cho Petrolimex là một bên đối tác của liên doanh BP-Petco (liên
doanh giữa hãng BP của Vơng quốc Anh và Petrôlimex) cung cấp các
sản phẩm dầu mỡ nhờn chất lợng cao cho thị trờng, đồng thời với t cách
là thành viên thứ 27 của ELFLUB-Marine (Pháp), PLC đã cung cấp dầu
nhờn hàng hải cho tầu biển trong và ngoài nớc tại các cảng Việt Nam.
Cho tới nay, thời gian hoạt động phát triển cha phải là dài, song hiện
nay PLC là một trong những công ty sản xuất, kinh doanh hàng đầu của
Việt Nam trong lĩnh vực dầu mỡ nhờn, nhựa đờng, hoá chất và các sản
phẩm dầu mỏ khác.
2. Nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và lĩnh vực hoạt động của
công ty PLC.

2.1- Nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh :

Theo nhiệm vụ và quyền hạn đã đợc ghi trong điều lệ công ty và
mục tiêu kinh doanh của công ty là đáp ứng đầy đủ kịp thời cả về số lợng
và chất lợng, dịch vụ kỹ thuật cho mọi nhu cầu về dầu mỡ nhờn, các sản
phẩm hoá dầu cho các ngành kinh tế, sản xuất, an ninh quốc phòng trong
cả nớc, ta có thể khái quát nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu của công ty bao
gồm :
+
Trên cơ sở nhu cầu thị trờng, tổ chức nhập khẩu và kinh
doanh các loại dầu mỡ nhờn, các sản phẩm hoá dầu.
+
Tổ chức pha chế các loại dầu mỡ nhờn, các loại sản phẩm
hoá dầuđể phục vụ nhu cầu kinh doanh.
+
hàng.

Tổ chức dịch vụ kỹ thuật, hớng dẫn sử dụng đối với khách

Liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nớc trong các
lĩnh vực thuộc phạm vi kinh doanh theo đúng luật pháp quy định.
2.2 - Lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty PLC.

Dựa vào mục tiêu hoạt động và nhiệm vụ của công ty, nội dung kinh
doanh của công ty là :
22



Kinh doanh các loại dầu mỡ nhờn và các sản phẩm hoá dầu

gồm các sản phẩm :
+

Dầu nhờn các loại

+

Mỡ máy và các loại mỡ bảo quản

+

Nhựa đờng lỏng và nhựa đờng phuy

+

Hoá chất và các sản phẩm hoá dầu khác (trừ nhiên liệu)

Từ nhập khẩu, pha chế, bán buôn bán lẻ trên thị trờng trong nớc va
xuất khẩu ra thị trờng nuớc ngoài.

Kinh doanh các thiết bị vật t kỹ thuật chuyên dùng
tronglĩnh vực dầu mỡ nhờn và các sản phẩm hoá dầu.
Kinh doanh vận tải phục vụ cho việc bán sản phẩm trên thị trờng
trong và ngoài nớc.
3. Bộ máy tổ chức của công ty.

( Biểu 1 : Cơ cấu tổ chức bộ máy của PLC )
Tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh của công ty đợc thể hiện qua
sơ đồ tổ chức bộ máy của PLC (biểu 1) bao gồm :
+

Văn phòng công ty: Giám đốc, phó giám đốc và các phòng
ban chức năng.
+
Các đơn vị trực thuộc là các chi nhánh đặt tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và Hà Nội.
+
Hệ thống các đơn vị đại lý bán dầu mỡ nhờn và các sản
phẩm hoá dầu khác.
3.1 - Văn phòng công ty.

Cơ cấu bộ máy quản lý của văn phòng công ty bao gồm :

Giám đốc công ty là ngời có quyền quyết định mọi hoạt
động của công ty và là ngời phải chịu toàn bộ trách nhiệm trực tiếp trớc
Nhà nớc, Bộ Thơng Mại và Tổng Công ty về mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty.

Giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc, đợc giám đốc
giao nhiệm vụ trực tiếp phụ trách một mảng hoặc một bộ phận hoạt động
của công ty. Hiện nay công ty có 3 phó giám đốc.

Các phòng ban : Văn phòng Công ty Dầu nhờn đợc tổ chức
thành 6 phòng ban :
+
Phòng Tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ sắp xếp và quản lý
lao động nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả lực lợng lao động của công
23


ty. Nghiên cứu, xây dựng các phơng án nhằm thực hiện việc trả lơng,

phân phối tiền lơng, tiền thởng hợp lý trình giám đốc.
+
Phòng Kế toán tài chính : chức năng chủ yếu của phòng là
khai thác mọi nguồn vốn nhằm đảm bảo đủ vốn cho hoạt động kinh
doanh của công ty. Tham mu cho giám đốc xét duyệt các phơng án kinh
doanh và phân phối thu nhập.
Kiểm tra các số liệu thực tế, thủ tục cần thiết của toàn bộ chứng từ
và việc thanh toán tiền hàng. Hớng dẫn các đơn vị mở sổ sách theo dõi
tài sản hàng hoá, chi phí... xác định lỗ lãi, phân phối lãi của từng
đơn vị.
+
Phòng kỹ thuật : Nghiên cứu theo dõi kiểm tra chất lợng
hàng hoá. Thực hiện các dịch vụ kỹ thuật trớc và sau khi bán.
+
Các phòng kinh doanh: Tại công ty hiện nay có 3 phòng
kinh doanh bao gồm :
- Phòng kinh doanh dầu nhờn
- Phòng kinh doanh nhựa đờng
- Phòng kinh doanh hoá chất
Tơng ứng với mỗi tên gọi của phòng là loại mặt hàng mà phòng
đảm nhiệm phụ trách kinh doanh.
Chức năng chính của phòng kinh doanh là :
- Tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng kinh tế.
- Tìm hiểu, điều tra thị trờng, xây dựng phơng án sản xuất kinh doanh
và các biện pháp thực hiện trình giám đốc.
- Xác định lợng hàng nhập khẩu, mở L/C để thanh toán.
Ngoài ra, phòng kinh doanh Dầu mỡ nhờn còn đảm nhiệm việc vận
tải các loại mặt hàng của công ty, thực hiện vận tải xuất khẩu, điều hành
hoạt động từ nhập khẩu, sản xuất dến tái xuất khẩu, xây dựng giá thành
sản phẩm, chỉ đạo việc kinh doanh của các chi nhánh, cơ sở.

3.2 - Các đơn vị trực thuộc công ty.

Công ty Dầu nhờn có 3 chi nhánh trực thuộc tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và một xí nghiệp tại Hà Nội (Xí nghiệp
Dầu nhờn tại Hà Nội).

Chi nhánh Dầu nhờn Thành phố Hồ chí Minh là đơn vị trực
thuộc lớn nhất của công ty. Tại chi nhánh này công ty có hệ thống kho
cảng làm nhiệm vụ tiếp nhận nguồn hàng nhập khẩu của công ty, có một
dây chuyền công nghệ pha chế dầu nhờn với công suất 25.000 tấn/năm
và dây chuyền công nghể sản xuất, hệ thống bồn bể tồn chứa và cung cấp

24


nhựa đờng lỏng với sức chứa 6.000 m3.
Chi nhánh Dầu nhờn Thành phố Hồ Chí Minh có nhiệm vụ tổ chức
các hoạt động sản xuất kinh doanh theo nhiệm vu do công ty giao cho
trên địa bàn từ tỉnh Khánh Hoà đến Mũi Cà Mau.

Chi nhánh Dầu nhờn Đà Nẵng: Có nhiệm vụ tổ chức các
hoạt động kinh doanh của công ty dầu nhờn tại các tỉnh thuộc khu vực
miền Trung. Có hệ thống kho bãi cảng biển tiếp nhận dầu nhờn và nhựa
đờng phuy.

Chi nhánh Dầu nhờn Hải Phòng có dây chuyền công nghệ
tiếp nhận nhựa đờng lỏng, hoá chất. Nơi đây là đầu mối nhập khẩu trực
tiếp và tiếp nhận nguồn hàng pha chế từ thành phố Hồ chí Minh đảm bảo
nhiệm vụ kinh doanh cho công ty tại các tỉnh phía Bắc thuộc khu vực
duyên hải từ Quảng Ninh đến Nghệ Tĩnh.


Xí nghiệp dầu nhờn Hà nội với hệ thống kho bãi để tiếp
nhận nguồn hàng, xí nghiệp dầu nhờn Hà nội có nhiệm vụ tổ chức các
hoạt động kinh doanh của công ty tại thành phố Hà Nội và một số tỉnh
biên giới phía Bắc từ Lạng sơn đến Lai châu. Mặt hàng kinh doanh chủ
yếu là các sản phẩm mang nhãn hiệu BP, ELF...
3.3 - Hệ thống các đơn vị đại lý.

Ngoài các chi nhánh trực thuộc công ty nói trên, công ty Dầu nhờn
Petrolimex còn có một hệ thống mạng lới các đại lý từ Bắc tới Nam. Có
đợc nh vậy là do 57 công ty và chi nhánh xăng dầu thuộc Tổng Công ty
Xăng dầu trên khắp cả nớc làm Tổng đại lý cho công ty, ngoài ra công ty
còn có một cửa hàng chuyên doanh tại Hà Nội.
II. Khái quát tình hình nhập khẩu và tiêu thụ dầu mỡ
nhờn của công ty PLC:
1. Tình hình nhập khẩu dầu mỡ nhờn của PLC trong những năm qua:

Cũng nh xăng dầu, dầu nhờn là một loại mặt hàng mà hiện nay ở
Việt Nam cha sản xuất ra đợc. Nó chủ yếu đợc nhập khẩu từ các hãng nổi
tiếng trên thế giới. Công ty PLC cũng không nằm ngoài tình hình trên.
Nguồn đầu vào của công ty có 3 loại : dầu thành phẩm, dầu gốc, phụ gia.
+ Đối với dầu thành phẩm: 2 nhãn mác chủ yếu mà công ty kinh
doanh đó là: BP, ELF. Với t cách là thành viên thứ 27 của ELF ClubMarine (Pháp), công ty nhập dầu thành phẩm của hãng về bán trên thị trờng Việt Nam. Mặt khác, đại diện cho Petrolimex là một bên đối tác của
liên doanh BP-PETCO, công ty PLC cũng nhập một lợng hàng đáng kể
của BP- Anh bán trên thị trờng Việt Nam. Ngoài ra, công ty còn nhập
một lợng dầu thành phẩm không đáng kể từ các nớc Hà Lan, Singapore,
25



×