Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

NHÀ RÔNG CỦA NGƯỜI BANA Ở GIA LAI TỪ GÓC NHÌN ĐỊA VĂN HÓA.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 9 trang )

Lý do chọn đề tài:

I.

- Gia Lai thuộc Bắc Tây Nguyên, mà đến với Bắc Tây Nguyên thì không thể đến
với nhà rông, cũng như đến các làng quê miền Bắc thì không thể không đến thăm các
ngôi đình làng vậy. Trong đó, “nhà rông của người Bana được coi là hình mẫu đáng để
nghiên cứu, chiêm ngưỡng” (1).
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, bản sắc văn hóa truyền thống của người
Bana ở Gia Lai chịu tác động mạnh mẽ và dần bị bào mòn. Nằm trong khối văn hóa đó,
nhà rông cũng chịu ảnh hưởng của xu thế hiện đại hóa và dần mất đi nét riêng của mình.
Do đó, việc nhận thức rõ ràng và sâu sắc giá trị ngôi nhà rông của tộc người Bana
ở Gia Lai hiện là vấn đề cấp thiết đặt ra nhằm phục vụ cho công tác khôi phục, bảo tồn và
phát huy văn hóa truyền thống không chỉ của cộng đồng người Bana mà còn cho cả cộng
đồng các tộc người bản địa Tây Nguyên ở Gia Lai.
II.
Nội dung chính:
1. Định vị hệ tọa độ văn hóa: “Chủ thể - Không gian – Thời gian” của nhà rông

người Bana ở Gia Lai:
1.1.
Chủ thể văn hóa:
Bana là tộc người đông thứ 3 ở Gia Lai sau người Kinh và người Jarai, là 1 trong
những dân tộc thuộc ngữ hệ Môn – Khmer. Cũng như người Jarai, từ lâu họ cũng sống
bằng nông nghiệp nương rẫy, săn bắn và kết hợp với các nghề truyền thống như dệt vải,
đan lát. Ngày nay, người Bana ở Gia Lai còn chăn nuôi trâu bò và trồng cây công nghiệp
(2)
. Trình độ phát triển kỹ thuật xã hội của họ tương đối cao.
Người Bahnar ở Gia Lai có 5 nhóm: Bahnar Gơlar, Bahnar Bơnâm, Bahnar Tơlô,
Bahnar Kon Kơđeh, Bahnar Chăm .
1.2.



Không gian văn hóa: cũng là địa bàn cư trú của người Bana ở Gia Lai.

Người Bana ở Gia Lai tập trung chủ yếu ở Đông Bắc của tỉnh. Khu vực cư trú:
phía Đông cao nguyên Pleiku (thuộc địa bàn các huyện: Mang Yang, Đak Đoa và xã Hà
Tây, Ia Khươl (phía Bắc huyện Chư Pah - trên phần đất tiếp giáp với tỉnh Kon Tum); trên
cao nguyên Kon Hơnờng thuộc địa bàn huyện Kbang; vùng trũng An Khê thuộc các
huyện Đak Pơ, Kông Chro và 3 làng ở xã Tú Thủy, phía Đông Bắc thị xã An Khê (3).
(1)

“Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam” – Đổng chủ biên: Nguyễn Sỹ Quế, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Hồng
Hương – NXB Khoa học và Kỹ thuật, HN, 2010, trang 150.
(2)
“Việt Nam – các tỉnh và thành phố” – Lê Thông chủ biên – NXB Giáo dục Việt Nam, trang 729.
(3)
“Lịch sử đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945 – 2005)” – chương I, phần III – Điều kiện xã hội, dân tộc và cơ cấu giai cấp.

1


* Đặc điểm tự nhiên: (1)
- Địa hình, thổ nhưỡng: đa dạng:
Núi: tập trung 2 hệ núi lớn của tỉnh Gia Lai: 1 hệ chạy qua đèo An Khê, hệ còn lại
qua đèo Mang Yang. Vùng núi có thung lũng hẹp, rừng nhiều, đất trồng trọt ít nhưng là
đầu nguồn của nhiều sông suối. Vùng tập trung nhiều đất mùn vàng đỏ trên núi.
Cao nguyên: phân bố ở cả 2 cao nguyên Kon Hơnờng với tổ hợp nham bazan màu
xám xanh và đất đỏ vàng bao phủ và cao nguyên Pleiku chủ yếu là đá bazan xám đen.
Vùng trũng An Khê: ranh giới phía Đông và Tây của vùng là 2 hệ núi chạy qua đèo
An Khê và đèo Mang Yang, đặc trưng bởi kiểu địa hình bóc mòn tích tụ với các đồi sót
được tạo thành do hoạt động xâm thực của sông Ba và phụ lưu.

- Khí hậu: tương đối khắc nghiệt.
Dao động nhiệt độ ban ngày và ban đêm khá lớn, đặc biệt là về mùa đông.
Lượng mưa phân bố không đều tạo ra 2 mùa rõ rệt: mùa mưa ẩm hoàn toàn trùng
với mùa gió mùa mùa hạ với hướng Tây và Tây Nam, mùa khô gió đông bắc thổi mạnh.
Chế độ mưa phân hóa phức tạp theo địa hình. Điều này làm xuất hiện lũ lụt về mùa mưa
và hạn hán về mùa khô. Đôi khi xuất hiện sương mù về mùa hạ và dông đầu mùa mưa.
- Sông ngòi: sông Ba (người Bana gọi là sông Đăk Krong) là nguồn cung cấp
nước chính cho sinh hoạt và sản xuất. Thủy chế bị chi phối bởi lượng mưa 2 mùa..
1.3.

Thời gian văn hóa:

Nhà Rông là một trong những di sản văn hoá tiêu biểu gắn với lịch sử cư trú lâu
đời của dân tộc Bana. Theo lời các cụ già Bana ở những đêm kể trường ca tại nhà Rông,
lịch sử nhà rông Tây Nguyên, “theo niềm tin của các cụ, lại trùng khớp một cách tuyệt
vời với... Tháp Babel và cả trận Đại Hồng thủy của Kinh Thánh”.
Thuở ban đầu tất cả mọi người đều là con của Bok Xơ-gơr. Sau sự kiện xây dựng
một ngôi nhà thật lớn và cao nhất thế gian, đến tận trời tức nhà Rông, mọi người không
còn hiểu được ngôn ngữ của nhau, sống phân tán khắp nơi sinh ra người Bana, Xơ đăng,
Jarai, Êđê, người Mạ, người Việt… như ngày nay (2).
(1)

“Lịch sử đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945 – 2005)” – chương I, phần III – Điều kiện tự nhiên, tiềm năng tài nguyên
thiên nhiên và môi trường sinh thái.
(2)
“Nhà rông
Tây Nguyên” – Nguyễn Văn Cự, Lưu Hùng – NXB Thế giới, 2007).

2



2. Nhà rông Bana ở Gia Lai từ góc nhìn Địa – Văn hóa:
2.1.

Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên thông qua đặc điểm kiến trúc:
2.1.1. Vật liệu: (1)
Nhà rông được xây dựng bằng các vật liệu chính từ núi rừng:
- Vật liệu lợp: chủ yếu là cỏ tranh, lá mây, nứa… và cả gỗ. Đây là những loại vật
liệu có tác dụng điều hòa nhiệt độ bên trong nhà: ấm về mùa lạnh, mát về mùa nóng. Nửa
mái dưới và hai đầu hồi mới lợp bằng tranh. Sau khi đã lợp mái, người ta mới đan phên
nứa để làm vách, cũng đan hai lớp để tránh mưa tạt (hình 7, 8).
- Vách và sàn nhà chủ yếu làm bằng tre, nứa đập dập hoặc cây giang…

- Cầu thang: cũng được đục từ nguyên 1 thân gỗ.
- Cột nhà: làm bằng những loại gỗ to và tốt, không bị mục như: trắc, dẻ, dáng
hương, kà chít… Khâu khai thác gỗ rất quan trọng, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức.
2.1.2. Vị trí và hướng nhà:

- Vị trí: nhà rông là biểu tượng văn hóa, là sức mạnh, trái tim và linh hồn của cộng
đồng nên thường nằm ở giữa làng hoặc đầu làng, xung quanh là nhà dân. (2)
- Hướng nhà: xây dựng nhà rông tuân theo nghi thức trang trọng. Phải mất thời
gian dài để chọn nơi dựng nhà rông sao cho phải cao ráo thoáng mát về mùa nắng ấm áp
và mùa mưa, đi từ các con đường về từ xa phải nhìn thấy mái nhà Rông. Khu đất ấy phải
bằng phẳng rộng đủ để tập trung số người ít nhất là gấp ba lần số người của làng (3) .
Hướng nhà thường quay mặt chính về hướng mặt trời mọc (4) để đón gió mát và
không bị hắt nắng chiều. Nhiều nơi, lấy tiêu chí quay mặt xuống sông, suối và quay lưng
lên núi, đồi(5).
3.1.3. Hoa văn trang trí: (6)
Hoa văn trang trí trong nhà mô phỏng thiên nhiên vùng núi rừng, nơi sinh sống.
(1)


/>Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam” – Đổng chủ biên: Nguyễn Sỹ Quế, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Hồng
Hương – NXB Khoa học và Kỹ thuật, HN, 2010, trang 148, 150.
(3)
/>(5)
“Người Bana ở Tây Nguyên” – NXB Thông Tin, Hà Nội, 2007
(6)
“Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên” – Nguyễn Khắc Tụng – Nguyễn Hồng Giáp – NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1991, trang 60.
(2) (4)“

3


- Hai đầu nóc nhà: trang trí hình gà, muông thú, mặt trời (sơ tơ rang mat nar)(hình
10), ở giữa hai mặt trời là các hình lưỡi liềm biểu tượng cho mặt Trăng (mat khei). Đặc
biệt còn có hoa văn đọt rau nhón (kton) – loại rau mọc ven suối, được cách điệu độc đáo.
(1)
Hoa văn này còn được trang trí ở nhiều nơi khác (hình 11) như đầu cầu thang.
- 2 mái nhà là biểu tượng chiếc rìu, một công cụ của nền nông nghiệp nương rẫy
đem lại ấm no, chiến thắng và hạnh phúc cho con người.
- Các cây cột, quá giang, “hàng rào” gỗ ngăn dọc giữa sàn nhà: hoa văn hình chim,
muông thú, cây cỏ, hoa lá mô phỏng từ tự nhiên sẵn có.
Trang trí bên ngoài cũng như bên trong nhà, tạo ra bằng cách chạm khắc gỗ, đan
nan và kết hợp sử dụng 3 màu cổ truyền: đen, đỏ (màu của đất) và trắng.
3.1.4. Kiến trúc:
- Bộ khung: (hình 6, hình 9) khá độc đáo. “Điều đặc biệt là cả 1 công trình đồ sộ
này không hề sử dụng một chiếc đinh sắt nào. Các bộ phận của ngôi nhà được liên kết với
nhau bằng hệ thống ngoàm và dây chằng buộc” (2).Bằng những nguyên liệu tại chỗ kết
hợp các loại mộng, ngoàm đơn giản cùng sự phối hợp chắp nối tạo nên một kết cấu chịu

lực hợp lý, đủ sức chống chọi với gió mưa nắng bão ở miền đất nhiệt đới cao nguyên (3) .
Các mối chắp được buộc bằng dây mây, lạt tre rất chắc chắn.
- Mái nhà Rông:
Khá cao (phổ biến chừng 15 – 20m) và dốc, nhằm thoát nước mưa nhanh và cây lá
không bị tích tụ lâu năm trên mái (4). Mặt khác, môi trường sống là rừng núi nên nhà
Rông như ngọn hải đăng chỉ đường cho những người không may bị lạc.
Hai mái chính rất lớn, phủ bằng một tấm đan, có tác dụng bảo vệ mái nhà khi gió to.
Ở An Khê, Kbang và Kon Chro, nơi nhiệt độ cao hơn lại phổ biến kiều nhà rông
không vươn cao mà chạy dài, thường trong khoảng từ 20 đến 30m, tạo không gian rộng
rãi, thoáng mát cho bên trong ngôi nhà(5).
(1) (4)

“Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam” - Đổng chủ biên: Nguyễn Sỹ Quế, Nguyễn Văn Đỉnh,
Nguyễn Hồng Hương – NXB Khoa học và Kỹ thuật, HN, 2010, trang 151, 191.
(2)
“Tây Nguyên – vùng đất, con người” – NXB Quân đội Nhân dân, trang 198.
(3)
“Góp bàn về nhà rông và nhà rông văn hóa Tây Nguyên” – Bùi Minh Đạo, trang 104 – 115, “Nhà rông – Nhà
rông văn hóa” (kỷ yếu hội Thảo Khoa học) – Viện Văn hóa – thông tin, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2004
(5)
“Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên” – Nguyễn Khắc Tụng – Nguyễn Hồng Giáp – NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 199, trang 60.

4


- Sàn cao hơn mặt đất chừng 70 cm ứng phó với lũ rừng vào mùa mưa, đề phòng
ngừa ẩm thấp, hạn chế côn trùng, sâu bọ, thú dữ.
2.2. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên thông qua giá trị văn hóa, tinh thần
của nhà rông:

- Tính thiêng liêng: môi trường sống khắc nghiệt và hoang sơ hình thành nên lối tư
duy cụ thể bằng hình ảnh quen thuộc và cụ thể còn chứa đựng tính huyền ảo, tạo nên lỗi
tư duy “hiện thực huyền ảo” (1). Nhà rông được xem là chốn linh thiêng và uy nghiêm, nơi
trú ngụ của thần bản mệnh linh thiêng của cả làng. Ở đây còn cất giữ và trưng bày những
linh khí vật chất cộng đồng: hòn đá thiêng, chiêng thần, trống thần (hình 13) … Nhà rông
là, là biểu tượng, là bộ mặt của làng, nơi, bao gồm chiêng thần,trống thần,ché rượu
thần…(2)
- Rừng và nương rẫy tạo nên nền văn hóa mang tính cộng đồng nông nghiệp thuần
túy của cư dân ở rừng – làm rẫy” (3).
Tính cộng đồng: nhà rông là trung tâm của mọi hoạt động trong buôn làng: nơi diễn
ra các cuộc hội họp, hội hè, diễn xướng và kể trường ca của cộng đồng, là trung tâm chỉ
huy chiến đấu cũng như sản xuất. Ngoài ra, đó còn là nơi tổ chức nghi lễ vòng đời của
những người dân trong làng, và là nơi ở, trường học của thanh thiếu niên nam đã đến tuổi
thành đinh. Đây cũng là nhà khách của buôn làng.
Văn hóa rừng – nương rẫy: thể hiện qua những mô phỏng (mái nhà mô phỏng chiếc
rìu), hình nộm và trang trí hình những công cụ lao động (rìu, dao…) và vật phẩm quen
thuộc của nền sản xuất (bắp ngô, củ khoai, bầu nước…). Nhà rông còn là nơi tiến hành
các lễ cúng của tín ngưỡng cầu mùa (cúng mừng lúa mới, cúng bắc máng nước, cúng cầu
mưa… ) (4).

(1)

“Hỏi đáp về luật tục các dân tộc Việt Nam” – NXB Quân đội Nhân dân, trang 15.
“Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên” – Nguyễn Khắc Tụng – Nguyễn Hồng Giáp – NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1991, trang 98 – 149, trang 60, trang 156 - 160
(3)
“Cơ sở văn hóa Việt Nam” – Huỳnh Công Bá – NXB Thuận Hóa, trang 275.
(2) (4)

5



3. Điểm khác nhau giữa nhà Rông của người Bana ở Gia Lai với đình làng của

người Việt ở Bắc Bộ do yếu tố địa lý: (1)
Nhà rông các dân tộc bắc Tây Nguyên

Đình làng người Việt Bắc Bộ

Hướng nhà

Phụ thuộc vào hướng của mặt trời,
Dựa vào phong thủy
nguồn nước.
Kiến
trúc- Sàn cao, cách mặt đất ứng phó với môi - Sàn xây ngay trên móng.
mỹ thuật
trường ẩm ướt và thú dữ.
- Hoa văn trang trí: hình người, hình mặt - Nội dung trang trí: “Tứ linh”, “tứ quý”,
hoa, lá, chim muông, phong cảnh,
Trời, rau dớn, chim, thú...
những sinh hoạt ở nông thôn…
- Không có tường bao kín xung quanh.
- Nhà rông bưng kín xung quanh tạo một
không gian riêng.
Chức năng - Nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng và Là nơi sinh hoạt tôn giáo: thờ Thành
sinh hoạt tín ngưỡng .
Hoàng.
- Trung tâm chỉ huy chiến đấu và chỉ đạo Nơi giao lưu với làng khác
sản xuất

III.

Kết luận:

Dấu ấn môi trường địa lý không hề mờ nhạt trong hình tượng nhà rông nói chung
và văn hóa người Bana nói riêng. Trong bối cảnh hiện nay, môi trường đó đang bị ảnh
hưởn không nhỏ bởi áp lực của xu hướng giao lưu và ảnh hưởng văn hóa khiến quá trình
“Kinh hóa”, “Tây hóa” đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, được đồng nhất với xu hướng
hiện đại hóa văn hóa gây nên sự nhiễu loạn trong việc tiếp thu văn hóa bên ngoài (2).
Không phải ngẫu nhiên mà nhà rông Tây Nguyên nói chung được Đảng và Nhà nước chú
ý và quan tâm, nó chứng tỏ vai trò quan trọng của mình trong việc định hướng chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Rừng hiện đang bị khai phá bừa bãi, diện tích đất bị xói mòn và biến chất càng
lớn, nguồn nước cạn kiệt và ô nhiễm nặng nề… Để khôi phục lại nhà Rông cùng nét văn
hóa truyền thống của dân tộc Bana ở Gia Lai, việc đầu tiên là phải phục hồi và cải thiện
môi trường địa lý tự nhiên này.
(1)

“Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên” – Nguyễn Khắc Tụng – Nguyễn Hồng Giáp – NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1991, trang 156 – 160.
(2)
“Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam” – Ngô Đức Thịnh – NXB Giáo dục Việt Nam, trang 303, 304.

6


Việc chuyển đổi phương thức sản xuất kinh tế nương rẫy sang kinh tế ruộng nước
làm mất đi nhiều sinh hoạt tín ngưỡng gắn liền với hoạt động kinh tế cũ (theo “Nhà rông
trong đời sống đương đại” – Vũ Tú Quyên, Nhà rông – Nhà rông văn hóa – kỷ yếu hội
Thảo Khoa học, Viện Văn hóa – thông tin, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2004, t

rang 254 – 262). Vì vậy, nên duy trì cả hai hình thức sản xuất để bào tồn những sinh hoạt
tín ngưỡng của họ.
Sự thay đổi của môi trường tự nhiên và phương thức sản xuất cùng làn sóng hiện
đại hóa, Kinh hóa đã làm cho “cái khung xã hội buôn làng” tạo nên văn hóa của người
Bana đang bị lung lay nghiêm trọng. Bối cảnh đó làm cho nhà Rông truyền thống đang
dần mất đi vai trò của nó trong đời sống cộng đồng dẫn đến việc tri thức xã hội dần được
mở rộng nhưng tri thức tộc người dần bị thu hẹp lại.
Xu hướng phục hồi văn hóa truyền thống chủ yếu là tác động từ bên ngoài, tức là
những chủ trương, định hướng và quản lý của Đảng và Nhà nước do vậy mà nó mang
tính chủ quan gây ra nhiều sai lệch, dẫn đến sự “ra đời” những “hình nộm” của nhà Rông
văn hóa bằng bê tông cốt thép với vai trò là nhà văn hóa làng.
Do đó, sự tác động phải mang tính hai chiều: nội lực và ngoại lực. Một mặt, nên
khuyến khích người dân tự làm nhà rông theo phương thức truyền thống. Mặt khác khi
xây dựng nhà rông phải chú ý tính cân đối trong kiến trúc của nó với quần thể nhà ở
trong buôn làng, sự thích ứng với điều kiện tụ cư cho đồng bao, và đáp ứng nhu cầu tình
cảm, nguyện vọng của dân làng và các giá trị truyền thông chứ không nên áp đặt chủ
quan.

7


PHẦN HÌNH ẢNH:
Hình 1: Làng Kon Băh (Hà Tây – Chư Păh Hình

2: Nhà rông làng Kon Hơngleh (Chư Păh).
Gia Lai) mừng nhà rông mới. (ảnh: Nguyễn
(ảnh: Duy Ngọc)
Hình
7,
8:

Lợp
mái
Quang Tuệ)
Hình 6: Dàn
giáo đặc biệt
kiểu chữ A,
dựng bằng
những cây tre,
Hình 10:
phỏng theo
Trang trí
hình dạng và
đầu nóc
thế nghiêng
nhà rông
của mái nhà sẽ
truyền
dựng. Những
Hình 3: Nhà rông làng Sơlăl – Hà Tây.
rông
thốngHình 4: Nhà
người
Bavăn
Nahóa huyện Mang
làngDer
Tờ
làm nhà theo
Hình 5: Nhà rông văn hóa làng Pring
Mật
tập quán của

(xã Gào, TP Pleiku) đóng cửa im ỉm suốt
họ ở làng, dù
năm (ảnh: Duy Ngọc) (Kbang)
đặc biệt
là dựng nhà
hình nan
xòe tròn
vương ra
Hình 9: là biểu
Kết cấu tượng
hệ thống mặt trời
kèo, đòn
tay, rui
và bộ
phận vừa
giằng vừa
chống
giữa hai
mái
chính;
Hình
hình
thức
Hình 11: Hình tượng ngọn rau dớn và những
kết Một
hình vẽ trang trí trên đó ở góc sàn sân trước liên 12:
cửa nhà rông (Trang trí ở chân vách và ở góc chủ yếusố
tượng
ngoài của sàn nhà)
gỗ ở

nhà
rông
TÀI LIỆU
THAM
làng
KHẢO:
Cam,
huyện
Kbang,
Hình 13: Chiếc trống của làng – trống kiểu cổ

8 truyền Bana để tại nhà rông, nhưng treo dưới gầm


1. “Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam” – Đồng chủ biên: Nguyễn Sỹ Quế, Nguyễn
2.
3.
4.
5.
6.
7.

8.
9.
10.
11.
12.

Văn Đỉnh, Nguyễn Hồng Hương – NXB Khoa học và Kỹ thuật, HN, 2010.
“Việt Nam – các tỉnh và thành phố” – Lê Thông chủ biên – NXB Giáo dục VN.

“Lịch sử đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945 – 2005)” .
“Người Bana ở Tây Nguyên” – NXB Thông Tin, Hà Nội, 2007.
“Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên” – Nguyễn Khắc Tụng – Nguyễn Hồng Giáp –
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
“Tây Nguyên – vùng đất, con người” – NXB Quân đội Nhân dân, trang 198.
“Nhà rông – Nhà rông văn hóa” (kỷ yếu hội Thảo Khoa học) – Viện Văn hóa – thông tin,
Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2004: 2 bài viết:
- “Góp bàn về nhà rông và nhà rông văn hóa Tây Nguyên” – Bùi Minh Đạo.
- “Nhà rông trong đời sống đương đại” – Vũ Tú Quyên.
“Hỏi đáp về luật tục các dân tộc Việt Nam” – NXB Quân đội Nhân dân.
“Cơ sở văn hóa Việt Nam” – Huỳnh Công Bá – NXB Thuận Hóa, trang 275.
“Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam” – Ngô Đức Thịnh – NXB Giáo dục VN.
Sách ảnh “Nhà Rông Tây Nguyên” - Nguyễn Văn Kự - Lưu Hùng – Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam, 2007. (hinh 4, 6, 9, 10, 11, 12, 13).
Các website:
/> /> (ảnh 1, 2, 5)
(ảnh 3)
(Ảnh 7, 8)

9



×