Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

NƯỚC CẤP ĐÔ THỊ Ở THỪA THIÊN HUẾ VÀ CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.46 KB, 11 trang )

NƯỚC CẤP ĐÔ THỊ Ở THỪA THIÊN HUẾ
VÀ CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN MÔI TRƯỜNG
Trần Anh Tuấn

Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

ABSTRACT
Over the past several years, the use of urban water in Thua Thien Hue Province has dramatically augmented due to various reasons such as a rapidly increased number of users, recent
prolonged droughts, expansion of provincial urban water supply networks, and so on.
Prediction of urban water demand till 2020 conducted on the basis of per capita method in
conjunction with extrapolation method shows that there will be a big challenge for HUEWA3
CO to meet a double demand (320.000 m /day) between now and 2020. The fact that the
whole Thua Thien Hue Province will become a centrally-controlled city in the next several
years makes the matter worse as the increasing urban water demand will bring about a lot of
detrimental impacts on the province. For natural environment, an increased exploitation of
water from Huong River might create lower flows that trigger river bank erosion and change
of river bed topography, and reduce its environmental flow in summer causing negative
impacts on the downstream ecosystems. The increased urban water usage also raise the
amount of untreated wastewater from urban activities and sludge waste from the filtration
processes of urban water plants. This exacerbates the pollution of nearby water bodies. As
for socio-economic environment, a huge sum of approximately 543 billion VND, not including an extra amount for wastewater treatment, needs to be pumped in for meeting the
demand in 2020. Thus, an in-depth study of such adverse impacts including clean water for
the poor and the tapping of underground water is of great significance. It will definitely help
to raise awareness on an efficient use of urban water for the sake of fresh water resources
conservation and environmental protection.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Kết luận số 48-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2009 của Bộ Chính trò về việc “Xây dựng, phát triển tỉnh
Thừa Thiên Huế và đô thò Huế đến năm 2020” đã tán thành phương hướng sớm đưa tỉnh Thừa Thiên
Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Thành phố Thừa Thiên Huế trong tương lai sẽ là một
thành phố của di sản, được phát triển theo hướng thành phố công viên xanh và là thành phố của dòch


vụ và du lòch. Trong đó, thành phố Huế hiện nay là đô thò hạt nhân của một hệ thống đô thò văn minh,
hiện đại với thành phố Chân Mây - Lăng Cô, các thò xã Hương Thủy, Tứ Hạ, Thuận An và các thò trấn
vệ tinh Bình Điền, Phú Đa... Quy hoạch này cũng có nghóa là trong vài năm sắp đến, nhu cầu sử dụng
nước cấp đô thò ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng sẽ tăng nhanh để phục vụ cho các mục tiêu phát triển.
Ngoài ra, trong thời gian gần đây, nhu cầu sử dụng nước cấp đô thò trên đòa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế,
đặc biệt là khu vực thành phố Huế, các thò trấn Tứ Hạ và Phú Bài tăng cao do nhiều nguyên do. Thực
tế này đã và đang làm nảy sinh nhiều tác động tiêu cực lên môi trường tự nhiên cũng như kinh tế-xã
hội ở Thừa Thiên Huế, tạo ra nhiều áp lực cho các công ty cấp thoát nước trong việc đảm bảo quy
trình chất lượng xử lý và công tác quản lý cân đối cung - cầu nước cấp đô thò.
Phần II. Môi trường và biến đổi khí hậu

191


NƯỚC CẤP ĐÔ THỊ Ở THỪA THIÊN HUẾ
Nhu cầu nước cấp đô thò ở Thừa Thiên Huế
Từ trước đến nay, nước cấp đô thò ở Thừa Thiên Huế do Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên
Xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên Huế (HUEWACO) khai thác phần lớn từ sông Hương. Với nguồn
lực hiện nay, HUEWACO đang gặp nhiều khó khăn khi phải đáp ứng nhu cầu dùng nước đang tăng cao
vào những tháng mùa hè khô hạn và trong các dòp diễn ra lễ hội Festival Huế. Chỉ tính riêng ở thành
phố Huế, với mức sử dụng bình quân khoảng 135 lít/người/ngày, lượng nước cấp đô thò trong những
năm qua tăng khá nhanh: cụ thể là lượng nước cấp trong năm 2009 đã tăng gần 50% so với năm 2005
3
(xem chi tiết ở Bảng 1). Sản lượng nước thương phẩm đạt đến 27 triệu m vào cuối năm 2009, tăng gấp
5,5 lần so với 1999. Đáng lưu ý hơn, khi cả tỉnh Thừa Thiên Huế chính thức trở thành thành phố trực
thuộc trung ương trong vài năm sắp tới, các nhu cầu về cấp nước đô thò sẽ tiếp tục tăng lên và khối
lượng nước cấp chắc chắn sẽ không chỉ dừng lại ở những con số trên đây.
Bảng 1. Nhu cầu nước cấp đô thò ở thành phố Huế trong những năm qua
Năm


2005
2006
2007
2008
2009

Lượng nước
thương phẩm
(m3)
18.200.000
19.900.000
21.700.000
24.100.000
27.050.000

Nước phục vụ
công cộng và
thất thoát (m3)

Yêu cầu riêng
của nhà máy xử
lý nước (m3)

Tổng nhu cầu
(m3)

4.914.000
5.373.000
5.859.000
4.366.000

4.869.000

2.311.400
2.527.300
2.755.900
2.892.000
3.246.000

25.425.400
27.800.300
30.314.900
31.358.000
35.195.000

Nguồn: HUEWACO, 2010.

Dự báo nhu cầu nước cấp đô thò Thừa Thiên Huế đến năm 2020
Nhằm xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững của ngành cấp nước, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đô thò của đất nước, ngày 18 tháng 3 năm 1998, Chính phủ
Việt Nam đã ra Quyết đònh số 63/1998/QÐ-TTg giao trách nhiệm cho các đòa phương lập chương
trình và quy hoạch cấp nước đô thò phù hợp với đònh hướng phát triển cấp nước đô thò đến năm
2020 đã được phê duyệt. Theo tinh thần này, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã giao cho Sở Xây dựng
Thừa Thiên Huế lập Quy hoạch hệ thống cấp nước đô thò của tỉnh giai đoạn 2002-2010 và đònh
hướng đến năm 2020. Một trong những nội dung chính của công tác quy hoạch này là dự báo nhu
cầu dùng nước đô thò Thừa Thiên Huế đến năm 2020. Tuy nhiên, công tác dự báo này được chúng
tôi tiến hành thực hiện lại do:

192

l


Công tác dự báo nhu cầu nước cấp đô thò ở Thừa Thiên Huế do Sở Xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế
thực hiện cách đây gần 10 năm, dựa trên các số liệu hỗ trợ chưa được cập nhật, nhất là các số liệu
về dân số và phát triển kinh tế-xã hội. Hiện nay, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có sự điều chỉnh về dân
số sau đợt Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009. Ngoài ra, các số liệu về kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội đến năm 2020 cũng đã được cập nhật.

l

Dự báo nhu cầu nước cấp đô thò trước đây dựa trên các đònh mức và tiêu chuẩn cấp nước được ban
hành kèm theo Quyết đònh 63/1998/QÐ-TTg. Tuy nhiên, các đònh mức và tiêu chuẩn này đã được
thay đổi và áp dụng theo Quyết đònh 1251/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Quy hoạch cấp
nước 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2020”, TCXDVN
33:2006/BXD và QCXDVN 01:2008/BXD.

l

Kết luận số 48-KL/TW ngày 25/5/2009 của Bộ Chính trò đã tán thành phương hướng sớm đưa tỉnh Thừa Thiên
Huế trở thành đô thò loại I trực thuộc TW trước năm 2015. Thành phố Thừa Thiên Huế trong tương lai sẽ
là một thành phố của di sản, được phát triển theo hướng thành phố của dòch vụ và du lòch, thành phố xanh
thân thiện vói môi trường. Do vậy, các nhu cầu sử dụng nước sẽ có sự thay đổi lớn trong vài năm sắp đến.
Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ II


Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để dự báo nhu cầu sử
dụng nước cấp đô thò. Các phương pháp thông dụng nhất có thể kể là: phương pháp tính theo đầu người
(per capita) dựa trên mức tiêu thụ nước cá nhân, phương pháp ngoại suy (extrapolation) giúp ước lượng
các giá trò chưa biết từ các giá trò có sẵn, phương pháp phân tích xu hướng (trend analysis) giúp hồi cứu
quá khứ để dự báo tương lai, phương pháp các thuộc toán kinh tế (econo-metrics) sử dụng giá nước và
thu nhập như là các biến số để tính toán nhu cầu dùng nước, và phương pháp mô hình tổng hợp (integrated model) là sự kết hợp giữa các phương pháp vừa mới liệt kê. Việc lựa chọn để sử dụng các phương

pháp này phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của các thông tin và dữ liệu có sẵn, vào năng lực của
người dự báo và mục tiêu dự báo.
Trong các phương pháp đề cập trên đây, phương pháp tính theo đầu người, hay còn gọi là phương
pháp đường thẳng (straight line) hiện đang được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển. Để
đơn giản hóa các tính toán, phương pháp này không tính đến các chỉ số phụ của dân số như thu nhập
hộ gia đình, tiêu thụ hộ gia đình, quy mô hộ gia đình..., mà chỉ dựa trên mức sử dụng nước bình quân
trên người và dự báo dân số để tính toán nhu cầu nước sinh hoạt trong tương lai. Các nhu cầu dùng
nước còn lại (ngoại trừ nước sử dụng cho công nghiệp) về cơ bản được tính theo tỷ lệ của nhu cầu
nước sinh hoạt bằng phương pháp ngoại suy. Để dự báo nhu cầu sử dụng nước của tỉnh Thừa Thiên
Huế đến năm 2020, đề tài nghiên cứu này cũng sử dụng phương pháp tính theo đầu người với các
số liệu cập nhật về dân số, quy mô công nghiệp, thương mại - dòch vụ..., nhằm đưa ra con số dự báo
sát với thực tế.
Theo Quyết đònh 1251/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12 tháng 09 năm 2008 về Quy hoạch
cấp nước 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2020, tiêu chuẩn cấp
nước và dự báo nhu cầu nước đô thò của 3 khu vực này phải được tính toán theo TCXDVN
33:2006/BXD thay vì QCXDVN 01:2008/BXD. Theo tiêu chuẩn này, các đối tượng dùng nước ở tỉnh
Thừa Thiên Huế được chia thành 6 thành phần chính như sau:
+ Nước sinh hoạt,
+ Nước phục vụ công cộng (tưới cây, rửa đường, cứu hỏa...),
+ Nước cho nhu cầu khu công nghiệp,
+ Nước phục vụ cho công nghiệp và dòch vụ trong đô thò,
+ Nước thất thoát,
+ Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước.
Riêng đối với Thừa Thiên Huế, khi cả tỉnh trở thành đô thò loại I trực thuộc trung ương, thành phố
Thừa Thiên Huế trong tương lai sẽ là một thành phố sinh thái với hệ thống công viên cây xanh và nhà
vườn được ưu tiên phát triển. Do vậy, tổng nhu cầu dùng nước cần phải bao gồm thêm lượng nước
phục vụ cho quy hoạch xanh hóa thành phố này. Điều này hoàn toàn phù hợp với TCXDVN
33:2006/BXD vì tiêu chuẩn này cho phép tính thêm lượng nước dự phòng bao gồm lượng nước sử dụng
cho phát triển công nghiệp, tưới cây ... và các lượng nước khác chưa tính được.


Bảng 2. Chi tiết cho từng loại nhu cầu dùng nước
STT
I.

Đối tượng dùng nước và thành phần cấp nước
Đô thò loại đặc biệt, đô thò loại I, khu du lòch, nghỉ mát
a) Nước sinh hoạt:
- Tiêu chuẩn cấp nước (l/người.ngày): + Nội đô
+ Ngoại vi
- Tỷ lệ dân số được cấp nước (%):
+ Nội đô
+ Ngoại vi

Giai đoạn
2010

165
120
85
80

2020

200
150
100
95

Phần II. Môi trường và biến đổi khí hậu


193


g
b) Nước phục vụ công cộng (tưới cây, rửa đường, cứu hỏa,…):
Tính theo % của (a)
c) Nước cho công nghiệp dòch vụ trong đô thò: Tính theo % của (a)
d) Nước khu công nghiệp: lấy theo điều 2.4-Mục 2 của TCXDVN
33:2006
e) Nước thất thoát: Tính theo % của (a+b+c+d)
f) Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước: Tính theo %
của (a+b+c+d+e)
II.

Đô thò loại II, đô thò loại III
a) Nước sinh hoạt:
- Tiêu chuẩn cấp nước (l/người.ngày): + Nội đô
+ Ngoại vi
- Tỷ lệ dân số được cấp nước (%): + Nội đô
+ Ngoại vi
b) Nước phục vụ công cộng (tưới cây, rửa đường, cứu hỏa,…):
Tính theo % của (a)
c) Nước cho công nghiệp dòch vụ trong đô thò: Tính theo % của (a)
d) Nước khu công nghiệp (lấy theo điều 2.4 - Mục 2)
e) Nước thất thoát: Tính theo % của (a+b+c+d)
f) Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước: Tính theo %
của (a+b+c+d+e)

10


10

10
22 _ 45

10
22 _ 45

< 25
7 _ 10

< 20
5_8

120
80
85
75
10

150
100
99
90
10

10
22 _ 45
< 25
8 _ 10


10
22 _ 45
< 20
7_8

60
75
10
< 20
10

100
90
10
< 15
10

Đô thò loại IV, đô thò loại V, điểm dân cư nông thôn

III.

a) Nước sinh hoạt:
- Tiêu chuẩn cấp nước (l/người.ngày):
- Tỷ lệ dân số được cấp nước (%):
b) Nước dòch vụ; Tính theo % của (a)
c) Nước thất thoát; Tính theo % của (a+b)
d) Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước; Tính theo %
của (a+b+c)
Nguồn: TCXDVN 33:2006.


Để tiện theo dõi, tổng nhu cầu nước cấp đô thò Thừa Thiên Huế này được khái quát theo công thức:
Q = Qsh + Qcc + Qcn + Qdl-dv + Qtt + Qnm + Qdp (1)
Trong đó:
3

3

Q: Tổng lượng nước sử dụng (m /ngày), Qsh: Nước cho sinh hoạt (m /ngày)
3

3

Qcc: Nước phục vụ công cộng (m /ngày), Qkcn: Nước cho khu công nghiệp (m /ngày)
3

3

Qcn-dv: Nước cho công nghiệp và dòch vụ trong đô thò (m /ngày), Qtt: Nước thất thoát (m /ngày)
3

Qnm: Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước (m /ngày)
Qdp: Lượng nước dự phòng sử dụng cho tưới cây, phát triển công nghiệp...
Trong công thức tính toán trên, nước sinh hoạt (Qsh) là cơ sở để dự báo tổng nhu cầu nước cấp đến
năm 2020 cho Thừa Thiên Huế. Nhằm tạo độ tin cậy cao hơn cho công tác dự báo dựa trên phương
pháp tính theo đầu người, vấn đề quan trọng trước tiên là phải dự báo chuẩn xác dân số trong tương
lai. Trên thực tế, để dự báo dân số, người ta thường sử dụng các công thức sau:

194


rt

+

Nếu tỷ lệ gia tăng dân số ít biến động qua các năm: Pt = P0 x e

(2)

+

Nếu dân số tăng theo cấp số cộng: Pt = P0 x (1+rt)

(3)

Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ II


+

t

Nếu dân số tăng theo cấp số nhân:

Trong đó:

Pt = P0 x (1+rt)

(4)

Pt: dân số của năm dự báo

P0: Dân số đầu kỳ
e ≈ 2,7
r: Tỷ lệ gia tăng dân số
t: Độ dài của thời kỳ nghiên cứu (năm)

Theo số liệu điều tra thực tế của đợt Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, tính đến ngày 1 tháng
4 năm 2009, Thừa Thiên Huế có tổng số dân là 1.087.579 người với 392.000 người (chiếm 36%) sống
ở khu vực thành thò. Theo dự báo của Cục Thống kê Thừa Thiên Huế, trong những năm sắp đến, dân
số tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ tiếp tục tăng đều và không có biến động lớn. Đây là một yếu tố thuận lợi
giúp cho công tác dự báo dân số của tỉnh được dễ dàng và chính xác hơn. Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế-xã hội Thừa Thiên Huế đến năm 2020 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đưa ra mục tiêu
tỷ lệ tăng dân số kể từ năm 2010 là vào khoảng 1,1-1,2% (lấy bình quân 1,15%) trên toàn tỉnh. Như
vậy, với tốc độ tăng trưởng dân số trong những năm sắp đến tăng theo cấp số nhân (1,15%), công thức
(4) được lựa chọn để dự báo dân số Thừa Thiên Huế vào năm 2020:
t

P2020 = P2009 x (1+r)

Với:
P2020 : dân số toàn tỉnh dự báo cho năm 2020
P2009 : dân số toàn tỉnh năm 2009
t
: 11 năm
r
: tỷ lệ gia tăng dân số của tỉnh: 1,15%
Theo đó:
11

P2020 = 1.087.579 x (1+1,15%) = 1.233.348 người.
Theo Quy hoạch chung thành phố Huế đến năm 2020, thành phố Thừa Thiên Huế trong tương lai

thành phố sinh thái, thành phố công viên với trung tâm - đô thò hạt nhân sẽ là thành phố Huế hiện nay.
Chung quanh hạt nhân sẽ là các đô thò vệ tinh động lực như: thành phố Chân Mây - Lăng Cô; các thò
xã Tứ Hạ - Phú Bài, Thuận An, Bình Điền... Dân số thành thò trong phạm vi nghiên cứu điều chỉnh Quy
hoạch chung sẽ được nâng lên từ khoảng 36% hiện nay lên 60-70% (khoảng 801.676 người). Trong đó,
dân số thành phố Huế lúc đó sẽ tăng từ hơn 300.000 người như hiện nay lên khoảng 450.000 người với
việc mở rộng đô thò về vùng An Vân Dương ở phía Nam. Như vậy, vào năm 2020, thành phố Thừa
Thiên Huế sẽ có tỷ lệ dân số thành thò - nông thôn vào khoảng 65:35 với dân số ở đô thò hạt nhân vào
khoảng 450.000 ngàn người, ở các đô thò vệ tinh vào khoảng 351.676 người (801.676 người - 450.000
người), ở nông thôn khoảng 431.672 người (1.233.348 người - 801.676 người).

Nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt (Qsh)
Theo TCXDVN 33:2006/BXD đối với đô thò loại I, đến năm 2020, nước cấp đô thò Thừa Thiên Huế
cần đạt được chỉ tiêu cấp cho khoảng 95-100% dân số ở đô thò hạt nhân (thành phố Huế hiện nay) với
tiêu chuẩn 200 lít/người/ngày; 90-99% dân số ở các đô thò vệ tinh (đô thò loại II và loại III) với tiêu chuẩn
150 lít/người/ngày và 90% người dân ở nông thôn với tiêu chuẩn 100 lít/người/ngày. Với các đònh mức
như vậy, tổng nhu cầu nước sinh hoạt ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020 sẽ là:
* Nhu cầu nước sinh hoạt cấp cho khu vực đô thò hạt nhân (với đònh mức bình quân vào khoảng 200
lít/người/ngày và 100% người dân dùng nước máy vào năm 2020):
3

200 lít/người/ngày x 450.000 người = 90.000 (m /ngày)
* Nhu cầu nước sinh hoạt cấp cho các đô thò vệ tinh (với đònh mức bình quân vào khoảng 150
lít/người/ngày và khoảng 95% dân số dùng nước máy vào năm 2020):
3

150 lít/người/ngày x 351.676 người x 95% = 50.114 (m /ngày)
Phần II. Môi trường và biến đổi khí hậu

195



* Nhu cầu nước sinh hoạt cấp cho khu vực nông thôn (với đònh mức bình quân vào khoảng 100
lít/người/ngày và khoảng 90% dân số dùng nước máy vào năm 2020):
3

100 lít/người/ngày x 431.672 người x 90% = 38.851 (m /ngày)

Như vậy, nhu cầu nước đô thò cấp cho sinh hoạt trên toàn tỉnh sẽ là:
3

3

3

3

Qsh 2020 = 90.000 (m /ngày) + 50.114 (m /ngày) + 38.851 (m /ngày) = 178.965 (m /ngày)

Nước phục vụ công cộng (Qcc)
Theo TCXDVN 33:2006/BXD, nhu cầu nước dòch vụ công cộng (tưới cây, rửa đường, cứu hỏa...) ở
Thừa Thiên Huế được tính bằng 10% nhu cầu nước sinh hoạt. Theo đó, tổng nhu cầu dùng nước phục
vụ công cộng là:
3

3

Qcc 2020 = 10% x 178.965 (m /ngày) = 17.896,5 (m /ngày)

Nước cho khu công nghiệp (Qcn)
Theo mục 2.4 của TCXDVN 33:2006/BXD, tiêu chuẩn dùng nước cho nhu cầu sản xuất công nghiệp

phải được xác đònh trên cơ sở những tài liệu thiết kế đã có, hoặc so sánh với các điều kiện sản xuất
3
tương tự. Khi không có những số liệu cụ thể, có thể lấy trung bình 45 m /ha/ngày đối với công nghiệp
3
chế biến thực phẩm, giấy, dệt..., và 22 m /ha/ngày đối với các ngành công nghiệp khác.
Theo Quy hoạch phát triển công nghiệp của tỉnh đến 2015 và đònh hướng đến năm 2020 của UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế, đến năm 2020, trên đòa bàn của tỉnh sẽ hình thành 8 khu công nghiệp và khu
công nghệ cao với tổng diện tích khoảng 8.000 ha. Cơ cấu phát triển công nghiệp của Thừa Thiên Huế
sẽ bao gồm nhiều ngành tiêu thụ nhiều nước như chế biến nông, lâm, thủy sản, chế biến thực phẩm,
dệt may... Như vậy, lượng nước sử dụng ở các khu công nghiệp ở Thừa Thiên Huế vào năm 2020 được
3
chúng tôi tính trung bình vào khoảng 30 m /ha/ngày. Theo đó, nhu cầu nước đô thò cho các khu công
nghiệp đến năm 2020 sẽ là:
Q

3

3

kcn 2020

= 30 m /ha/ngày x 8.000 ha = 24.000 (m /ngày)

Nước dùng cho công nghiệp - dòch vụ trong đô thò (Qcn-dv)
Với tỷ trọng 10% so với nhu cầu nước sinh hoạt (theo TCXDVN 33:2006/BXD), nhu cầu dùng nước
công nghiệp - dòch vụ trong đô thò của tỉnh Thừa Thiên Huế được tính như sau:
3

3


Qcn-dv 2020 = 10% x 178.965 (m /ngày) = 17.896,5 (m /ngày)

Nước thất thoát (Qtt)
Theo báo cáo của HUEWACO, tỷ lệ thất thoát nước cấp đô thò của Công ty hiện nay vào khoảng 18% (không
bao gồm nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước). Dự kiến trong những năm tới, nhờ đầu tư cải tạo
mạng lưới tuyến ống phân phối và áp dụng quy mô quản lý hợp lý, lượng nước thất thoát có khả năng sẽ tiếp
tục giảm. Do vậy, tỷ lệ thất thoát trong giai đoạn 2015-2020 được HUEWACO ước tính vào khoảng 15%.
3

3

Qtt 2020 = 15% x (178.965 +17.896,5 + 24.000 + 17.896,5) m /ngày = 35.813 (m /ngày)

Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy nước (Qnm)
Theo TCXDVN 33:2006/BXD, lượng nước cấp sử dụng cho yêu cầu riêng của các nhà máy xử lý nước
vào năm 2020 chiếm 5-8% (lấy trung bình là 6,5%) của tổng nhu cầu dùng nước cho các lónh vực sinh
hoạt, công cộng, khu công nghiệp, công nghiệp & dòch vụ trong đô thò và thất thoát. Như vậy, tổng nhu
cầu dùng nước cho yêu cầu riêng của nhà máy nước là:
3

Qnm 2020 = 6,5% x (178.965 + 17.896,5 + 24.000 + 17.896,5 + 35.813) m /ngày = 17.847,2
3
(m /ngày)

Nước dự phòng
Lượng nước dự phòng cho các nhà máy cấp nước đô thò theo TCXDVN 33-2006/BXD bằng 5-10% tổng
lượng nước sinh hoạt. Khi có lý do xác đáng, lượng nước này được phép lấy thêm nhưng không quá
196

Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ II



15%. Như đã trình bày trên đây, thành phố Thừa Thiên Huế trong tương lai sẽ là thành phố xanh và
thành phố du lòch với các nhà vườn và công viên được ưu tiên phát triển. Hướng phát triển này sẽ cần
một lượng nước tưới cây rất lớn để xanh hóa thành phố. Do vậy, chúng tôi tính lượng nước này ở mức
cao nhất là 15%.
3

3

Qdp 2020 = 15% x 178.965 (m /ngày) = 26.844,75 (m /ngày)

Từ những tính toán trên đây, tổng công suất của hệ thống cấp nước đô thò nhằm đáp ứng nhu cầu sử
dụng nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020 sẽ là:
Q = Qsh + Qcc + Qcn + Qdl-dv + Qtt + Qnm + Qdp
3

Q2020 = (178.965 + 17.896,5 + 24.000 + 17.896,5 + 35.813 + 17.847,2 + 26.844,75) m /ngày
≈ 320.000 (m /ngày) tương đương với 116.800.000 m /năm
3

3

Như vậy, để đáp ứng tiêu chuẩn về cấp nước của đô thò loại I trực thuộc trung ương (TCXDVN
3
33:2006/BXD), cấp nước ở Thừa Thiên Huế cần phải đạt được công suất vào khoảng 320.000 m /ngày
vào năm 2020 với tỷ lệ 95% dân số trên toàn tỉnh tiếp cận được với nước cấp đô thò. Đây quả là một
thách thức không nhỏ cho HUEWACO để nâng công suất các nhà máy nước từ khoảng 150.000
3
m /ngày hiện nay lên hơn gấp đôi chỉ trong vòng chỉ 10 năm. Với phương châm “phòng bệnh hơn chữa

bệnh”, tránh đi vào vết xe đổ của tình trạng thiếu hụt điện năng trên cả nước nghiêm trọng như hiện
nay, ngay từ bây giờ chính quyền và người dân Thừa Thiên Huế cần phải thay đổi nhận thức về tiết kiêm
và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước ngọt nói chung và nước cấp đô thò nói riêng.
Công tác dự báo nhu cầu sử dụng nước cấp đô thò trên đây sẽ góp phần hình thành một tầm nhìn chiến
lược hơn về tài nguyên nước và giúp chuẩn bò các kế hoạch đối phó với áp lực gia tăng nhu cầu sử dụng
nước cấp đô thò trong tương lai.

CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
Dòng chảy môi trường
Ở Thừa Thiên Huế, nguồn nước đô thò cung cấp cho thành phố Huế và một số vùng phụ cận phần lớn
2
được khai thác từ nước sông Hương. Với diện tích lưu vực 2.830km , chiếm 60% diện tích toàn tỉnh, sông
3
Hương có trữ lượng nước dồi dào đạt gần 6 tỷ m /năm, chất lượng nước tốt, cung cấp khoảng 75% khối
lượng nước cho mọi hoạt động của đô thò Huế bao gồm cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông đường thủy, du lòch... Hiện nay, sông Hương cũng là nơi tiếp nhận các chất thải không
qua xử lý từ các hoạt động của thành phố Huế và chòu tác động của điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa
khắc nghiệt như lũ lụt vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô. Theo Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn
và Môi trường (2007), lượng mưa trong mùa mưa theo mô hình mô phỏng biến đổi khí hậu với kòch bản
phát thải cao (A1F1) có thể tăng lên đến 24,7%, nhưng cũng có thể giảm 23,4% trong những tháng đầu
mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 2). Việc sụt giảm lượng mưa trong mùa khô sẽ gây nên hiện tượng hạn
hán khốc liệt và kéo dài, đe dọa nghiêm trọng đến nguồn cung cấp nước cho các hoạt động kinh tế-xã
hội và môi trường tự nhiên ở Thừa Thiên Huế. Tất cả những nguyên nhân này đang làm cho chất lượng
nước sông Hương biến chuyển theo chiều hướng xấu đi về cả số lượng lẫn chất lượng.
Một khi nhu cầu sử dụng nước tăng cao, các nhà máy cấp nước phải nâng công suất khai thác. Việc gia
tăng hoạt động của các bơm thu nước có thể tạo ra các dòng chảy ngầm, gây nên hiện tượng thay đổi
đòa hình đáy sông và xói lở bờ sông (IREB, 2008). Ngoài ra, nước ở đầu nguồn không kòp thời bổ sung
và điều tiết, kết hợp với các hoạt động khai thác cát sạn trên sông sẽ làm giảm dòng chảy, hạ thấp mực
nước sông Hương và gây ra nhiều tác động có hại lên các hệ sinh thái vùng cửa sông, đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai... Theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), dòng chảy kiệt tối thiểu của

3
sông Hương trong mùa hè khá thấp (khoảng 20 m s-1) so với lưu lượng sinh thái tối thiểu được ấn đònh
3
vào khoảng 31 m s-1. Hiện nay, Thừa Thiên Huế đang tiến hành xây dựng các hồ chứa lớn ở thượng
nguồn sông Hương nhằm điều tiết dòng chảy. Tuy nhiên, các công trình này hiện đang gặp một số sự
Phần II. Môi trường và biến đổi khí hậu

197


cố và nhanh nhất là vào năm 2014 mới chính thức đi vào hoạt động đồng bộ. Do vậy, việc khai thác
một khối lượng nước lớn không chỉ ảnh hưởng đến dòng chảy kiệt mùa hè hiện nay của sông Hương và
các hệ sinh thái hạ nguồn mà còn làm phức tạp hóa sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý nhằm
điều tiết dòng chảy từ các hồ chứa trong tương lai.

Chất thải gây ô nhiễm sông ngòi
Thành phố Huế nói riêng và tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung hiện chưa có hệ thống xử lý nước thải tập
trung nên nước thải chưa qua xử lý đang được đổ thẳng ra các thủy vực. Tính trung bình, có khoảng
3
40.000.m nước thải từ hàng trăm cống thải lớn nhỏ trực tiếp đổ xuống sông Hương hàng ngày. Do vậy,
việc gia tăng sử dụng nước cấp đô thò sẽ làm gia tăng mức độ ô nhiễm của các con sông như sông Hương,
Ngự Hà, Lợi Nông, Như Ý... Kết quả quan trắc của Ban Quản lý Dự án sông Hương trong giai đoạn từ tháng
5 đến cuối tháng 9 năm 2008 cho thấy nguồn nước của sông Như Ý và Đông Ba đã có dấu hiệu ô nhiễm,
đặc biệt là sông Như Ý với các thông số phản ánh sự ô nhiễm chất hữu cơ (BOD5, COD) và chất dinh
dưỡng luôn dao động ở mức cao. Hầu hết các thông số này đều không thỏa mãn QCVN 08 2008/BTN&MT đối với nguồn chất lượng nước mặt loại A; một số thông số vượt quá nguồn chất lượng nước
mặt loại B.
Theo một nghiên cứu khác gần đây của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế về “Điều tra,
đánh giá chất lượng nước ở một số vùng trọng điểm thuộc thành phố Huế và vùng phụ cận” thì sông
Hương đang có hiện tượng phú dưỡng, gây ra sự phát triển quá mức của tảo. Nước sông có hàm lượng
chất hữu cơ và mật độ vi khuẩn gây bệnh tương đối cao. Thông số Coliform tại một số điểm khảo sát

trên sông Hương cũng thường cao hơn gấp 5-10 lần so với giới hạn cho phép. Các đợt quan trắc chất
lượng nước sông Hương của Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ Sinh học (IREB), Đại học Huế
từ năm 2004 đến 2007 cho thấy nồng độ ôxy hòa tan (DO) trong nước có xu hướng giảm dần (Hình
1). Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy nước sông Hương đang có chuyển biến xấu về chất lượng.
mg/l

7.5

2004
2005
2006
2007

7.0

6.5

6.0

TB

Mưa khụ

Mựa mưa

Hình 1. Biến thiên DO theo thời gian quan trắc chất lượng nước sông Hương
(Nguồn: Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ sinh học, 2008).
Các quá trình xử lý nước ở các nhà máy cấp nước đô thò Thừa Thiên Huế cũng làm phát sinh một lượng
nước thải và bùn thải từ các quá trình thử tải, rửa lọc, thau rửa các bể, tách nước từ bùn... Lượng chất
thải này không phát sinh liên tục, tuy nhiên nước thải rửa lọc và nước thải tách ra từ bùn (có chứa các

lớp chất trên vỏ vật liệu lọc, bùn cặn...) có mức độ nhiễm bẩn khá lớn. Ngoài ra, các nhà máy cấp nước
còn sử dụng một lượng lớn hóa chất keo tụ (PAC) trong quá trình xử lý nước cấp để loại chất rắn lơ
lửng. Trong môi trường, lượng hóa chất này sẽ gây ô nhiễm các nguồn nước và làm gia tăng nguy cơ
tích tụ nhôm hydroxit trong đất gây ô nhiễm đất. Dựa trên các số liệu từ Báo cáo đánh giá tác động
môi trường cho xây dựng và mở rộng nhà máy nước Quảng Tế II của Viện Tài nguyên, Môi trường và
Công nghệ Sinh học, Đại học Huế, với tổng lượng nước cấp đô thò ở tỉnh Thừa Thiên Huế vào khoảng
3
130.000 m thì tổng lượng bùn thải vào năm 2009 được ước tính trung bình như sau:
198

Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ II


Bảng 2. Lượng bùn thải từ các nhà máy xử lý nước cấp đô thò vào năm 2009
Thông số

Đơn vò

Chất rắn lơ lửng
Lượng PAC sử dụng

mg/l
mg/l

75
6,43

150
10,70


Tấn/ngày
Tấn/năm

15,95
5.821,75

30,87
11.267,55

Lượng bùn thải bỏ
- Tính theo ngày
- Tính theo năm

Trung bình

Max

Mặc dù lượng bùn thải được Công ty Môi trường và Công trình Đô thò Huế thu gom, tuy nhiên một
phần chất thải vẫn thoát ra môi trường qua hệ thống tiêu thoát nước của các nhà máy cấp nước và
chảy vào các kênh, mương và sau đó chảy ra các khu vực xung quanh gây nhiều tác động xấu lên môi
trường. Về mùa khô, lượng bùn tích tụ sẽ xảy ra quá trình phân hủy nhanh chóng tạo mùi hôi thối cho
khu vực xung quanh. Về mùa mưa, khi có mưa lớn, lượng bùn sẽ thoát ra khỏi hồ chứa và mương nước
rồi tràn vào các khu vực xung quanh gây ảnh hưởng đến sinh hoạt đi lại của người dân.

Vấn đề khai thác nước ngầm
Trước thực trạng các nguồn nước ngọt đang trở nên khan hiếm do biến đổi khí hậu cùng với sự gia tăng
nhu cầu sử dụng nước thì các nguồn nước ngầm sẽ được khai thác ngày một nhiều hơn nếu nguồn nước
cấp đô thò không đủ đáp ứng cho các nhu cầu dùng nước. Việc khai thác nước ngầm quá mức sẽ gây ra
một số tác động xấu như làm hạ thấp mực nước ngầm dẫn đến nhiễm mặn, ô nhiễm nguồn nước ngầm,
gây sụt lún, xói lở đất... Theo các nghiên cứu của Trường Đại học Khoa học thuộc Đại học Huế, sự cố

sụt lún bề mặt xảy ra bất ngờ vào ngày 13 tháng 12 năm 2007 tại thôn Trung Thượng, xã Thủy Biều,
thành phố Huế có liên quan đến sử dụng nước ngầm tại khu vực này.
Theo một thống kê vào cuối năm 2008 của Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh Môi trường Nông
thôn Thừa Thiên Huế, toàn tỉnh hiện có tổng cộng 29.827 giếng khoan, 27.041 giếng đào. Khi nhu
cầu sử dụng nước và giá nước tăng cao, người dân cũng như các doanh nghiệp có xu hướng chuyển
qua sử dụng nước ngầm nhiều hơn nhằm tiết kiệm chi phí và chủ động hơn trong các hoạt động
sản xuất cũng như sinh hoạt. Trong thời gian vừa qua, với lý do lượng nước đô thò cấp cho khu công
nghiệp không ổn đònh và không đủ sử dụng, một số doanh nghiệp ở khu công nghiệp Phú Bài đã
cố tình khai thác nước ngầm tại chỗ trái phép để phục vụ các nhu cầu về vệ sinh công nghiệp, làm
mát thiết bò...
Ở vùng ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế, do bò bao bọc bởi biển và hệ đầm phá, mạng lưới sông suối ít
phát triển, nên nước ngầm là nguồn cung cấp chủ yếu cho các hoạt động kinh tế - xã hội ở khu vực
này. Gần đây, HUEWACO đã thành công trong việc đưa nước sạch vượt phá Tam Giang từ thò trấn
Thuận An để cấp cho một số xã vùng ven biển Bắc Thuận An. Tuy nhiên, ở các xã chưa tiếp cận được
với nước cấp đô thò, nước ngầm ven biển vẫn tiếp tục được khai thác. Mặc dù tổng lượng khai thác
không lớn nhưng quy trình khai thác không phù hợp phần nào đã làm nhiễm bẩn và nhiễm mặn nước
ngầm trong vùng. Độ sâu các giếng khoan biến đổi từ 5 m đến 18 m, không phụ thuộc bề dày tầng
chứa nước và khoảng cách đến biên mặn đã làm tăng sự khuếch tán của nước mặn từ biển và đầm phá
vào nước ngầm ở một số nơi, dẫn đến giảm trữ lượng nước nhạt hoặc tăng độ khoáng hóa của nước
dưới đất. Thực tế cho thấy kể từ đầu năm 2006, các giếng nước tại thôn Kế Sung, xã Phú Diên, huyện
Phú Vang không uống được vì bò nhiễm mặn. Hoạt động khai thác nước ngầm rửa quặng Titan tại khu
vực này kết hợp với các hoạt động đào bới xuống tầng sâu đã phá vỡ tình trạng ổn đònh tương đối giữa
hệ tranh chấp khối nước ngọt do mưa và khối nước mặn từ biển và đầm phá thấm vào. Hệ thống giếng
khai thác nước ngầm của Công ty khoáng sản lại bố trí trong diện hẹp, lưu lượng khai thác lớn, bán kính
ảnh hưởng của hệ thống lan đến biên mặn làm thay đổi chất lượng ngầm tại vùng khai thác theo hướng
tăng độ mặn.

Phần II. Môi trường và biến đổi khí hậu

199



CÁC TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN MÔI TRƯỜNG KINH TẾ - XÃ HỘI
Chi phí đầu tư
Để đạt được mục tiêu 80% dân số trong tỉnh sẽ tiếp cận được với nước cấp đô thò vào năm 2015 và
95% vào năm 2020, HUEWACO đã dự tính, cần phải đầu tư 450,302 tỷ đồng kể từ năm 2002 đến 2010
và 542,926 tỷ đồng trong giai đoạn 2011-2020. Từ năm 2002 đến nay, công ty bắt đầu trả nợ gốc và
lãi đối với khoản vốn vay ODA trên 5 triệu EUR cho dự án nâng cấp mở rộng hệ thống cấp nước giai
đoạn 1996-2000 (ước tính mỗi năm Công ty phải trả hơn 10 tỷ đồng nợ gốc và lãi). Đến tháng 9 năm
2007, chênh lệch về tỷ giá ngoại tệ đã làm phát sinh trên 48 tỷ đồng. Tuy nhiên, Công ty mới phân bổ
được 22 tỷ đồng, còn lại 26,1 tỷ đồng vẫn chưa giải quyết được. Ngoài chi phí mở rộng hệ thống cấp
nước, tỉnh Thừa Thiên Huế còn phải đầu tư kinh phí xử lý nước thải do lượng nước thải cũng sẽ gia
tăng. Để bảo vệ nguồn nước sông Hương, thành phố Huế hiện đang triển khai dự án xây dựng hệ thống
thoát nước và xử lý nước thải với tổng mức đầu tư lên đến hơn 3.560 tỷ đồng.
Ngoài ra, khi các nhà máy nước gia tăng công suất, lượng điện sử dụng trong các nhà máy nước cũng
sẽ tăng lên tương ứng. Hiện nay, ở các nhà máy cấp nước tỉnh Thừa Thiên Huế, chi phí cho điện năng
chiếm bình quân vào khoảng 30% tổng chi phí giá thành sản xuất nước sạch. Trong thực tế, các nhà
quản lý và hoạch đònh chính sách vẫn ít khi tính đến các khoản chi phí và tiết kiệm năng lượng điện
trong các kế hoạch cung cấp nước. Tuy nhiên, việc bảo tồn nước và nâng cao hiệu quả sử dụng nước
không chỉ giúp tiết kiệm nước mà còn là tiết kiệm năng lượng, cắt giảm chi phí tiêu thụ điện và giảm
thiểu ô nhiễm từ các nhà máy điện.

Vấn đề công bằng trong cung cấp và sử dụng nước sạch
Ở tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện vẫn còn nhiều vùng nông thôn chưa được tiếp cận với nước hợp vệ sinh.
Ước tính từ năm 2003 đến 2008, HUEWACO đã huy động đầu tư trên 60 tỷ đồng nhằm thực hiện
chương trình đầu tư nước sạch về nông thôn. Nhờ vậy, tổng số hộ dùng nước cấp đô thò ở vùng nông
thôn được nâng lên 48.500 hộ, chiếm 40% số hộ dân sử dụng nước cấp đô thò trên toàn tỉnh. Năm 2009,
số phường/xã được tiếp cận với nước cấp đô thò là 105/152, tương ứng với khoảng trên 60% dân số trên
toàn tỉnh. Trong giai đoạn 2009-2010, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo HUEWACO xây dựng nhà máy nước
Hồ Truồi cung cấp nước sạch cho thò trấn Phú Lộc và 5 xã phụ cận và đến nay dự án đường ống vượt

phá Tam Giang cấp nước sinh hoạt cho các xã phía Đông phá Tam Giang - Cầu Hai đã được hoàn thành.
Nếu xét về mặt xã hội, việc đầu tư cấp nước về nông thôn đã mang lại ý nghóa rất lớn. Tuy nhiên, về
khía cạnh kinh tế, do lượng nước thất thoát lớn, lượng sử dụng lại ít trong khi tỷ suất đầu tư cao nên
doanh thu từ khu vực nông thôn không hiệu quả để duy trì các hoạt động tái đầu tư. Vì vậy, nếu nhu
cầu sử dụng nước được giảm xuống thông qua các giải pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn nước
cấp đô thò, HUEWACO sẽ có thêm nhiều nguồn lực nhằm phân bổ nước cấp đô thò cho các khu vực
vùng sâu vùng xa của tỉnh nhà.

KẾT LUẬN
Cũng giống như các tỉnh thành khác trên cả nước, nhu cầu sử dụng nước cấp đô thò ở tỉnh Thừa Thiên
Huế đang ngày một tăng cao gây ra khá nhiều tác động tiêu cực lên môi trường. Đối với môi trường
tự nhiên, việc đẩy mạnh hoạt động khai thác nước làm giảm dòng chảy môi trường của sông Hương,
dẫn đến nhiều tác động có hại lên các hệ sinh thái vùng hạ lưu, làm gia tăng lượng bùn thải và nước thải
gây ô nhiễm các thủy vực và làm suy kiệt, ô nhiễm nước ngầm. Về kinh tế-xã hội, việc tăng cao nhu
cầu nước cấp đô thò Huế làm gia tăng chi phí đầu tư mở rộng hệ thống cấp nước, tăng chi phí xử lý
nước thải đồng thời gây nhiều áp lực cho các nhà quản lý trong việc cân đối cung cầu nước sạch trên
toàn tỉnh và cấp nước cho người nghèo. Vấn đề đặt ra là các nhà hoạch đònh chính sách, các nhà quản
lý và các đối tượng khách hàng sử dụng nước cần nhận thức đầy đủ sự gia tăng nhanh chóng của nhu
cầu nước cấp đô thò và các tác động tiêu cực của nó nhằm tăng cường thực hiện các giải pháp tiết kiệm
và sử dụng hiệu quả nguồn nước cấp đô thò.
200

Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia lần thứ II


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Quản lý Dự án sông Hương, 2010. />Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên Huế (HUEWACO). Tập san Cấp nước Thừa
Thiên Huế, Số 03, tháng 07/2010: 01-12.
Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên Huế (HUEWACO):
/>IUCN Việt Nam, 2005. Dòng chảy môi trường: Đánh giá nhanh dòng chảy môi trường cho lưu vực sông Hương, miền Trung

Việt Nam. IUCN Vietnam, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tiến và Phạm Đình Chuy, 2008. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến nước dưới đất vùng ven biển tỉnh Thừa
Thiên - Huế. Đề Tài nghiên cứu cơ bản Mã số 713206 do Bộ KH và CN tài trợ.
Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh Môi trường Nông thôn Thừa Thiên Huế, 2009. Tổng hợp điều tra hiện trạng cấp nước sinh
hoạt hợp vệ sinh và nước sạch đến tháng 12/2008 trên toàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Tài liệu lưu hành nội bộ.
Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ Sinh học, Đại học Huế, 2009. Diễn biến chất lượng môi trường nước sông Hương
giai đoạn 2003-2008. Tạp chí Hoạt động Khoa học, Bộ Khoa học và Công nghệ, số tháng 6/2009: 7-19.
Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ Sinh học, Đại học Huế, 2008. Báo cáo đánh giá tác động môi trường nhà máy
Quảng Tế II. Tài liệu lưu hành nội bộ. Đại học Huế.

Phần II. Môi trường và biến đổi khí hậu

201



×