Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

bảo tồn làng truyền thống dân tộc mông, chuyên đề “lễ dựng nhà và vào nhà mới của người mông ở cát cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.81 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Dẫn luận …………………………………………………………………………… 2
1. Khái quát chung ………………………………………………………………… 3
1.1. Điều kiện tự nhiên làng Cát Cát ………………………………………… 3
1.2. Lịch sử, dân số và phân bố dân cư ……………………………………… 3
1.3. Văn hóa - xã hội……………………………………………… 5
2. Phong tục làm nhà và vào nhà mới của người Mông ở Cát Cát ……………… 6
2.1. Quá trình chuẩn bị ………………………………………………………… 6
2.1.1. Nguyên vật liệu làm nhà ……………………………………………… 6
2.1.2. Chọn đất làm nhà …………………………………………………… 7
2.1.3. Nhân lực làm nhà …………………………………………………… 8
2.1.4. Chọn hướng nhà………………………………………………………… 9
2.2.5. San nền ……………………………………………………………… 11


2.2. Quy trình dựng nhà ……………………………………………………… 12
2.2.2. Dựng khung nhà ……………………………………………………… 12
2.2.3. Lợp mái ……………………………………………………………… 13
2.2.4. Thưng vách …………………………………………………………… 14
2.2.5. Hoàn thiện …………………………………………………………… 16
2.3. Bài trí không gian ngôi nhà ……………………………………………… 17
2.3.1. Tổng thể khuôn viên ………………………………………………… 17
2.3.2. Bài trí không gian cư trú ……………………………………………… 18
2.3.3. Bài trí không gian tín ngưỡng ………………………………………… 20
2.4. Các nghi lễ cúng trong quá trình dựng nhà và bữa liên hoan vào nhà mới 24
2.4.1. Lễ cúng động thổ …………………………………………………… 24
2.4.2. Lễ cúng vào nhà mới ………………………………………………… 25

2.4.3. Bữa liên hoan vào nhà mới …………………………………………… 26
Kết luận …………………………………………………………………………… 28
- 1 -
DẪN LUẬN
Ngôi nhà trước hết là nơi bảo vệ con người trước những bất lợi của thiên nhiên (nắng,
mưa, thú dữ…) và xã hội (trộm, cướp…), là nơi để con người nghỉ ngơi sau những ngày lao
động vất vả. Ngoài ra, đó còn là nơi chứa đựng những thành tố văn hóa phản ánh dấu ấn tộc
người, dấu ấn của một nền kinh tế, của thiết chế xã hội. Nhìn vào ngôi nhà, người ta không chỉ
thấy trình độ phát triển kinh tế của chủ nhân ngôi nhà mà còn bắt gặp ở đó một cơ tầng văn
hóa sống động thông qua vật liệu, kết cấu và kỹ thuật dựng nhà; qua cách bài trí, bố trí không
gian trong nhà và những tục hèm kiêng kỵ. Những yếu tố tín ngưỡng liên quan đến ngôi nhà
luôn đóng vai trò là nền tảng trong việc bảo lưu những những giá trị truyền thống. Càng nhiều

nét văn hóa tín ngưỡng với những quy định chặt chẽ thì ngôi nhà càng bảo lưu được những sắc
thái cổ truyền. Ngược lại, những kiêng kỵ và những nghi lễ tín ngưỡng, những không gian linh
thiêng càng ít thì ngôi nhà càng nhanh biến đổi.
Ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát thuộc phạm trù thứ nhất. Nhìn vào tổng thể không
gian ngôi nhà, đâu đâu chúng ta cũng bắt gặp những không gian thiêng, với những ma nhà, ma
cửa, ma buồng, ma bếp, ma sàn gác.v.v… Nếu gạt bỏ đi những lớp màn huyền bí mang màu
sắc mê tín, chúng ta có thể thấy được ở đó những dữ kiện “biết nói” về lịch sử, văn hóa, xã hội
của họ. Theo quan niệm của người Mông ở Cát Cát, một ngôi nhà tốt không chỉ là một ngôi
nhà được làm từ nguyên liệu tốt, kiểu dáng đẹp, kỹ thuật hoàn hảo… mà nó còn phải được sự
cho phép và phù hộ của thần linh và phải được làm theo những khuôn mẫu mà với niềm tin cổ
xưa thì có làm được những điều ấy, con người sống ở trong ngôi nhà đó mới có cuộc sống tốt
đẹp.

Thuộc dự án Bảo tồn Làng truyền thống dân tộc Mông, chuyên đề “Lễ dựng nhà và
vào nhà mới của người Mông ở Cát Cát” nhằm tìm hiểu về không gian ngôi nhà của người
Mông ở Cát Cát, quy trình dựng nhà và nghi lễ vào nhà mới của họ. Đồng thời, tìm hiểu về
những biến đổi trong trong những phương diện trên. Thông qua đó để thấy được những quan
niệm dân gian, những tri thức bản địa và thái độ ứng xử của người Mông nơi đây với một
phương diện văn hóa vật chất truyền thống của mình Chuyên đề được thực hiện bằng các
phương pháp dân tộc học truyền thống, lấy kết quả khảo sát tại thực địa làm nguồn tài liệu
chính.
- 2 -
1. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Điều kiện tự nhiên làng Cát Cát
N m trên s n dãy Ho ng Liên S n, d i chân núi Phan Si P ng hùng v , l ng Cátằ ườ à ơ ướ ă ĩ à

Cát hi n ang l i m thu hút m t l ng l n khách du l ch h ng n m v l m t trongệ đ à đ ể ộ ượ ớ ị à ă à à ộ
nh ng tr ng i m du l ch c a huy n Sa Pa.ữ ọ đ ể ị ủ ệ
Làng Cát Cát n m trên tr c ng Sa Pa – Sín Ch i,ằ ụ đườ ả trên độ cao 1.400 m so với mực
nước biển. T ng di n tích t nhiên c a l ng l 14,47 ha; phía ông giáp l ng Ý Lình H 1;ổ ệ ự ủ à à đ à ồ
phía tây giáp tr c ng Sa Pa – Sín Ch i; phía nam giáp l ng Sín Ch i; phía b c giápụ đườ ả à ả ắ
Th tr n Sa Pa.ị ấ
C nh quan c trú c a l ng Cát Cát thu c vùng c nh quan núi á. Quá trình t o núiả ư ủ à ộ ả đ ạ
trong Tân ki n t o v i s phân b c a hình ã cho a hình n i ây d ng b m t sanế ạ ớ ự ậ đị đ đị ơ đ ạ ề ặ
b ng – bóc mòn không ho n to n v i c i m b m t n m ngang v h i nghiêng trênằ à à ớ đặ đ ể ề ặ ằ à ơ
các ng phân chia n c ph , các i tho i l n sóng v phân b c. Th nh t o b m tđườ ướ ụ đồ ả ượ à ậ à ạ ề ặ
g m eluvi v á kh i t ng l n d m s n, tr s i á, v phong hóa v n b litoma v sapolit.ồ à đ ố ả ẫ ă ạ ơ ỏ đ ỏ ụ ở à
Xen k trong ó l d ng a hình dòng ch y th ng xuyên c hình th nh t giai o nẽ đ à ạ đị ả ườ đượ à ừ đ ạ

Holocen (Q
IV
) – hi n i nh ng do n m trong vùng nâng m nh trong su t th i k Tệ đạ ư ằ ạ ố ờ ỳ Đệ ứ
nên không có di tích c a các b c th m sông m h u h t l áy thung l ng xâm th c sâuủ ậ ề à ầ ế à đ ũ ự
v m nh m l m tr á g c có tr c di n ngang hình ch V t o ra nh ng thác gh nh cà ạ ẽ à ơ đ ố ắ ệ ữ ạ ữ ề đặ
tr ng.ư
N m trong khu v c ti u vùng khí h u núi cao, khí h u c a l ng Cát cát mang tínhằ ự ể ậ ậ ủ à
ch t c a khí h u á nhi t i. Nhi t trung bình n m kho ng 22 – 23ấ ủ ậ ệ đớ ệ độ ă ả
0
C. Tháng 1 l nhạ
nh t, có n m xu ng n 1 – 2ấ ă ố đế
0

C. Tháng 7 nhi t cao nh t t 19 – 20ệ độ ấ đạ
0
C. M t n m cóộ ă
n 1.400 – 1.600 gi có n ng. S ng y có n ng trong m t n m t 100 n 150 ng y.đế ờ ắ ố à ắ ộ ă ừ đế à
L ng m a trung bình kho ng 2.000 – 2.500 mm/n m v i s ng y m a 180 – 200ượ ư ả ă ớ ố à ư
ng y/n m. L ng m a t p trung l n nh t v o tháng 7, tháng 8 v i 400 – 500 mm/tháng.à ă ượ ư ậ ớ ấ à ớ
Các tháng khô nh t l tháng 12 v tháng 1, l ng m a t ấ à à ượ ư đạ ≈ 60 – 70 mm/tháng. L ngượ
b c h i t 650 – 700 m. m trung bình n m t > 90%. Các hi n t ng th i ti tố ơ đạ Độ ẩ ă đạ ệ ượ ờ ế
c bi t nh dông, m a á, m a phùn, s ng mù, s ng mu i th ng xuyên s y ra.đặ ệ ư ư đ ư ươ ươ ố ườ ả
1.2. Lịch sử, dân số và phân bố dân cư
Theo các truy n thuy t c a Trung Qu c thì ng i Mông xu t hi n s m nh t khuề ế ủ ố ườ ấ ệ ớ ấ ở
v c trung v h l u sông Tr ng Giang, cách nay 5000 n m. n th i k c a vua Nghiêu,ự à ạ ư ườ ă Đế ờ ỳ ủ

Thu n, V l i xu t hi n liên minh m i l ấ ũ ạ ấ ệ ớ à “Tam Miêu” khá hùng m nh nh ng nh ng cu cạ ư ữ ộ
xung t v trang gi a h v i Chính quy n ph ng B c ng y c ng gia t ng khi n cho chođộ ũ ữ ọ ớ ề ươ ắ à à ă ế
tình hình ây không lúc n o c yên n.ở đ à đượ ổ
- 3 -
Sau nhi u cu c chi n di n ra r t kh c li t gi a ng i Hán v ng i Mông, ng iề ộ ế ễ ấ ố ệ ữ ườ à ườ ườ
Mông ph i rút v l u v c sông D ng T , r i v t qua con sông n y v phía Nam vả ề ư ự ươ ử ồ ượ à để ề à
Tây Nam, thu c khu v c giáp v i 5 t nh c a Trung Qu c hi n nay l H Nam (T ng), Quýộ ự ớ ỉ ủ ố ệ à ồ ươ
Châu (Ki m), T Xuyên (Xuyên), H B c (Ng c) v Qu ng Tây (Qu ), l y Nguyên Giangề ứ ồ ắ ạ à ả ế ấ
l m trung tâm.à
Theo t i li u c a tác gi Gi ng Seo G thì ng i Mông n v i vùng t n y cáchà ệ ủ ả à à ườ đế ớ đấ à
nay kho ng 200 n m. Nh ng nhóm ng i u tiên có b n quán Quý Châu qua Vân Namả ă ữ ườ đầ ả ở
(Trung Qu c). Do chi n tranh lo n l c, h ã d i b n quán di c v o L o Cai l m nhi uố ế ạ ạ ọ đ ờ ả ư à à à ề

t. t u tiên g m 80 h gia ình thu c các dòng h V ng, Lù, Châu, Sùng, Ho ngđợ Đợ đầ ồ ộ đ ộ ọ à à
n vùng t Si Ma Cai ng y nay; sau l i chuy n n B c H . Sau khi s ng ó c 3đế đấ à ạ ể đế ắ à ố ở đ đượ
i thì ông Lý Th ng Pua d n 30 h gia ình ti p t c di c n Sa Pađờ à ẫ ộ đ ế ụ ư đế
1
.
T i Sa Pa, ng i Mông ch n vùng t g n su i hi n thu c hai thôn Móng S n 1 vạ ườ ọ đấ ầ ố ệ ộ ế à
Móng S n 2 thu c xã Trung Ch i. Sau m t th i gian s ng ây, dân s ã t ng lên nhanhế ộ ả ộ ờ ố ở đ ố đ ă
chóng bu c ng i Mông ph i ti n h nh khai phá các vùng t m i. H ti n h nh m r ngộ ườ ả ế à đấ ớ ọ ế à ở ộ
vùng t c a mình d c theo tri n d c c a dãy núi Can Th ng kéo d i n vùng Sâu Chuađấ ủ ọ ề ố ủ à à đế
c a xã Sa P . Ti p theo, h khai phá n các vùng núi khác nh khu Hang á, xã H uủ ả ế ọ đế ư Đ ầ
Th o, thôn Ý Lình H , thôn Cát Cát, xã San X Hà ồ ả ồ
2

.
Khi ng i Mông m i n l p l ng (ườ ớ đế ậ à ji oà ) Cát Cát, to n l ng ch có v i h gia ình.ở à à ỉ à ộ đ
Các gia ình khi ó phân b th nh m t kh i d i theo a th c a núi thu c khu v c i 1đ đ ố à ộ ố à đị ế ủ ộ ự Độ
c a l ng Cát Cát hi n nay. Quy mô c a l ng Cát Cát trong m y ch c n m qua có s thayủ à ệ ủ à ấ ụ ă ự
i nhanh chóng v i s h , s kh u ông h n tr c r t nhi u. V o nh ng n m u thđổ ớ ố ộ ố ẩ đ ơ ướ ấ ề à ữ ă đầ ế
k 20, to n l ng Cát Cát c ng có ch a n 20 h thì cho n nay, n i ây ã có 72 h v iỷ à à ũ ư đế ộ đế ơ đ đ ộ ớ
545 nhân kh u; trong ó ng i Mông có 511 ng i, chi m 93,76% dân s to n l ng. Di nẩ đ ườ ườ ế ố à à ệ
tích khu v c c trú c a l ng do ó c ng ã m r ng v i 4 c m ( i) dân c m h g i lự ư ủ à đ ũ đ ở ộ ớ ụ độ ư à ọ ọ à
Y chua s nhể . a gi i c a l ng hi n c xác nh phía B c ti n g n n th tr n Sa Pa,Đị ớ ủ à ệ đượ đị ắ ế ầ đế ị ấ
phía nam v phía ông áp sát các l ng Sín Ch i v Ý Lình H 1, phía tây giáp v i tr cà đ à ả à ồ ớ ụ
ng Sa Pa – Sín Ch i.đườ ả
Cũng như người Mông ở các nơi khác, người Mông ở Cát Cát thích cư trú độc lập, không

xen kẽ với dân tộc khác. 34 người thuộc các thành phần dân tộc khác hiện đang cư trú ở Cát
Cát hiện nay là giáo viên, cán bộ y tế đang công tác tại làng và đưa cả gia đình về cư trú ngay
tại nơi công tác. Các dòng họ người Mông cũng thường quần tụ thành các chòm xóm riêng, ít
khi đan xen. Người Mông ở Cát Cát có 5 dòng họ là Vàng, Thào, Má, Sùng và Lồ. Trong đó, 2
dòng họ có công khai phá làng là họ Vàng và họ Má quần cư chủ yếu ở khu trung tâm của làng
1
. Giàng Seo Gà. Tang ca (Kruôz cê) của người Mông Sa Pa, Nxb.VHDT, H.2004, tr.11
2
. Giàng Seo Gà.Sđd, tr.17
- 4 -
(Đội 1) với 23 hộ gia đình. Các gia đình tách hộ từ 2 dòng họ trên và các hộ thuộc các dòng họ
đến sau cư trú ở các khu vực xa hơn là Đội 2, Đội 3 và Đội 4 [Xem biểu].

Biểu phân bố khu vực cư trú của các dòng họ ở làng Cát Cát
3
STT
Dòng
họ
Khu vực cư trú
Đội 1 Đội 2 Đội 3 Đội 4
1. Vàng 12 hộ 1 hộ 4 hộ 4 hộ
2. Thào 1 hộ 9 hộ
3. Má 11 hộ 6 hộ 16 hộ 1 hộ
4. Sùng 1 hộ
5. Lồ 1 hộ

Kiểu cư trú cụm theo dòng họ như trên thể hiện sự gắn bó giữa những người “cùng họ,
cùng ma” và được đồng bào nói thành khẩu ngữ: “Anh em ghét nhau không bỏ được cái ma,
vợ chồng ghét nhau không bỏ được cái giường”.
1.3. Văn hóa – xã hội
Người Mông ở Cát Cát cho đến nay vẫn bảo tồn khá nguyên vẹn những yếu tố văn hóa
truyền thống của mình. Các yếu tố văn hóa vật thể như nhà cửa, trang phục không chỉ có chức
năng sinh học mà còn có nhiều chức năng xã hội và văn hóa. Nhà cửa của đồng bào có bố cục
mặt bằng sinh hoạt gắn kết chặt chẽ với mối quan hệ gia đình, phân vị chủ khách rõ ràng.
Trang phục của họ mang đậm bản sắc tộc người trong cả cách tạo dáng và các đồ án hoa văn.
Nó phản ánh các tri thức bản địa về kỹ thuật tạo tác nhà cửa, trang phục; những tâm thức tín
ngưỡng: thờ cúng, kiêng kỵ; và tư duy thẩm mĩ cộng đồng.
Văn hóa phi vật thể của người Mông không chỉ được thể hiện qua những tri thức bản địa

trong sản xuất, trong các thể chế xã hội mà còn được phản ánh trong thế giới quan tôn giáo và
các loại hình nghệ thuật cổ truyền, nhất là văn học, dân ca, dân vũ, lễ hội và các trò chơi dân
gian. Giai điệu trầm buồn của chiếc khèn Mông, nỗi xót xa của “tiếng hát mồ côi”, sự cay cực
của “tiếng hát làm dâu” hay âm hưởng da diết nhớ thương của “tiếng hát tình yêu”… Các lễ
hội nào xồng, gầu tào, chợ phiên hay các dịp cưới hỏi, tang ma… là môi trường tích cực trong
việc nuôi dưỡng các giá trị văn hóa phi vật thể cổ truyền.
Cấu trúc xã hội của người Mông ở Cát Cát thể hiện qua những mối quan hệ từ thấp đến
cao như gia đình, dòng họ, làng và liên làng. Gia đình được coi là tế bào nhỏ nhất, là môi
trường đầu tiên để mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị văn hóa truyền thống. Dòng họ tuy
không còn tồn tại với tư cách là một tổ chức kinh tế, xã hội nhưng vẫn có vai trò quan trọng
trong ý thức về cội nguồn thể hiện ở quan niệm về một ông tổ chung. Làng là một môi trường
cộng cư, cộng sinh, được góp mặt bởi 5 dòng họ: Vàng, Thào, Má, Sùng và Lồ. Đó là một xã

hội tự quản, vận hành theo những định chế riêng. Làng Cát Cát cũng thường có mối liên hệ
3
. Tổng hợp từ biểu thống kê dân số và nhà ở làng Cát Cát do UBND xã San Xả Hồ thực hiện tháng 12/2008
- 5 -
qua lại với các làng khác dưới nhiều hình thức: họ tộc, hôn nhân, anh em kết nghĩa và ý thức
về một tộc người thống nhất trong ngôn ngữ và văn hóa.
2. PHONG TỤC LÀM NHÀ VÀ VÀO NHÀ MỚI CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT
2.1. Quá trình chuẩn bị
2.1.1. Nguyên vật liệu làm nhà
Nằm trong khu vực Bảo tồn vườn quốc gia Hoàng Liên, Sa Pa nổi tiếng về rừng, đặc biệt
là các loại gỗ thuộc họ sa mộc như thông, pơ mu và các loại gỗ lim, dổi, lát thơm… Xưa nay,
người Mông ở Cát Cát vẫn sử dụng các loại gỗ này để làm nhà. Từ cột, kèo, quá giang đến ván

thưng vách, ván lợp đều được làm từ gỗ tốt. Trước đây, gỗ pơ mu trong vùng cư trú của người
Mông ở Cát Cát còn nhiều. Người Mông nơi đây đã biết tận dụng lợi thế này để khai thác làm
nhà. Gỗ pơ mu có hai loại khác nhau gọi theo tiếng Mông là pê mù và thư soa. Trong đó, pê
mù là loại cây có thớ thẳng, dễ xẻ, dễ bổ; còn thư soa là loại gỗ có thớ soắn, khó tạo tác hơn
nên đồng bào thường chọn loại thứ nhất để làm. Khi vào rừng, những người có kinh nghiệm
chỉ cần nhìn lá cây là có thể phân biệt được chúng.
Theo kinh nghiệm dân gian, nơi có nhiều gỗ to, gỗ tốt thường ở trong các hẻm núi, khe
suối trong rừng. Trước đây, khi rừng còn sát khu dân cư, việc lấy gỗ ít vất vả hơn. Ngày nay,
đồng bào thường phải đi xa nhà. Nơi lấy gỗ thường cách khu dân cư của thôn Cát Cát từ 1 giờ
rưỡi đến 3 giờ đi bộ đường rừng. Ở đó, rừng già vẫn còn nhiều với những cây gỗ lớn và trung
bình. Mật độ bình quân 10 m/cây. Có những cây có đường kính gốc lên tới 2 – 3 người ôm.
Người Mông ở Cát Cát khi chọn gỗ làm nhà thường chú trọng vào bộ khung, mái và vách

nhà. Mỗi bộ phận lại sử dụng những loại gỗ khác nhau. Theo đó, gỗ làm khung nhà (cột, kèo,
câu đầu, xà vượt, xà ngang…) thường được làm bằng gỗ lim, dẻ trắng (không có quả), dẻ đỏ
(có quả), mái và vách nhà thường làm bằng gỗ pơ mu loại thớ thẳng để dễ bổ, xẻ. Khi chế tác,
đồng bào sử dụng đơn vị đo là sải tay. Các đoạn ngắn được cắt thành từng khúc có độ dài từ
0,8 đến 1,2 m rồi bổ ra để làm tấm lợp. Các tấm lợp to nhỏ phụ thuộc vào cây nhưng phải có
độ dài giống nhau vì không được đẽo gọt nên chúng không phẳng nhưng khi lợp gối lên nhau
khá nhiều nên không bị dột. Các bức tường, vách cũng được làm bằng gỗ. Một ngôi nhà được
làm bằng gỗ pơ mu có tuổi thọ có thể lên tới hàng trăm năm.
Chuẩn bị gỗ làm nhà là công đoạn tốn nhiều thời gian và công sức nhất trong toàn bộ quy
trình dựng nhà. Nhiều gia đình phải mất tới gần mười năm cho công đoạn này. Trường hợp gia
đình ông Má A Dũng, trú tại đội 1, thôn Cát Cát – gia đình được chọn để thực hiện bảo tồn
nghi lễ làm nhà và vào nhà mới của người Mông nơi đây là một ví dụ điển hình. Ông Má A

Dũng (sinh năm 1984) lấy vợ cuối năm 2002. Theo phong tục của người Mông nơi đây, ngay
sau khi có gia đình, ông Dũng đã xác định việc ra ở riêng và việc đầu tiên là phải cất được một
ngôi nhà để trú ngụ. Từ đó, ông Dũng đã cùng các anh em trong nhà, trong họ để ý tìm gỗ để
- 6 -
khai thác. Cho đến cuối năm 2009, gia đình ông mới khai thác được hơn 6m
3
gỗ các loại để
làm nhà.
Việc lấy gỗ làm nhà thường được người Mông tiến hành vào kỳ nông nhàn: từ tháng
mười âm lịch đến tháng chạp hàng năm. Theo kinh nghiệm dân gian, để chống mối mọt, họ
thường đi khai thác gỗ vào hạ tuần các tháng ấy.
Theo thông lệ, người Mông kiêng lấy gỗ từ những cây mọc chia chạc, cây cụt ngọn, cây

sét đánh, cây có dây leo bám ký sinh… Theo quan niệm dân gian, đó là những cây có “số
phận” không tốt, nếu lấy chúng về làm nhà thì cái vận xấu sẽ “lây” vào những người cư trú ở
trong ngôi nhà đó. Những cây được ưu tiên lựa chọn thường là những cây to, mọc thẳng, ngọn
vươn cao, vừa dễ tạo tác, vừa đáp ứng được những yêu cầu về tâm thức tâm linh cổ truyền.
Người Mông ở Cát Cát xưa có quy định về việc sở hữu tài nguyên thiên nhiên nói chung.
Theo luật tục cổ truyền, người chọn gỗ khi tìm được cây gỗ ưng ý sẽ đánh dấu sở hữu bằng
cách dùng dao khắc lên thân cây một dấu nhân lớn ở vị trí vừa tầm mắt nhìn rồi phát quang
một khoảng xung quanh làm dấu. Khi đã có dấu đó, người khác không có quyền xâm phạm.
Luận tục cũng qui định trường hợp người nào cố ý khai thác cây gỗ đã có chủ thì người ấy sẽ
bị chủ gỗ phạt lý 1 con gà, 1 chai rượu; đồng thời phải trả lại toàn bộ số gỗ thuộc về cây đó
cho chủ cây. Dĩ nhiên, trong trường hợp này, người vi phạm sẽ phải chấp nhận mất trắng toàn
bộ công sức chặt hạ, xẻ gỗ. Tuy nhiên, trường hợp này chưa bao giờ xảy ra.

2.1.2. Chọn đất làm nhà
Việc chọn đất làm nhà thường được người Mông ở Cát Cát tiến hành vào thời vụ nông
nhàn, khi gỗ đã chuẩn bị đủ hoặc gần đủ. Miếng đất được chọn để làm nhà vừa phải ở nơi
tương đối bằng phẳng, gần nguồn nước, đảm bảo an toàn trước những biến cố của tự nhiên
như sạt lở, sụt lún, lũ ống, lũ quét, tố lốc… Đồng thời, việc chọn đất còn phải kết hợp với việc
chọn hướng tốt, tránh phạm phải những hướng được xem là tối kỵ. Miếng đất được chọn cũng
phải là đất lành để những người sống trong ngôi nhà ấy sau này mới “có làm, có ăn”.
Như vậy, việc chọn đất là một công đoạn tốn ít thời gian nhất trong việc dựng nhà, không
cần nhiều người và cũng không cần đến sức mạnh cơ bắp. Tuy nhiên, nó lại đòi hỏi ở người
thực hiện một kinh nghiệm dày dặn về phong thủy theo quan niệm cổ truyền và rành rọt về
“đường lý lẽ” của tổ tiên. Vì vậy, ở công đoạn này, thường thì gia chủ là người đích thân thực
hiện, nhưng trước đó, ông ta sẽ phải hỏi đến kinh nghiệm của những bậc cao niên và lĩnh hội

toàn bộ những tri thức mà người già truyền đạt lại. Việc hỏi “đường lý lẽ” này thường được
thực hiện trong các bữa rượu có sự tham gia của người già khi gia chủ có ý định làm nhà mới.
Theo “cái lý” của người Mông ở Cát Cát, ngôi nhà không chỉ là nơi che nắng, che mưa,
bảo vệ con người trước thú dữ, trộm cướp… mà đó còn là nơi để ma tổ tiên và các ma nhà có
nơi trú ngụ. Ma tổ tiên ở trên ban thờ theo dõi cuộc sống của con cháu và phù hộ con cháu làm
- 7 -
ăn. Đồng thời, ngôi nhà phải được đặt trên miếng đất lành. Muốn biết miếng đất ấy có lành
hay không, cách thức cổ truyền của họ là bói xem đất.
Người Mông ở Cát Cát bói xem đất dựng nhà bằng phương pháp bói hố thóc. Phương
pháp này cũng được nhiều tộc người cư trú ở miền núi phía Bắc áp dụng. Nhưng nếu như hầu
hết các dân tộc khác và kể cả nhiều nhóm ngành, nhóm địa phương của người Mông chỉ đào
một hố thóc thì người Mông ở Cát Cát lại đào tới ba hố thóc.

Thực hiện việc này, gia chủ phải xác định hướng nhà, rồi từ đó xác định nơi định đặt ban
thờ tổ tiên (ma nhà), nơi sẽ đặt bếp lò, nơi sẽ làm bếp khách rồi đào ở mỗi vị trí đó 1 hố sâu
khoảng 40 cm, bỏ vào mỗi hố ba hạt thóc. Trong số ba hạt thóc ấy, hạt thứ nhất tượng trưng
cho con người, hạt thứ hai tượng trưng cho gia súc còn hạt thứ ba tượng trưng cho cây trồng.
Một số người còn cắm thêm một cây nhỏ chính giữa ba hạt thóc, sau đó úp bát lên để qua đêm
(có người để qua ba đêm). Theo phong tục của người Mông nơi đây, khi đào hố, đặt thóc cũng
như úp bát lên miệng hố, gia chủ không cần cầu khấn gì mà cứ để đó rồi ra về. Dấu hiệu đất
lành hay đất xấu sẽ được thể hiện ở những hạt gạo vào sáng hôm sau
Sáng hôm sau, gia chủ đến mở bát ra, nếu những hạt ấy không bị thay đổi vị trí, không bị
mốc, không bị kiến tha thì được coi là nơi đất tốt, có thể ở được. Nếu hạt gạo di chuyển ra xa
thì đất xấu; nếu bị mất một hạt là rất xấu, không thể ở được.
2.1.3. Nhân lực làm nhà

Người Mông ở Cát Cát có truyền thống tương trợ lẫn nhau trong những việc cần đông
nhân lực tham gia như canh tác nông nghiệp, làm nhà, hiểu, hỉ… Do quan hệ xã hội cổ truyền
giữa các gia đình thành viên trong dòng họ (quan hệ huyết thống) và cộng đồng (quan hệ láng
giềng) rất khăng khít nên mỗi khi có việc, chỉ cần gia chủ đánh tiếng thì mỗi gia đình trong họ,
trong làng sẽ cử ít nhất một người đến tương trợ.
Việc tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng người Mông ở Cát Cát được thực hiện dưới
hính thức đổi công. Luật tục của người Mông ở đây qui định: “Người Mông ta là một giống
người, như là những cây lanh cùng một loại hạt gieo xuống đất. Chúng ta tối lửa tắt đèn phải
có nhau… Lợn ăn rau, lợn hay cắn nhau nhưng hổ đến thì phải cùng nhau chống…”. Câu
khẩu ngữ trên được lưu truyền qua các thế hệ và thường được những người già truyền lại cho
con cháu những khi xum họp gia đình bên bếp lửa hay những khi xum họp cộng đồng bên
mâm rượu (lễ hội, cưới xin…). Nó có tác dụng cố kết cộng đồng làng, dòng họ trong việc

chống ngoại xâm, trộm cướp và cùng nhau khai phá đất ở, đất canh tác, cùng nhau khai thác tự
nhiên, tạo lập cuộc sống.
Một ngôi nhà của người Mông bao giờ cũng được thực hiện bởi sự đóng góp của nhiều
người trong suốt quá trình từ khâu lựa chọn và khai thác nguyên vật liệu, chọn đất, san nền
cho đến việc dựng nhà và vào nhà mới.
- 8 -
Trong công đoạn lựa chọn nguyên vật liệu, người Mông dựa vào những kinh nghiệm của
cha ông để lựa chọn những nguyên liệu tốt nhất và phù hợp với phong tục. Những gia đình
mới dựng nhà thường là những hộ mới tách hộ, chủ hộ còn trẻ tuổi, ít kinh nghiệm. Khi ấy,
trưởng họ hay những người già giàu kinh nghiệm sẽ truyền cho con cháu những nơi có nguồn
nguyên liệu, những kinh nghiệm để nhận biết nguyên liệu tốt và qui cách khai thác nguyên liệu
sao cho có hiệu quả.

Việc xẻ gỗ, vác đá đòi hỏi nhiều nhân lực. Người Mông nơi đây khi đi xẻ gỗ thường có 6
– 8 người cùng tham gia; và cũng với ngần ấy người cùng chung tay vào việc khai thác đá.
Lúc này, sức trẻ được phát huy. Những người tham gia là những thanh niên và những người
đàn ông có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi. Đó là những người thạo việc đi rừng, rành việc đốn gỗ,
xẻ ván. Sức trẻ còn cho họ nguồn năng lượng tràn trề trong cơ bắp, trong từng thớ thịt để có
thể chặt hạ những cây to đường kính gốc có khi tới 2 người ôm trên những sườn núi dốc rồi lại
bổ, xẻ những cây gỗ ấy thành những xúc gỗ, những tấm ván theo đúng qui cách cổ truyền. Và
cũng chính họ là những người mang những phiến đá, những xúc gỗ, ván gỗ bán thành phẩm về
nhà trên những tấm lưng trần và bờ vai săn chắc, những đôi tay cuồn cuộn cơ bắp.
Việc san đất làm nền thường do 15 – 20 người cùng tham gia. Khác với việc khai thác gỗ,
san đất là một công việc không chỉ đòi hỏi sức cơ bắp mà còn cần phải có nhiều kinh nghiệm
để gia cố những chỗ đất yếu, xử lý tà ly để tạo mặt bằng hợp lý cho khuôn viên nhà. Đồng

thời, công đoạn san nền bao giờ cũng phải được thực hiện sau khi chọn hướng nhà, vị trí mở
cửa chính, đặt bếp lò, cột ma… Lúc này, kinh nghiệm lại chiếm ưu thế, những người già giàu
kinh nghiệm lại cùng nhau bàn bạc, thống nhất chọn hướng nhà, giúp con cháu có được nền
tảng cơ sở cho cuộc sống tốt đẹp mai sau.
Dựng nhà là công đoạn đòi hỏi nhiều nhân lực tham gia nhất. Một ngôi nhà của người
Mông thường do 20 thanh niên và đàn ông trẻ, khoảng 10 – 12 phụ nữ và 1 – 2 người già giàu
kinh nghiệm. Phân công lao động lúc này được quy định, người già lo việc chủ trì các nghi lễ,
tính toán và đánh dấu các vị trí…; đàn ông vác gỗ, chôn cột, thưng ván, lợp mái, mổ lợn…;
phụ nữ tham gia vào các phần việc đun nước, nhặt rau, nấu cơm… Theo thông lệ, trước khi
làm nhà khoảng 2 – 3 ngày, gia chủ sẽ phải đến các nhà đánh tiếng nhờ anh em tương trợ.
Lễ vào nhà mới và bữa liên hoan vào nhà mới được tổ chức ngay khi ngôi nhà đượchoàn
thành. Tham gia vào lễ này là toàn bộ những người đã tham gia vào quá trình dựng nhà. Đây

được xem là một dịp đại sự của gia đình và là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng với những lễ
nghi tín ngưỡng và liên hoan cộng cảm. Thông qua bữa liên hoan này, gia chủ bày tỏ lòng biết
ơn của mình đối với những người đã tham gia giúp mình dựng nhà. Những thành viên khác
tham gia vào bữa liên hoan cùng nhau nâng chén chúc cho gia chủ và gia đình có một cuộc
sống ấm no, hạnh phúc.
- 9 -
2.1.4. Chọn hướng nhà
Việc chọn hướng nhà được người Mông ở Cát Cát thực hiện ngay từ khâu chọn đất làm
nhà. Công việc này đòi hỏi người thực hiện phải có kinh nghiệm và thạo “đường lý lẽ” của tổ
tiên. Đồng bào quan niệm một hướng nhà tốt nằm trên một mảnh đất lành là cơ sở tiền đề cho
một cuộc sống tốt. Vì vậy, đây là công đoạn được tiến hành rất thận trọng và do đích thân gia
chủ thực hiện dưới sự “cố vấn”, chỉ bảo cặn kẽ của những người già, nhiều kinh nghiệm trong

làng.
Trong việc chọn hướng nhà, người Mông nơi đây có những qui định về việc tránh những
hướng, những vật mà đồng bào xem là kỵ, thậm chí là tối kỵ như sau:
- Kiêng quay hướng nhà về hướng Tây vì cho rằng đó là hướng mặt trời lặn, hướng độc.
Nhà làm vào hướng đó thì của cải và cả con người sống trong ngôi nhà đó cũng sẽ sớm “khuất
bóng” theo mặt trời.
- Kiêng quay hướng nhà về phương Bắc vì sợ ma giặc Hán nhìn vào nhà và sẽ làm hại
những người trong nhà.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng vào ngọn núi vì sợ bóng núi đè bóng người, những
người sống trong nhà “làm nhiều mà cũng chẳng có ăn”.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng và sườn dốc vì sợ sườn dốc ấy sẽ cản trở đường làm
ăn của gia đình.

- Kiêng quay hướng nhà vào dông núi vì sợ các ma ác ngụ ở dông núi nhìn vào nhà.
- Kiêng quay hướng nhà vào đỉnh núi võng yên ngựa vì cho rằng đó là thế bị bao vây,
giặc đánh đến không có đường mà chạy.
- Kiêng quay hướng nhà vào nơi có huyệt mộ người chết vì sợ hồn ma của người chết
nhòm vào nhà.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng vào cửa hang vì sợ của cải sau này thất thoát hết, gia
đình sẽ không có tích lũy.
- Kiêng quay hướng nhà đâm thẳng vào đầu đốc nhà khác vì sợ sau này hay có chuyện
xích mích, gây gổ.
Hướng tốt thường được người Mông ở Cát Cát chọn để làm nhà là hướng chính Nam (tốt
nhất), nếu không được hướng chính Nam thì có thể chếch về hướng Tây Nam hay Đông Nam
đều được vì đồng bào quan niệm phương Nam là mảnh đất lành, địa thế hiểm yếu, dễ phòng

thủ, tránh được sự tấn công của giặc dã. Đó cũng là nơi sản vật trù phú, tiện cho đà phát triển.
Quan niệm này bắt nguồn từ lịch sử di cư của người Mông. Đồng thời, trên thực tế, hướng
- 10 -
Nam cũng là hướng mát mẻ, phù hợp với thuyết phong thủy theo quan niệm âm dương, ngũ
hành và bát quái của nhiều dân tộc ở Á Đông.
Do cư trú ở vùng núi dốc nên hướng nhà của người Mông nơi đây cũng chịu sự qui định
của điều kiện địa hình. Trường hợp mảnh đất dựng nhà không được bằng phẳng thì người ta
phải chọn hướng nhà theo thế lưng tựa vào tà ly dương, mặt tiền hướng về phía dốc đổ nhưng
cũng phải tránh được những điệu kỵ và tối kỵ nêu trên.
Như vậy, hướng nhà của người Mông ở Cát Cát luôn quay về hướng Nam hoặc chếch
Đông Nam, Tây Nam. Hướng nhà quay xuống lung lũng hoặc khe núi. Từ vị trí cửa nhà nhìn
thẳng ra phía trước là không gian thoáng, rộng, không bí bách, không có các sự vật không lành

như cửa hang, ngọn núi, sườn dốc, dông núi, mộ huyệt, đầu đốc nhà khác… đâm thẳng vào
cửa nhà.
2.1.5. San nền
Người Mông ở Cát Cát thường san gạt nền nhà vào những lúc nông nhàn. Công cụ san
nền có cuốc, xẻng, xà beng, đầm tay và cáng vận chuyển đất. Nhân lực san nền là những anh
em trong nhà, trong họ dưới sự quán quyến và chỉ bảo của một người già có nhiều kinh
nghiệm.
Tác dụng của việc san gạt nền nhà nhằm để tạo ra một mặt bằng phẳng phiu, không gồ
ghề và đặc biệt là không được dốc. Nền nhà cần phải chắc chắn, tránh được hiện tượng lún nền
trong quá trình ở. Vì vậy, theo kinh nghiệm dân gian, người Mông nơi đây thường san nền
trước khi làm nhà từ 6 tháng đến 1 năm nhằm tạo ra một khoảng thời gian vừa đủ để cho mưa,
nắng giúp cho đất nền được nện chặt, vừa đỡ công, vừa đảm bảo độ bền vững.

Với những ngôi nhà làm trên những mảnh đất dốc, việc xử lý tà ly luôn được chú trọng.
Theo kinh nghiệm dân gian, tà ly dương luôn được làm thẳng đứng, vuông góc với mặt đất và
không được cao vượt mái nhà để tránh không cho nước mưa hay đất lở đổ thẳng xuống mái.
Khoảng cách giữa tà ly dương với vách hậu ngôi nhà ít nhất cũng phải được 1 sải tay trở lên
mới đảm bảo an toàn. Việc xử lý tà ly âm được chú trọng vào khâu gia cố đất nền và kè đá
chống sạt lở. Để có được kết quả như mong muốn, người ta phải khai thác đá tảng dưới lòng
đất trong vùng cư trú để kè chắc thành tà ly. Sau đó, lại mang đá cuội từ lòng suối chảy qua
làng lên đổ đầy vào những chỗ hõm sát với bờ kè tà ly âm để lấy mặt bằng sao cho cao bằng
phần đất sát tà ly dương; sau đó đổ đất lên trên, dùng đầm tay nện chặt, Khi độn đá, người ta
phải tính làm sao để khu vực đó chỉ là khoảng sân trước mặt hoặc sân hai bên hồi nhà, tuyệt
đối không ăn vào nền lòng nhà sẽ gây phức tạp cho việc chôn cột sau này.
Với những mảnh đất nằm trên dạng địa hình bằng phẳng thì việc san nền diễn ra thuận lợi

hơn. Ở những mảnh đất này, việc san nền chỉ là bẩy và chuyển những khối đá tảng nhô đầu lên
mặt đất ra xa, cào bỏ lớp dăm sạn, đất phong hóa (nếu có) rồi đổ đất sét mịn lên trên là được.
- 11 -
Việc san nền thường được đồng bào tập trung nhân lực tiến hành khẩn trương. Thời gian cho
việc san gạt mặt bằng một nền nhà thường khuôn gọn trong một ngày, thường từ khoảng 8 giờ
sáng đến 5 giờ chiều là hoàn tất. Tuy cũng là công đoạn đòi hỏi nhiều nhân lực và kinh nghiệm
nhưng người Mông ở Cát Cát trong khâu san nền nhà không có các lễ nghi cầu cúng, không có
các bài khấn tín ngưỡng và cũng không có tiệc rượu liên hoan.
* Khi đã có đủ gỗ, san xong nền nhà là coi như đã chuẩn bị xong các điều kiện cho việc
dựng nhà. Dĩ nhiên, mỗi gia đình khi chuẩn bị dựng nhà cũng còn phải chuẩn bị đủ một lượng
lương thực, thực phẩm để cung cấp cho các lễ nghi tín ngưỡng trong quá trình dựng nhà và
bữa liên hoan vào nhà mới. Tuy nhiên, đây không phải việc khó. Ngoại trừ gà, rượu và xôi tím

làm lý cúng thổ không trong lễ động thổ là bắt buộc thì lượng rượu, thịt, rau xanh trong bữa
liên hoan mừng nhà mới không có qui định cụ thể về số lượng mà tùy theo điều kiện của từng
gia đình. Theo tư liệu điền dã của chúng tôi tại lễ dựng nhà và vào nhà mới của gia đình ông
Má A Dũng ở đội 1, làng Cát Cát thì lượng đồ ăn thức uống trong bữa liên hoan này có 100 lít
rượu; 80 kg thịt lợn (2 con lợn, mỗi con 40 kg), 50 kg gạo tẻ và khoảng 1 thúng rau cải bắp,
quả xu xu, củ xu hào, cà rốt… Tuy nhiên, theo ông Dũng cho biết, bữa liên hoan này là dịp để
ông mời anh em bạn bè xa gần đến chung vui nên mới làm nhiều như thế. Còn theo thông lệ,
các gia đình ở đây khi làm liên hoan vào nhà mới chỉ sử dụng khoảng một nửa số lượng rượu
thịt nói trên.
2.2. Quy trình dựng nhà
Người Mông ở Cát Cát thường dựng nhà vào khoảng thời gian từ tháng 10 âm lịch năm
trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Ngày được chọn để làm nhà thường trong các ngày từ

mùng 1 đến ngày 19 âm lịch các tháng trên; trong đó tốt nhất là những ngày trăng tròn: 14 – 15
– 16. Cũng như nhiều dân tộc khác ở vùng cao, đồng bào kiêng làm nhà vào những ngày trùng
với ngày mất của tổ tiên, ngày sinh của gia chủ. Quy trình dựng nhà trải qua các bước dựng
khung nhà, lợp mái, thưng vách và hoàn thiện.
2.2.1. Dựng khung nhà
Dựng khung nhà là công đoạn đầu tiên trong toàn bộ qui trình làm nhà mới. Đây là công
việc phức tạp nhất, nặng nhọc nhất và đòi hỏi sự chính xác cao. Vì vậy, trước ngày làm nhà
khoảng 2 – 3 ngày, gia chủ phải đi đánh tiếng nhờ các gia đình trong họ, trong làng đến trợ
giúp. Trong số những người được nhờ đến giúp, phải có 1 – 2 người có nhiều kinh nghiệm
trong việc dựng nhà.
Ngày khởi công dựng nhà, những người được nhờ tập trung ở bãi đất dựng nhà từ sáng
sớm (khoảng 6 giờ sáng). Sau lễ cúng động thổ, một vị cao niên giàu kinh nghiệm sẽ kiểm tra

lại hướng nhà lần cuối; sau đó xác định các vị trí đặt cột cái, cửa chính và bếp lò. Từ ba điểm
- 12 -
này, bằng kinh nghiệm của mình, ông ta dùng các bước sải chân để tính toán và đánh dấu
những vị trí các cây cột còn lại trong bộ khung nhà.
Có được các vị trí đánh dấu, người ta mới bắt tay vào đào các hố chôn cột. Công việc này
được tiến hành từ hố chôn cột cái. Theo phong tục truyền thống, gia chủ phải là người trực tiếp
đào hố này. Trường hợp gia chủ ủy quyền đào cho người khác thì cũng phải bổ 1 – 2 nhát cuốc
đầu tiên để “làm lý” rồi mới chuyển cho người được ủy quyền làm thay. Đồng bào cho rằng
cột cái là nơi thờ ma lợn (Buô đangz) phù hộ cho cuộc sống và sự thịnh vượng của cả gia đình.
Vì vậy, gia chủ sẽ phải là người đào cái hố ấy thì cuộc sống gia đình sau này mới được xuôn
xẻ, mọi việc làm ăn mới diễn ra thuận lợi.
Khi đào xong các hố chôn cột, người ta mới bắt tay vào việc chôn cột. Cũng giống như

khi đào hố chôn cột, việc chôn cột cái cũng phải có sự góp sức của gia chủ. Trong ý thức của
người Mông nơi đây, gia chủ là người thực hiện chính trong việc chôn cây cột cái, những
người khác chỉ là giúp sức. Sau khi đặt cột, gia chủ lấp đất vào chân cột, nện cho thật chặt rồi
mọi người mới buông tay để tiếp tục thực hiện việc chôn cột ở các vị trí khác. Thứ tự các hàng
cột được chôn lần lượt theo từng vì. Đầu tiên là vì cột cái, rồi đến vì cột đối diện của gian giữa
(giáp gian hồi bên phải). Thứ ba là hàng vì vách hồi bên trái và cuối cùng là hàng vì vách hồi
bên phải. Ở mỗi hàng vì, cây cột giữa bao giờ cũng được dựng đầu tiên, sau đó mới đến 2 cột
quân.
Bộ khung nhà truyền thống của người Mông có kết cấu ở dạng vì cột với bốn hàng vì,
mỗi hàng ba cột. Cột nhà truyền thống của đồng bào là cột tròn, đường kính cột thường
khoảng 40 cm. Tính từ mặt đất, cây cột cái cao khoảng 3,8 – 4 m để đỡ vì nóc (câu đầu). Hai
cột quân hai bên cao khoảng 2,5 m để đỡ xà vượt, xà ngang. Khoảng cách giữa cột quân đến

cột cái là 2,5 m tạo ra chiều sâu lòng nhà là 5 m. Khoảng cách giữa mỗi bộ vì là 4 m; tổng 3
gian nhà rộng 12 m. Tổng diện tích lòng nhà ≈ 60 m
2
.
Sau khi chôn xong các cột, người ta lắp các thanh xà ngang, xà vượt, xà nóc. Kỹ thuật lắp
ráp bộ khung nhà của người Mông là kỹ thuật mộng luồn. Đầu mộng được chốt bằng đinh gỗ.
Những mộng hở được xử lý bằng cách chèn thêm các miếng đệm bằng gỗ mỏng. Trong việc
dựng nhà theo qui cách cổ truyền, người Mông nơi đây kiêng dùng đinh kim loại đóng lên các
cấu kiện gỗ. Đồng bào giải thích rằng nếu đóng đinh vào bộ phận nào trong nhà (cột, sàn,
vách, lề cửa…) thì ma sẽ không dám về ở chỗ đó. Những người ở trong nhà sẽ không được
phù hộ.
Sau khi các thanh xà được lắp vào các hàng cột, bộ khung nhà đã được liên kết và đã

thành hình. Người ta sẽ kiểm tra xem các cột đã thẳng hàng chưa, có ngay ngắn không, các
thanh xà có chắc chắn không. Việc chỉnh sửa sẽ được thực hiện ngay khi phát hiện ra những
- 13 -
cấu kiện chưa đạt yêu cầu. Khi bộ khung nhà đã ngay ngắn, người ta mới chèn đá vào các chân
cột, lấp đất và dùng đầm nện chặt cố định chân cột ở hố chôn.
2.2.2. Lợp mái
Mái nhà cổ truyền của người Mông ở Cát Cát được lợp hoàn toàn bằng ngói gỗ pơ mu,
nhẹ và bền. Kích thước của viên ngói gỗ tùy thuộc vào các xúc gỗ được dùng để xẻ ngói. Yêu
cầu duy nhất của việc làm ngói là các viên ngói phải dài bằng nhau; chiều rộng, độ dày và độ
bằng phẳng của các viên ngói trên cùng một mái nhà có thể chênh lệnh đôi chút cũng được.
Thông thường, ngói gỗ pơ mu của người Mông có chiều dài khoảng 70 cm; rộng 25 – 30 cm;
dày khoảng 1 – 1,5 cm. Chính giữa đầu mỗi viên ngói phải được trổ một lỗ nhỏ cỡ bằng đầu

ngón tay cái để đóng chốt gỗ gim viên ngói vào các thanh đòn để giữ cho ngói không bị tuột,
không bị bay khi có gió lớn. Tuy mặt viên ngói thô ráp, gồ ghề nhưng do mật độ lợp khá dày
nên nhà ở truyền thống của người Mông cũng ít khi bị dột, kể cả những khi mưa bão.
Với đặc điểm của dạng ngói gỗ nêu trên, bộ khung đỡ mái nhà của người Mông không có
rui, mè mà chỉ bao gồm có đòn nóc và các đòn tay. Các thanh đòn dài bằng chiều rộng của
ngôi nhà (12 m). Trong đó, các đòn nóc được làm bằng gỗ vuông tiết diện 10 x 10 cm hoặc
hình tròn với đường kính cũng khoảng 10 cm. Theo quan niệm truyền thống của người Mông
nơi đây, cây đòn nóc có ý nghĩa là vật chứa đựng tài lộc và vận hạn của gia đình. Vì vậy, việc
đặt đòn nóc phải do một người có gia đình, vợ chồng toàn vẹn, con cháu đề huề, gia đình khỏe
mạnh, sung túc đảm nhiệm. Đòn nóc phải được đặt theo hướng ngọn quay về đằng Đông (phía
mặt trời mọc) và gốc quay về đằng Tây (phía mặt trời lặn). Các đòn tay đặt cách nhau khoảng
45 – 50 cm đều về hai bên mái. Trong một ngôi nhà truyền thống của người Mông nơi đây,

người ta sử dụng hết 12 cây đòn tay, mỗi bên 6 đòn.
Các thanh đòn được cố định với xà nóc bằng gờ mộng, đóng chốt gỗ (những ngôi nhà
tạm được cố định bằng ngoãm tự tạo và dây buộc). Sau đó, người ta chuyển ngói lên mái để
lợp. Việc lợp mái được thực hiện theo 2 kíp, mỗi kíp 3 người: 1 người chuyển ngói, 1 người
đón ngói, 1 người lợp ngói; mỗi kíp thực hiện việc lợp ở một bên mái nhà theo chiều dốc của
mái. Mái nhà được lợp bắt đầu từ nóc ngoài cùng bên trái, dàn theo hàng ngang đến tận cùng
bên phải. Lần lượt như vậy, hết hàng ngang đầu tiên mới thực hiện tiếp đến hàng ngang thứ
hai rồi đến hàng ngang thứ ba… cho đến hết. Đầu ngói của các hàng ngang sau được luồn
xuống dưới thân ngói của hàng ngang trước theo kiểu so le. Chốt đóng giữ đầu viên ngói ở
hàng ngang sau đóng luồn qua khe rãnh giữa hai viên ngói của hàng ngang trước và đóng ghim
vào đòn tay. Mỗi mái nhà ngói pơ mu cổ truyền người Mông nơi đây có 12 hàng ngói (ứng với
số đòn tay) lợp đều về 2 bên – mỗi bên 6 hàng. Số lượng các viên ngói ở mỗi hàng ngang phụ

thuộc vào chiều rộng của viên ngói. Khi lợp mái, người ta chèn nóc mái bằng một nửa thân
bương lớn bổ dọc, bỏ mấu đốt để giữ mái. Với cách lợp mái như trên, khi trời nắng, người
Mông xưa khi cần lấy ánh sáng ban ngày vào vị trí nào trong nhà thì chỉ cần lấy sào đẩy đầu
- 14 -
viên ngói ở vị trí ấy lệch sang một bên để lấy khoảng trống cho ánh sáng lọt vào. Khi trời mưa,
người ta lại dùng sào kích đẩy viên ngói về vị trí cũ, nhà sẽ không bị dột.
2.2.3. Thưng vách
Vách nhà truyền thống của người Mông ở Cát Cát sử dụng 100% ván gỗ pơ mu. Theo
giải thích của ông Má A Câu, trưởng thôn Cát Cát thì người Mông ở đây trước kia chỉ có công
cụ chế tác gỗ là dao rìu và cưa nên họ ưa thích sử dụng các loại gỗ thớ thẳng, nhẹ, xốp, bền để
chế tác. Trong khi đó, gỗ pơ mu – loại gỗ có đầy đủ các đặc tính ưu việt nêu trên có rất nhiều
trong vùng nên chúng được lựa chọn làm giải pháp ưu tiên hàng đầu.

Người Mông thường khai thác các cây gỗ pơ mu to, thẳng, đường kính gốc tối thiểu 60
cm để làm vách nhà. Sau khi chặt hạ cây gỗ, người ta chặt ngắn thân cây thành những xúc gỗ
dài bằng chiều cao vách nhà, khoảng 2,4 – 2,5 m, róc bỏ phần vỏ xốp bên ngoài rồi xẻ dọc
theo thân cây lấy ván. Việc xẻ ván được thực hiện bằng cưa xẻ, mỗi tấm ván dày ≈ 2 cm, rộng
khoảng 35 – 50 cm. Bình quân, mỗi xúc gỗ, người ta làm ra được khoảng 16 – 18 tấm ván.
Với một cây gỗ đường kính gốc 60 cm, chiều cao khoảng hơn 10 m, sau khi đã chặt bỏ phần
ngọn, người ta có được 3 xúc gỗ đủ tiêu chuẩn làm ván thưng vách nhà. Một ngôi nhà có 2
vách hồi (mỗi vách hồi rộng 5 m), 1 vách tiền, 1 vách hậu (mỗi vách rộng 12 m), sau khi trừ
cửa chính và cửa gách, người ta cần khoảng 50 – 60 tấm ván thưng vách.
Việc thưng vách nhà diễn ra nhanh chóng, gần như làm đồng thời với việc lợp mái nhà.
Kỹ thuật thưng vách của người Mông là chốt gắn vách nhà với các thanh xà nhỏ chạy nối vòng
quanh các cột quân, dùng chốt gỗ đóng cố định các ván gỗ vào các thanh xà trên (gần mái) và

dưới (gần đất). Yêu cầu của việc thưng vách là các tấm ván phải khít và chắc chắn, không
được để hở, không được lung lay.
Trong toàn bộ vách nhà. Nơi được chú ý cẩn thận nhất là khoảng vách hậu nối từ vì cột
ma tới vì cột đối diện ở gian giữa bởi đó là bức vách được dùng để thờ ma nhà và ma tổ tiên.
Vì vậy, những tấm ván tốt nhất, đẹp nhất được dành để thưng khoảng vách này. Những người
thực hiện thưng khoảng vách này cũng phải là những người thạo việc làm nhà bởi người Mông
rất kỵ những sự cố sảy ra ở khoảng vách này trong suốt những năm sử dụng ngôi nhà đó làm
nơi ở. Do đó, việc làm vách thờ ma nhà và ma tổ tiên được tiến hành cẩn thận, kỹ lưỡng ngay
từ khi làm nhà.
Ngoại trừ bức vách thờ ma nhà và ma tổ tiên, việc thưng vách ở những khoảng vách khác
là một việc đơn giản trong quy trình dựng nhà. Vì vậy, ai cũng có thể tham gia vào việc này.
Theo quan sát của chúng tôi tại địa điểm làm nhà của gia đình ông Má A Dũng ở đội 1, làng

Cát Cát thì việc thưng vách có tới gần 20 nam giới đủ mọi lứa tuổi tham gia với thời gian từ
khi bắt đầu đến khi kết thúc chỉ gần 40 phút.
- 15 -
Khi ngôi nhà đã được thưng ván xong thì những người làm mái cũng đã hoàn thành công
việc của mình. Lúc này là coi như ngôi nhà đã được hoàn thành, lễ cúng vào nhà mới và bữa
liên hoan mừng nhà mới diễn ra ngay sau đó. Việc hoàn thiện ngôi nhà sẽ được gia đình chuẩn
bị dần dần về sau.
2.2.4. Hoàn thiện
Nằm trong qui trình dựng nhà, nhưng việc hoàn thiện ngôi nhà mới không được làm ngay
hôm làm nhà mà tùy thuộc điều kiện của từng gia đình mà người ta có thể làm sớm hay làm
muộn, làm nhanh hay làm dần trong nhiều năm.
Một ngôi nhà sau khi làm lễ vào nhà mới xong thường chỉ xong được bộ khung, mái nhà

và bốn bức vách quanh nhà. Việc hoàn thiện còn lại các công đoạn như lắp cánh cửa, làm sàn
gác, đặt bếp lò, bếp kiềng, quây vách buồng.v.v… Việc lập ban thờ ma nhà và ma tổ tiên thì
chỉ khi nào bố của gia chủ chết thì mới được tiến hành. Việc hoàn thiện nhà chủ yếu do anh
em trong gia đình thực hiện.
Trong việc hoàn thiện ngôi nhà, thì việc làm cửa và quây vách buồng thường được chú
trọng đầu tiên và thường được làm sau khi dựng nhà khoảng 1 – 2 tháng. Các cánh cửa và
vách buồng thường được làm từ những ván gỗ giống với ván gỗ dùng để thưng vách nhà. Cách
quây vách buồng cũng dùng kỹ thuật chốt giữ đầu trên và chốt chặn đầu dưới của từng tấm
ván đặt khít nhau như kỹ thuật thưng vách nhà. Kỹ thuật lắp cửa là dùng mộng tròn xuyên qua
lỗ mộng ở xà vách trên – đoạn chạy qua cửa là dầm cửa; và lỗ mộng ở xà vách dưới – đoạn
chạy qua cửa là ngưỡng cửa.
Với sàn gác, các tấm ván rộng cỡ khoảng 30 – 50 cm, dài 3 m được đặt lên quá giang ở

một hoặc hai gian hồi tùy theo điều kiện cụ thể của từng gia đình. Tuy nhiên, theo quan niệm
của người Mông nơi đây, sàn gác thiêng (có ma sàn gác trú ngụ) là ở bên gian hồi bên phải –
nơi có đặt bếp lò. Khi làm sàn gác, người ta chỉ cần ghép các tấm ván khít với nhau trên quá
giang là được, không cần phải đóng chốt gỗ. Bắc ván xong, người ta đặt chiếc thang gỗ được
tạo tác (đẽo bậc) từ một thân gỗ nguyên để làm lối lên xuống gác.
Bếp lò được đặt ở gian hồi bên phải, gần sát vách sau. Việc đắp bếp lò do đàn ông thực
hiện, phụ nữ giúp chuyển đất. Bếp thường đắp bằng đất sét nhưng tốt nhất là dùng đất tổ mối.
Sau khi đã nhào đất kỹ, họ dùng bốn tấm gỗ làm khuôn hình vuông rồi đổ đất vào nện chặt.
Khoảng một ngày sau, khi đất đã se khô thì tháo bỏ khuôn, khoét miệng và cửa lò rồi trát thêm
lớp đất dẻo vào mặt ngoài lò. Trên bếp lò luôn luôn đặt một chiếc chảo gang. Bếp lò chủ yếu
dùng để nấu hoặc đồ cơm buổi sáng và nấu cám lợn. Khi có đám cưới hay đám ma, người ta
luộc thịt lợn, xào nấu ở bếp này.

Gian hồi bên trái là nơi đặt bếp kiềng. Trước kia, để làm bếp kiềng, người ta chôn bốn
hòn đá cuội hình thoi (dài 0,8 – 1 m) làm khung bếp. Phần lòng bếp thấp hơn mặt nền nhà
- 16 -
chừng 10 – 15 cm. Ông Má A Câu, trưởng thôn Cát Cát cho biết: “Nghe người già nói, xưa kia
người Mông lấy ba hòn đá cuội hình thoi chôn xuống đất, đầu chụm vào nhau để làm kiềng
đun nấu gọi là dê chiu. Có ma bếp trú ngụ ở đây nên không được ai đập vào ba hòn đá này,
không được khạc nhổ vào bếp, nhất là khi đang nấu nướng”.
Không biết từ bao giờ, người Mông ở Cát Cát đã biết làm kiềng kim loại để dùng. Ngày
nay, các gia đình đều mua kiềng bếp ở chợ huyện. Bữa sáng và bữa tối đều nấu ăn ở bếp này.
Ngoài việc nấu nướng hàng ngày, bếp kiềng còn là nơi để các thành viên trong gia đình, đặc
biệt là nam giới ngồi tiếp khách và sưởi lửa vào mùa đông.
Phía trên bếp có hai tầng giàn gác. Giàn dưới cất giữ những bắp ngô và các loại hạt

giống: cải, vừng, bầu, bí; đặc biệt trước kia súng kíp cũng được bảo quản ở đây, trong một cái
ống tre (nay súng kíp đã không còn được sử dụng). Giàn trên là chỗ phơi, sấy các loại lạt tre,
dây mây và nan mới chẻ để đan lát. Cạnh bếp là nơi đặt chạn bát và các đồ gia dụng. Phía đối
diện thường kê một cái giường, làm chỗ ngủ cho con trai chưa vợ hoặc cho khách.
Ngoài ra, trong công đoạn hoàn thiện nhà còn phải kể đến việc làm chuồng lợn, chuồng
gà, hàng rào, cổng nhà, vườn rau, máng nước.v.v… Tất cả những việc đó thường được gia
đình tranh thủ làm vào những lúc nông nhàn. Nhiều gia đình phải sau khoảng gần 10 năm làm
nhà mới hoàn thiện được đầy đủ khuôn viên cho ngôi nhà của mình.
2.3. Bài trí không gian ngôi nhà
Người Mông ở Cát Cát quan niệm một ngôi nhà bình thường thì phải có ba gian. Mỗi
gian giữ một chức năng riêng. Gian bếp có ma bếp lò là gian giữ lửa và là gian của vợ chồng
chủ nhà. Gian có bếp kiềng là gian của vợ chồng con. Gian giữa là gian dành để cúng tổ tiên,

ma nhà, là gian chung của cả nhà chuyên để làm những việc lớn của gia đình (hiếu hỉ, lễ
tết…).
2.3.1. Tổng thể khuôn viên
Khuôn viên cư trú truyền thống của người Mông ở Cát Cát luôn được rào bằng tường đá
chắc chắn nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ người, gia súc và của cải nếu có sự tấn công bằng
vũ lực từ bên ngoài, phòng ngừa thú dữ. Trong khuôn viên ấy, ngôi nhà nằm ở vị trí trung tâm
– chính giữa hoặc chính giữa khoảng sau của khuôn viên. Ngôi nhà được làm theo kiểu nhà
trệt. Để chống gió, khí hậu lạnh, sương muối, nhà của họ thường làm thấp, vững chắc, kín đáo.
Các ngôi nhà được dựng trên triền núi, phía trước có suối, phía sau có núi che chở, xung quanh
có thể trồng trọt và chăn nuôi gia súc.
Quy mô nhà thường có ba gian, hoặc ba gian hai chái, kết cấu trên cơ sở bốn vì kèo, ba
hàng cột. Cửa chính mở ở mặt trước của gian giữa. Sát bức vách cạnh cửa là nơi đặt cối giã.

- 17 -
Cửa phụ mở ở gian hai bên hoặc ở vách hai bên đầu hồi nhà, thường là bên phải, nơi có gian
đặt bếp lò, thông ra máng nước. Xung quanh nhà thưng ván, mái lợp ván xẻ.
Gian giữa là nơi thờ tổ tiên và để dụng cụ sản xuất. Bếp lò được đặt ở gian hồi bên phải .
Buồng chủ nhà thì tùy từng dòng họ mà đặt ở bên phải hay bên trái. Hai gian bên, một bên là
bếp lò và buồng ngủ, một bên là bếp khách, giường khách và có thể có thêm một buồng ngủ
nếu gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống. Phía trên là sàn gác, nơi cất trữ lương thực. Một
số gia đình còn làm kho lương thực bên ngoài nhà.
Trong ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát, cửa chính của ngôi nhà luôn được mở ở chính
giữa vách tiền của gian giữa, cửa phụ mở ở vách hồi của gian hồi bên trái. Gọi là cửa phụ
nhưng nó đảm nhiệm chức năng là lối ra vào chính. Hàng ngày, bất kể chủ hay khách, đàn ông
hay đàn bà, người già hay người trẻ cũng thường ra vào nhà qua cửa này nhưng khi có đại sự,

việc ra vào bao giờ cũng diễn ra ở cửa chính. Phía trước nhà là chuồng trâu, ngựa, lợn, gà, tổ
ong nuôi và có kho để lương thực. Ở những chỗ có địa hình tương đối bằng phẳng, đồng bào
còn trồng rau sau nhà và dựng hàng rào phía trước.
Trong khuôn viên của nhiều ngôi nhà còn có lò rèn. Rèn đúc là nghề thủ công nổi tiếng
của người Mông. Thôn Cát Cát hiện còn 03 lò rèn. Lò rèn (pu) đặt trong chái nhà phía sau
hoặc dựng riêng ở phía trước nhà ở. Người Mông thường rèn, đúc vào mùa đông, lúc nông
nhàn và trước vụ trồng trọt. Dụng cụ để rèn gồm có búa, đe, kìm, bễ ngang, lò đứng hình trụ,
đốt lò bằng than củi. Từ sắt thép phế liệu, bằng kinh nghiệm và tính cần cù chịu khó, họ rèn
được dao, cuốc, rìu, búa, xẻng.v.v… Những sản phẩm rèn của người Mông nơi đây được các
tộc người khác trong vùng ưa chuộng. Người Mông nơi đây đúc được cả lưỡi cày. Nguyên liệu
đúc là phôi sắt thép pha gang, được đun nóng chảy rồi đổ vào khuôn đúc. Đặc biệt, người
Mông có kỹ thuật khoan nòng súng kíp rất tài tình, thường khoan trong nhà hay cạnh lò rèn.

Trước đây, hầu hết các ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát đều nuôi ngựa và làm chuồng
ngựa trong khuôn viên nhà. Chuồng ngựa thường dự phía trước nhà để tiện dắt ngựa ra vào và
đề phòng trộm cắp. Nền chuồng hình vuông; khung chuồng, ván lát sàn và ván lợp cũng đều
bằng gỗ pơ mu. Trong sản xuất, sinh hoạt truyền thống nơi đây, ngựa không chỉ được dùng để
cưỡi, là phương tiện thồ hàng rất tiện lợi mà còn là tài sản, hàng hoá có giá trị cao và gắn bó
sâu sắc với đời sống của từng gia đình.
2.3.2. Bài trí không gian cư trú
Việc bài trí không gian cư trú trong ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát có 2 dạng cơ bản
của 2 dòng họ có công khai phá làng. Đó là dạng bài trí của dòng họ Vàng và dòng họ Má. Các
dòng họ khác có cách bài trí nhà giống một trong 2 dòng họ trên. Chúng tôi đã lựa chọn 2 ngôi
nhà điển hình ở cả 2 dạng đó là ngôi nhà ông Vàng A Phay, trú tại đội 3 thôn Cát Cát và ngôi
nhà ông Má A Câu, trú tại đội 2 cùng thôn để khảo tả.

- 18 -
- Dạng bài trí thứ nhất (nhà ông Vàng A Phay):
Trong ngôi nhà này, gian bếp lửa (kraor chuz) được chia đều từ tà ly dương bên trong
nền nhà 1/3 để làm gian buồng cho vợ chồng con trai của chủ nhà. Đây vừa là nơi ngủ của vợ
chồng con trai chủ nhà, vừa là nơi sinh đẻ của con dâu. 1/3 chính giữa nhà sát với cột chính
làm bếp giữ lửa, 1/3 sát tà ly âm phía ngoài để làm giường khách (txangx kruô). Giường này
thường dành khi có khách đến chơi có nơi nghỉ, ngủ
4
. Nếu gia đình đông người, giường này
dành làm nơi ngủ cho những người con trai, cháu trai chưa lập gia đình.
Gian giữa còn gọi là gian chính (hâur plangs tangs) thường để làm các việc lớn như thờ
cúng tổ tiên, cúng quải trừ ma, tổ chức đám cưới, đám tang… Nó có chức năng làm gian nhà

chung của cả gia đình nói riêng, họ hàng nói chung và còn là nơi chị em phụ nữ trong nhà xe
lanh dệt vải…
Gian bếp lò (quangr kraor txuk) được quy định chặt chẽ đối với vị trí đặt bếp lò và hướng
cửa bếp lò. Vị trí đặt bếp lò đối diện với gian buồng của chủ nhà, phía trên làm bếp lò. Cửa
bếp lò đặt theo hướng Nam, kiêng không đặt quay sang bếp giữ lửa. Theo ông Vàng A Phay sở
dĩ như vậy là bởi nếu quay hướng cửa bếp lò ngang sang bếp lửa thì khi mặt trời chiếu vào
giữa, thần lửa sẽ chập cả ba thành một, thần lửa sẽ thịnh và hay gây ra hỏa hoạn, cháy nhà
hoặc con người hay bị bỏng. Phần trước cửa bếp lò là phần nền nhà dành để xếp củi. Phần đấn
nều đối diện với bếp giữ lửa là nơi người nội trợ có chỗ ngồi làm việc.
Phần thứ ba nơi gian bếp lò đối diện với phần đất làm giường khách ở gian đầu dành làm
gian buồng ngủ cho con cái trong nhà.
- Dạng bài trí thứ hai (nhà ông Má A Câu):

Cũng như dạng bài trí thứ nhất, ở dạng bài trí thứ hai, gian giữa được sử dụng chung cho
cả nhà, được sử dụng cho cả gia đình nói riêng, anh em họ hàng nói chung khi có việc lớn và
còn là gian nhà rộng cho chị em phụ nữ đặt guồng xe lanh, khung cửi dệt vải. Điều khác biệt là
cách bố trí ở hai gian hồi và hướng bếp lò.
Gian hồi bên trái cũng là gian đặt bếp kiềng (kraor chuz). Ở gian này, không gian ngôi
nhà được phân thành hai phần. Nửa ở phía bên dưới làm bếp, là nơi để đàn bà con gái làm nội
trợ; còn nửa phía bên trên giáp tà ly nền nhà bên trong làm buồng ngủ của vợ chồng con trai.
Gian hồi bên phải cũng là gian đặt bếp lò (kraor txuk). Vị trí đặt bếp lò được đặt ở nửa
bên dưới. Hướng bếp lò được làm quay về gian giữa nhà. Bếp lò được sử dụng để nấu rượu,
cám lợn, nấu thịt khi nhà có đại sự. Phần không gian bên trên, sát tà ly dương là nơi đặt buồng
ngủ của vợ chồng chủ nhà.
4

. Trong thời gian lưu lại thôn để khảo sát, gia đình ông Vàng A Phay cũng đã bố trí cho cán bộ khảo sát nghỉ tại gian
giường khách này.
- 19 -
Trong ngôi nhà, sàn gác được đặt phía trên quá giang của gian có bếp lò. Người ta dùng 4
– 6 cây gỗ tròn (đường kính 10 – 15 cm) gác lên hai quá giang rồi xếp các tấm ván xẻ hay các
cây tre nhỏ hoặc trải giát tre tạo thành mặt sàn. Để lên sàn gác, người ta bắc một cái thang gỗ
có số bậc lẻ, thường là năm bậc hoặc bẩy bậc, bắc dựa đầu thang vào quá giang để trèo lên.
Sàn gác là nơi cất trữ ngô, thóc, các loại.
2.3.3. Bài trí không gian tín ngưỡng
Gian giữa là gian thờ cúng ma nhà (xưr caz) và ma tổ tiên. Tại gian này, chính giữa vách
hậu của gian giữa (hướng bắc) là nơi đặt ban thờ ma nhà và ma tổ tiên. Chính giữa vách giáp
với gian hồi bên phải (hướng đông) là nơi bố trí cột cái thờ ma lợn (Buô đangz). Chính giữa

vách trước (hướng nam) là nơi mở cửa chính thờ ma cửa (đangz trôngx hay đangz kraor
trôngx). Theo ông Má A Cáng, thầy cúng thôn Cát Cát thì trước đây, những người làm nghề
thuốc còn đặt ban thờ thần thuốc (zuv vangx) ở trong nhà. Bàn thờ thần thuốc được đặt ở cạnh
ban thờ ma nhà và ma tổ tiên. Nhìn chung, trong ngôi nhà của người Mông ở Cát Cát có 6 vị
trí quan trọng, liên quan đến tín ngưỡng, phong tục tập quán và cách ứng xử của người Mông.
Đó là: nơi thờ tổ tiên, cột ma nhà, sàn gác, bếp kiềng, bếp lò, buồng chủ nhà, lò rèn và chuồng
ngựa.
- Nơi thờ tổ tiên trong nhà:
Người Mông ở Cát Cát không lập ban thờ tổ tiên riêng mà thờ chung với ma nhà (xưv
cangz) ở vách hậu nơi gian giữa nhà. Chính giữa gian cúng, người ta đặt một cái bàn nhỏ cách
mặt đất từ 0,4 – 0,5 m. Trên đó đặt ba ống hương. Gia chủ thờ tổ tiên ba đời nên khi cúng
thường có ba cái chén (đựng nước chè) và một cái bát (đựng nước lã).

Cũng như người Mông ở các nơi khác, người Mông ở Cát Cát chỉ cúng tổ tiên vào dịp
mừng năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cúng chữa bệnh. Trong đó, dịp cúng tổ tiên lớn nhất là
vào dịp Tết cổ truyền Mông (tháng 12 âm lịch), nay thường làm vào Tết nguyên đán.
Nơi thờ là chỗ thiêng, chỉ có chủ gia đình mới được cúng mời tổ tiên và con trai mới
được đến gần. Ông Má A Câu, trưởng thôn Cát Cát cho biết: “Người Mông chúng tôi kiêng
ngồi dựa lưng vào vách có chỗ thờ, kiêng ngồi chơi ở khu vực này, nhất là phụ nữ và khách lạ.
Chỉ có chủ nhà mới được phép rót nước vào chén, bát để cúng”.
- Hệ thống ma nhà
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Mông ở Cát Cát vẫn song song tồn tại một hệ
thống “ma nhà” với những lễ thức cúng bái riêng biệt.
+ Ma nhà (xưv cangz): là vị thần linh được người Mông Cát Cát coi trọng nhất với quan
niệm là vị thần cai quản không để tiền bạc, của cải mất mát, phù hộ gia đình làm ăn phát đạt,

- 20 -
giữ gìn các hồn người trong gia đình, không cho hồn chạy đi lang thang ra ngoài. Ma nhà còn
được hiểu là một vị thần kiêm tính mọi chức năng của tất cả các loại ma trong nhà.
Nơi thờ ma nhà đặt ở bức vách gian giữa, đối diện với cửa ra vào. Người Mông ở Cát Cát
cúng ma nhà vào dịp Tết đón mừng năm mới, lễ cơm mới, lúc gia đình có người ốm đau, khi
trồng trọt hoặc chăn nuôi gặp vận hạn, cần trừ tà và cầu xin được phù hộ.
H ng n m, c n êm t t niên, ch nh b t m t con g tr ng ra tr c b n thà ă ứ đế đ ấ ủ à ắ ộ à ố ướ à ờ
kh n vái, sau ó c t ti t r i th trong nh . Ch nh quan sát xem con g quay u vấ đ ắ ế ồ ả à ủ à à đầ ề
h ng n o thì c n c v o ó oán nh vi c l m n trong n m t i có phát t hayướ à ă ứ à đ để đ đị ệ à ă ă ớ đạ
không. Ng i ta tin r ng, n u lúc gi y ch t, con g quay u v b c vách – n i th maườ ằ ế ẫ ế à đầ ề ứ ơ ờ
nh ho c phía bu ng gia ch thì n m ó gia ình l m n phát t, nh ng n u con gà ặ ồ ủ ă đ đ à ă đạ ư ế à
quay ra phía c a thì n m ó gia ình g p khó kh n, hao ti n t n c a. G p tr ng h p y,ử ă đ đ ặ ă ề ố ủ ặ ườ ợ ấ

ch nh b t con g khác l m l cúng l i, n u có bi u hi n nh c thì cúng thêm m t l nủ à ắ à à ễ ạ ế ể ệ ư ũ ộ ầ
n a, v k t qu v n không thay i thì m i nh cam ch u.ữ à ế ả ẫ đổ ớ đà ị
C ng gi ng nh vi c th cúng t tiên, trong nh ng d p c i xin, tang ma hay v o nhũ ố ư ệ ờ ổ ữ ị ướ à à
m i ch nh nh t thi t ph i l m l cúng ma nh báo tin v m i th n nh ch ng…ớ ủ à ấ ế ả à ễ à để à ờ ầ à ứ
giám. L v t dùng cúng ma nh ch có th l th t l n, th t g , c m, r u v ng i taễ ậ để à ỉ ể à ị ợ ị à ơ ượ à ườ
tuy t i kiêng dùng th t bò, th t trâu hay th t chó trong nghi l n y.ệ đố ị ị ị ễ à
+ Ma c t chính (ộ Cu ndêx angzđ ). Cây c t chính (c t ma) l cây c t gi a c a vì kèoộ ộ à ộ ữ ủ
th hai ng n gian u h i bên trái v i gian gi a. Vì ây l “c t thiêng” hay “c t ch ” nênứ ă đầ ồ ớ ữ đ à ộ ộ ủ
l m c t n y, ng i ta ph i ch n cây g th ng, p, ch t o c n th n, ph i vác lênđể à ộ à ườ ả ọ ỗ ẳ đẹ ặ đẽ ẩ ậ ả
vai, không c dùng trâu kéo. Chính ch nh l ng i o h r i chôn c t n y. Trongđượ ủ à à ườ đà ố ồ ộ à
cu c s ng h ng ng y, ng i Mông n i ây kiêng dùng cây que ánh v o c t, kiêng bu cộ ố à à ườ ơ đ đ à ộ ộ
dây ph i qu n áo, óng inh, s mó v o c t. N u ai vi ph m s b qu trách, có khi còn bơ ầ đ đ ờ à ộ ế ạ ẽ ị ở ị

ch nh ph t v m t con g cúng t l ma nh . V o d p T t c truy n, c t thiêng c ngủ à ạ ạ ộ à để ạ ỗ à à ị ế ổ ề ộ ũ
c dán gi y tr ng (t ng tr ng cho vi c m c áo m i), th p h ng d i chân c t, v yđượ ấ ắ ượ ư ệ ặ ớ ắ ươ ướ ộ ẩ
n c lã v phun r u tr t ma.ướ à ượ để ừ à
C t thiêng chính l n i th ma l n (ộ à ơ ờ ợ Buô angzđ ). Nó t ng tr ng cho s h ng th nhượ ư ự ư ị
c a gia ình, liên quan n s c kho v v n m nh c a m i ng i trong nh .ủ đ đế ứ ẻ à ậ ệ ủ ọ ườ à
Theo quan ni m c a ng b o, vi c cúng ma c t chính còn nh m t n nh ng ng iệ ủ đồ à ệ ộ ằ ạ ơ ữ ườ
x a kia ã giúp ng i Mông v t qua ho n n n tìm l i ch vi t ã m t. V t cúng lư đ ườ ượ ạ ạ để ạ ữ ế đ ấ ậ à
l n nái ã v cúng theo t p quán chung c a c dòng h . Sau khi cúng, h m l n th ngợ đ đẻ à ậ ủ ả ọ à ợ ườ
c treo c t chính. Nhi u ng i sau khi cúng xong l i em x ng h m y t i vđượ ở ộ ề ườ ạ đ ươ à ấ đố đ à
kiêng không treo hay chôn b t c v t gì cây c t n y.ấ ứ ậ ở ộ à
+ Ma c a (ử Khaor trôngx plangl) l v th n linh c quan ni m l chuyên vi c canhà ị ầ đượ ệ à ệ
gi c a, ng n ng a các ma ác v o nh , b o v gia súc, b o vê c a c i, b o v các linhữ ử ă ừ à à ả ệ ả ủ ả ả ệ

- 21 -
h n, gi gìn không cho linh h n c a các th nh viên trong gia ình b i. Khi n o gia súc,ồ ữ ồ ủ à đ ỏ đ à
gia c m b b nh t t, ho c b h v l do ma c a b ngã. B i v y, b t k ng i Mông n oầ ị ệ ậ ặ ị ổ ồ à ử ị ở ậ ấ ỳ ườ à
khi ã có gia ình v ngôi nh c a mình u ph i l m ngay l “d ng” ma c a.đ đ à à ủ đề ả à ễ ự ử
Trong câu truy n l u truy n n ng y nay, ng i Mông k r ng: “ệ ư ề đế à ườ ể ằ Th xa x a, khiưở ư
tr i t còn h n lo n, trong b u tr i xu t hi n 11 m t tr i, 11 m t tr ng thi nhau chi uờ đấ ỗ ạ ầ ờ ấ ệ ặ ờ ặ ă ế
sáng l m cho m t t khô c n, cây c i ch t h t, con ng i kh s không sao k si t.à ặ đấ ằ ố ế ế ườ ổ ở ể ế
Tr c tình c nh y, anh em Zax Zuav v Zax Zi l nh ng ng i r t gi i b n cung tên m iướ ả ấ à à ữ ườ ấ ỏ ắ ớ
b n nhau b n m t tr i v m t tr ng tr ho cho m i ng i. Khi t t c m t tr i, m tà ắ ặ ờ à ặ ă để ừ ạ ọ ườ ấ ả ặ ờ ặ
tr ng xu t hi n, hai ng i d ng cung b n. M t tr i, m t tr ng s quá b tr n bi t h t,ă ấ ệ ườ ươ ắ ặ ờ ặ ă ợ ỏ ố ệ ế
th l m t tr i v m t t l i t i en nh m c, con ng i v n ch a thoát kh i c nh khế à ặ ờ à ặ đấ ạ ố đ ư ự ườ ẫ ư ỏ ả ổ
c c. Không còn cách n o, ng i Mông nh kéo n c u c u ông Sâuz - m t ng i t iự à ườ đà đế ầ ứ ộ ườ à

gi i, thông hi u m i vi c. Sâuz g i m t tr i, m t tr ng v anh em Zax Zuav, Zax Zi nỏ ể ọ ệ ọ ặ ờ ặ ă à đế
gi ng ho v nói r ng, t nay ch nên xu t hi n m t m t tr i, m t m t tr ng l . ngả à à ằ ừ ỉ ấ ệ ộ ặ ờ ộ ặ ă à đủ Đồ
th i, tránh nh m l n, Sâuz trao nhi m v cho con g tr ng l m tr ng t i v quy nh:ờ để ầ ẫ ệ ụ à ố à ọ à à đị
khi n o g tr ng g i, m t tr i m i c ra v m t tr ng ph i i ng ; lúc n o g tr ng ià à ố ọ ặ ờ ớ đượ à ặ ă ả đ ủ à à ố đ
ng , m t tr i ph i i ng theo g tr ng v khi y m t tr ng m i c ra. Sau cu c phánủ ặ ờ ả đ ủ à ố à ấ ặ ă ớ đượ ộ
x ó, g tr ng có s c m nh phi th ng, qu n lý m t tr ng, m t tr i, trông coi c âmử đ à ố ứ ạ ườ ả ặ ă ặ ờ ả
d ngươ ”. Vì th , ng i Mông ã ch n g tr ng l m ma c a c a mình.ế ườ đ ọ à ố à ử ủ
Nghi l d ng ma c a c a ng i Mông Cát Cát c ti n h nh n gi n nh ng r tễ ự ử ủ ườ ở đượ ế à đơ ả ư ấ
thiêng liêng. ng b o dán m t m nh gi y lên d m c a chính, ng i ch l b t m tĐồ à ộ ả ấ đỏ ầ ử ườ ủ ễ ắ ộ
con g tr ng hoa kho p c n v o m o cho máu ch y ra, h qu t máu ó lên m nh gi yà ố ẻ đẹ ắ à à ả ọ ệ đ ả ấ
. T ó, con g y c xem l hi n thân c a ma c a, không ai c ng n.đỏ ừ đ à ấ đượ à ệ ủ ử đượ đụ đế
Ng i Mông n i ây cho r ng, khi con g hi n thân cho ma c a gáy g thì có ngh a l maườ ơ đ ằ à ệ ử ở ĩ à

c a thông qua ti ng gáy c a g m ng m báo cho m i ng i bi t tr c tai ho ử ế ủ à à ầ ọ ườ ế ướ ạ để đề
phòng.
Trong ng y T t c truy n c a ng i Mông, các gia ình u l m l t n ma c a, và ế ổ ề ủ ườ đ đề à ễ ạ ơ ử ị
th n linh giúp h tránh c cái ác, cái x u su t n m qua.ầ ọ đượ ấ ố ă
Trong c i xin, ma c a óng vai trò h t s c quan tr ng trong nghi l “nh p ma” cho côướ ử đ ế ứ ọ ễ ậ
dâu. Khi cô dâu n c a nh trai, i di n c a nh trai s c m con g ma c a quay bađế ử à đạ ệ ủ à ẽ ầ à ử
vòng trên u cô dâu v kh n xin ma c a ch p nh n cô dâu l th nh viên m i c a giađầ à ấ ử ấ ậ à à ớ ủ
ình. Sau l n y, cô dâu m i c b c v o nh v chính th c tr th nh ng i c a nhđ ễ à ớ đượ ướ à à à ứ ở à ườ ủ à
ch ng.ồ
Trong ám tang, ng i ta c ng ph i l m l cúng th n c a xin th n c a cho h nđ ườ ũ ả à ễ ầ ử để ầ ử ồ
ng i ch t v v i t tiên. Nhi u tr ng h p gia ình có ng i m hay gia súc b d chườ ế ề ớ ổ ề ườ ợ đ ườ ố ị ị
b nh, ch t nhi u, ch nh ph i m m t con l n v t mình l m l cúng. M c ích c aệ ế ề ủ à ả ổ ộ ợ à ự à ễ ụ đ ủ

- 22 -
vi c cúng ma c a l c u mong cho to n th gia ình m nh kho , con cái ngoan ngoãn; c uệ ử à ầ à ể đ ạ ẻ ầ
mong cho n gia súc sinh sôi n y n Th i gian ti n h nh nghi l cúng ma c a luôn…đà ả ở ờ ế à ễ ử
c th c hi n v o bu i t i v c a nh s c óng l i trong su t quá trình ó.đượ ự ệ à ổ ố à ử à ẽ đượ đ ạ ố đ
Nghi l cúng ma c a không ph c t p, nh ng con l n dùng trong cúng l ph i l conễ ử ứ ạ ư ợ ễ ả à
l n ã c c t m t nhúm lông uôi ngay t khi còn bé ch nh t trên c a chínhợ đ đượ ắ ộ đ ừ để ủ à đặ ử
c a ngôi nh . Trong l cúng ma c a, ph n tuy t i không c tham gia. Sau khi ãủ à ễ ử ụ ữ ệ đố đượ đ
gi t th t con l n, ng i ta b y th t ra các bát c nh c a chính v ch nh ng ra th cế ị ợ ườ à ị để ạ ử à ủ à đứ ự
hi n nghi l cúng, c u xin ma c a hãy giúp ng n ch n nh ng cái x u, b o v nh ng cái t tệ ễ ầ ử ă ặ ữ ấ ả ệ ữ ố
trong nh .à
+ Ma bu ng: Trong m i ngôi nh c a ng i Mông Cát Cát th ng có nhi u c nồ ỗ à ủ ườ ườ ề ă
bu ng, s l ng bu ng tu thu c v o s th nh viên ã tr ng th nh trong gia ình (namồ ố ượ ồ ỳ ộ à ố à đ ưở à đ

18, n 16 tu i tr lên). Tuy v y, ng b o quan ni m ma bu ng ch có bu ng ng c a vữ ổ ở ậ đồ à ệ ồ ỉ ở ồ ủ ủ ợ
ch ng ch nh . Bu ng th ng l m h p (d i kho ng 2,5 m; r ng 1,6 m), vách th ng ván,ồ ủ à ồ ườ à ẹ à ả ộ ư
c a ra v o nh . Trong bu ng có m t cái gi ng h p (r ng kho ng 1,2 m; d i 2 m), t trênử à ỏ ồ ộ ườ ẹ ộ ả à đặ
b n c t g tròn chôn xu ng t, tr i dát tre. Ông Má A Câu, tr ng thôn gi i thích: “ố ộ ỗ ố đấ ả ưở ả L mà
gi ng h p nh th l th hi n s g n bó chung thu tr m n m c a v ch ng. T pườ ẹ ư ế à để ể ệ ự ắ ỷ ă ă ủ ợ ồ ậ
quán quy nh b ch ng v các b c chú bác c ng nh khách l không c v o bu ng conđị ố ồ à ậ ũ ư ạ đượ à ồ
dâu vì cho r ng nh th l có ý x uằ ư ế à đồ ấ ”.
Theo quan ni m c a ng i Mông Cát Cát, ma bu ng liên quan t i vi c ch m sóc,ệ ủ ườ ở ồ ớ ệ ă
b o v s c kho tr th , phát tri n n gia súc. Khi m t ôi v ch ng ra riêng có conả ệ ứ ẻ ẻ ơ ể đà ộ đ ợ ồ ở
u lòng v l m l i tên m cho ng i b , gia ình ó m i có t cách v i uđầ à à ễ đổ đệ ườ ố đ đ ớ ư à đủ đ ề
ki n th ma bu ng.ệ ờ ồ
Gia ình có tr nh h ng n m u l m l cúng ma bu ng ít nh t m t l n. cúngđ ẻ ỏ à ă đề à ễ ồ ấ ộ ầ Đồ

ch l m t con l n cái c kho ng 6 – 10 kg. L cúng di n ra v o bu i t i ho c lúc n aỉ à ộ ợ ỡ ả ễ ễ à ổ ố ặ ử
êm, g gáy l n th nh t hay l n th hai (tu theo t ng dòng h ). Khi cúng ph i óng ch tđ à ầ ứ ấ ầ ứ ỳ ừ ọ ả đ ặ
c a, l n c t trong nh , không cho ng i l t i. Ch gia ình pha th t l n lu c mử ợ ộ ở à ườ ạ ớ ủ đ ị ợ ộ đơ
th nh nhi u bát, m i bát g m các b ph n c a con l n nh u, tai, tim, l i, lông,à ề ỗ ồ đủ ộ ậ ủ ợ ư đầ ưỡ
chân (s l ng bát bao nhiêu l tu theo t ng dòng h quy nh). N c lu c th t cho v o… ố ượ à ỳ ừ ọ đị ướ ộ ị à
trong v qu b u khô có ph n c u n cong theo hình d u h i.ỏ ả ầ ầ ổ ố ấ ỏ
Ch nh kính c n c b i kh n v i n i dung c u xin ma bu ng b o v h n tr nh ,ủ à ẩ đọ à ấ ớ ộ ầ ồ ả ệ ồ ẻ ỏ
phù h cho tr trong gia ình hay n chóng l n, ch n nuôi c nhi u trâu, l n Cúng…ộ ẻ đ ă ớ ă đượ ề ợ
xong, rót n c th t trong qu b u ra các chén nh b ng n a cho tr nh u ng (s chénướ ị ả ầ ỏ ằ ứ ẻ ỏ ố ố
t ng ng v i s bát v tu theo t p quán c a t ng dòng h ). ng b o tin r ng, tr u ngươ ứ ớ ố à ỳ ậ ủ ừ ọ Đồ à ằ ẻ ố
n c ó xong s c kho m nh, sáng m t. S th t c ng không mang ra ngo i nh . Cúngướ đ ẽ đượ ẻ ạ ắ ố ị ũ à à
- 23 -

xong, qu b u cong v các chén b ng n a c c t trên mái nh phía gi ng ng c aả ầ à ằ ứ đượ ấ à ườ ủ ủ
ch nh .ủ à
M t s ph n mu n c kho m nh v có nhi u con còn nh th y cúng l m m tộ ố ụ ữ ố đượ ẻ ạ à ề ờ ầ à ộ
cái bùa b ng gi y b n b c bên ngo i m t bát n c r i treo chính gi a bu ng c a vằ ấ ả ọ à ộ ướ ồ ữ ồ ủ ợ
ch ng.ồ
+ Ma b p lò (ế Khaor txul). C ng nh ng i Mông nhi u n i khác, ng i Mông Cátũ ư ườ ở ề ơ ườ ở
Cát tin l có ma b p lò. V o d p T t c truy n, khi cúng ma nh , h th ng cúng luôn cà ế à ị ế ổ ề à ọ ườ ả
ma b p. Xung quanh b p l ch t xoong, n i, chõ , thùng ng cám l n, thùng ế ế à ỗ đặ ồ đồ đự ợ để
nhu m ch m. Theo quan ni m c a ng i Mông n i ây, ma b p lò liên quan n vi c sinhộ à ệ ủ ườ ơ đ ế đế ệ
n c a ph n v luôn phù h cho vi c ch n nuôi gia súc, gia c m. Do ó, ng b o có t cở ủ ụ ữ à ộ ệ ă ầ đ đồ à ụ
kiêng gi m chân lên b p lò, kiêng l m h h i lòng lò b ng t, không c gõ v ánhẫ ế à ư ạ ằ đấ đượ à đ
v o b p. Lúc l n ch a thì kiêng không l y tro trong b p. N u mu n nh c ch o ra kh i b pà ế ợ ử ấ ế ế ố ấ ả ỏ ế

lò thì ph i m t hòn á v o gi a b p. Ông Má A Câu cho bi t: “ả để ộ đ à ữ ế ế Ng i Mông có t cườ ụ
kiêng ng i ngo i n m n ch o gang, vì s c a c i s m t mát, r i ro s n. N uườ à đế ượ ả ợ ủ ả ẽ ấ ủ ẽ đế ế
ph i cho m n ch o thì tr c khi nh c ch o ra, ng i ta b m t hòn á cu i v o lòả ượ ả ướ ấ ả ườ ỏ ộ đ ộ à ”.
Ng i ta tin r ng không kiêng nh v y thì gia súc, gia c m d b d ch b nh, d ch t toi,ườ ằ ư ậ ầ ễ ị ị ệ ễ ế
ph n khó ho c ra quái thai, d d ng, không ra hình ng i.ụ ữ đẻ ặ đẻ ị ạ ườ
+ Ma b p ki ng (ế ề Khaor chuz). Ma b p ki ng c ng i Mông Cát Cát quan ni mế ề đượ ườ ở ệ
l có tác d ng tiêu di t các ma ác. Sau l g i h n, ng i ta ném v o lò l a nh ng con sâu,à ụ ệ ễ ọ ồ ườ à ử ữ
con b - c coi l h n b nh t t. Ma b p l a còn c tin l c ng d gây ra m au,ọ đượ à ồ ệ ậ ế ử đượ à ũ ễ ố đ
b nh t t. Trong ba ng y T t, ng i Mông kiêng không th i l a các b p. N u b p khôngệ ậ à ế ườ ổ ử ở ế ế ế
cháy thì ph i dùng que châm, không c th i, vì theo h c th i l a l n m ó gió toả để đượ ổ ọ ứ ổ ử à ă đ
s l m h h i hoa m u.ẽ à ư ạ à
+ S n gác v ma b o v h n lúa, h n ngô. ng ho c gia d ng khác. ngà à ả ệ ồ ồ đồ đự ặ đồ ụ Đồ

b o xem ây l n i “s n kiêng”, b i nó liên quan n truy n k s tích t c con dâu kiêngà đ à ơ à ở đế ệ ể ự ụ
lên s n gác. Truy n k r ng: “à ệ ể ằ X a kia, có m t gia ình n c i c ng i con dâu xinhư ộ đ ọ ướ đượ ườ
p. Nhân m t l n con dâu trèo lên s n gác l y ngô xu ng xay, b ch ng ng i c nh b p lòđẹ ộ ầ à ấ ố ố ồ ồ ạ ế
vô tình nhìn lên th y ch kín c a cô con dâu. D n d , con dâu v b ch ng tr m yêu nhauấ ỗ ủ ầ à à ố ồ ộ
m trong nh không ai hay bi t. V sau, b ch ng b ma nh tr ng ph t l m cho au m,à à ế ề ố ồ ị à ừ ạ à đ ố
b nh t t. Bi t không qua kh i cái ch t, nên tr c lúc h p h i, ông ta m i k h t s tìnhệ ậ ế ỏ ế ướ ấ ố ớ ể ế ự ”.
T ó, ng i Mông có t c kiêng con dâu lên s n gác.ừ đ ườ ụ à
Ng i Mông Cát Cát tin r ng trong ngôi nh có ma chuyên b o v h n lúa, h n ngô.ườ ở ằ à ả ệ ồ ồ
V th n linh n y c tin l th ng trú ng s n gác. Ma n y th ng phù h cho gia chị ầ à đượ à ườ ụ ở à à ườ ộ ủ
c mùa ho c l m cho m t mùa, tu theo lòng th nh kính c a gia ch . Con dâu v cácđượ ặ à ấ ỳ à ủ ủ à
- 24 -
ph n khác dòng h kiêng lên s n gác. Khi chu n b thu ho ch, bao gi ng i ta c ngụ ữ ọ à ẩ ị ạ ờ ườ ũ

cúng ma b o v h n lúa.ả ệ ồ
+ Tr c kia, m t s ng i có ngh thu c ch a b nh còn l p b n th ông t ngh lướ ộ ố ườ ề ố ữ ệ ậ à ờ ổ ề à
D Vang (ủ Thangx Duy Vang). M t s gia ình có ng i chuyên l m ngh rèn c ng l pộ ố đ ườ à ề ũ ậ
b n th cúng ông t s c a ngh l Ly Lao Chính (à ờ để ổ ư ủ ề à Thangx Chuar Kaix).
2.4. Các nghi lễ cúng trong quá trình dựng nhà và bữa liên hoan vào nhà mới
2.4.1. Lễ cúng động thổ
Lễ cúng động thổ là nghi lễ tín ngưỡng đầu tiên trong qui trình dựng nhà của người Mông
được tổ chức vào sáng sớm hôm dựng nhà, trước khi mọi người bắt tay vào dựng các khung
cột. Địa điểm cúng là ở chính giữa mảnh đất được chọn để dựng nhà, gia chủ hoặc bố đẻ của
gia chủ là người chủ trì lễ cúng.
Đối tượng cúng trong lễ cúng động thổ là thần thổ địa (Thu tỷ). Lễ vật dâng cúng gồm có
1 bát nước, ba bát xôi tím, 3 chén rượu và 1 con gà luộc. Con gà dùng để cúng thần thổ địa

trong lễ cúng động thổ không qui định là gà trống hay gà mái, gà to hay gà nhỏ nhưng nhất
thiết không dùng gà trắng. Khác với các lễ cúng khác, lễ cúng thổ địa chỉ diễn ra một lần cúng
đồ chín, không có lần cúng đồ sống (cúng con gà còn sống, cắt tiết tại nơi cúng rồi mới đem
luộc chín) như hầu hết các lễ cúng của người Mông nơi đây. Tất cả lễ vật được bày ngăn ngắn
trong một cái mẹt đặt giữa mảnh đất làm nhà.
Chủ nhà kính cẩn thắp 3 nén hương vào bát hương, rót rượu và đọc lời khấn xin phép thổ
địa cho được làm nhà. Nội dung bài cúng là: “Hôm nay gia chủ tên này, họ này muốn được
làm nhà ở đây. Xin cúng thổ địa cơm, rượu, thịt, xin thần thổ địa phù hộ cho việc làm nhà
được thuận lợi, đừng cho đổ cột, đừng cho rơi xà, đừng cho người ngã, đừng cho tai nạn, cầu
xin thổ địa phù hộ cho việc làm nhà được tốt, cột nhà đứng thẳng, khung nhà đứng vững, mọi
người làm nhà được an toàn, không có sự cố gì sảy ra…”.
Lễ cúng thổ địa diễn ra chóng vánh, lời bài khấn ngắn gọn, mộc mạc. Thời gian khấn chỉ

khoảng gần 2 phút. Sau khi khấn xong, gia chủ lui ra ngoài và cùng mọi người bắt đầu làm
dựng nhà. Mâm cúng được để nguyên tại chỗ cho đến hết tuần hương mới được dọn đi.
Vợ gia chủ là người dọn mâm cúng. Đồ cúng được mang vào bếp, con gà được chặt
miếng đem ra chia đều cho mọi người. Mọi người dừng tay để cùng nhau chia thịt gà sao cho
mỗi người đều được một miếng thịt, 1 – 2 chén rượu. Bữa ăn uống này được đồng bào quan
niệm là để lấy may. Người ta tin rằng, những ai đã ăn “lộc” của thổ địa thì trong khi dựng nhà
sẽ bình an vô sự, không sợ bị tai nạn. Bữa ăn này không bày mâm, không mất nhiều thời gian,
chỉ khoảng 5 phút. Sau đó, mọi người lại bắt tay vào việc dựng nhà.
2.4.2. Lễ cúng vào nhà mới
- 25 -

×