Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Đánh giá các tác động kinh tế - xã hội và môi trường của sự gia tăng nhu cầu nước cấp đô thị ở thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 49 trang )

Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động đời sống của con người gắn với nước đã tạo ra “văn hoá nước”
thông qua các hoạt động khai thác, sử dụng và chế ngự nước của con người. Tuy
nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ngày nay, tài nguyên nước đang bị đe
doạ nghiêm trọng, nguồn nước ngày càng ô nhiễm và cạn kiệt do nạn chặt phá rừng
tràn lan, khai thác và sử dụng nước không hợp lý. Nhiều đối tượng sử dụng nước vẫn
còn quan niệm nước là “của trời cho”. Vì vậy họ sử dụng bừa bãi, không tiết kiệm và
thiếu ý thức bảo vệ, bảo tồn nguồn nước.
Gần đây, Việt Nam đã chính thức bị loại ra khỏi danh sách những quốc gia
giàu có về tài nguyên nước với mức bình quân hiện nay chỉ đạt 4.400 m
3
/người/năm
(bao gồm cả nước mặt và nước ngầm), thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân của
thế giới là 7.400 m
3
/người/năm (Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, 2008).
Thực tế cho thấy ở Việt Nam, lượng nước phân bố không đều đã gây ra hiện tượng
thiếu nước vào mùa khô và thừa nước vào mùa mưa ở một số vùng. Đáng lưu ý hơn
là tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng ở hầu hết các hệ thống sông ngòi trên
toàn lãnh thổ Việt Nam, làm cho vấn đề cấp nước đô thị đối mặt với nhiều khó khăn
và thách thức.
Cấp nước là công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, đồng thời là công trình hạ tầng
xã hội cần thiết cho sự phát triển kinh tế và phục vụ dân sinh. Cấp nước có ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe con người, đến sinh hoạt hằng ngày của mọi gia đình và
sự phát triển bền vững của môi trường đô thị. Ở thành phố Huế, do trữ lượng nước
ngầm ít nên việc sử dụng nước từ trước đến nay hoàn toàn dựa vào nguồn nước cấp
đô thị khai thác từ sông Hương. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng nước của thành phố
hiện đang ngày một tăng cao, do tốc độ đô thị hóa - công nghiệp hóa, sự gia tăng dân
số và biến đổi khí hậu …


Theo dự báo của JICA (2001), đến năm 2020, tổng nhu cầu dùng nước của các
ngành trên lưu vực sông Hương vào khoảng 639 triệu m
3
/năm. Nhu cầu tăng cao sẽ
gây ra nhiều tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh tế - xã hội lẫn môi trường. Sự thay
1
đổi dòng chảy của sông, mất ổn định của hệ sinh thái thủy sinh, việc gia tăng chất
thải, hóa chất từ quá trình xử lý nước, sự mất cân đối giữa cung và cầu ở nông thôn
và thành thị ... chắc chắn sẽ là những vấn đề nan giải một khi nhu cầu sử dụng nước ở
thành phố Huế tăng cao.
Hơn thế nữa, gia tăng nhu cầu sử dụng nước sẽ nảy sinh nhiều áp lực lên các
nhà quản lý cấp thoát nước ở thành phố Huế trong các hoạt động nhằm đảm bảo hiệu
quả về chất lượng của quy trình xử lý nước cũng như công tác quản lý và cân đối
cung cầu. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để các nhà quản lý và người dân thấy rõ
được những tác động tiêu cực của việc gia tăng nhu cầu sử dụng nước, từ đó đưa ra
các đề xuất và thực hiện các biện pháp sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn nước
ngọt đang ngày một khan hiếm. Nhằm góp phần giải quyết tốt những vấn đề này,
chúng tôi mạnh dạn chọn chủ đề: “Đánh giá các tác động kinh tế - xã hội và môi
trường của sự gia tăng nhu cầu nước cấp đô thị ở thành phố Huế” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá các tác động của sự gia tăng nhu cầu nước cấp đô thị ở thành phố Huế đến
lĩnh vực môi trường và kinh tế - xã hội.
- Lựa chọn và đề xuất các giải pháp quản lý nhu cầu.
2
Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC CẤP NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NƯỚC CẤP ĐÔ
THỊ Ở VIỆT NAM
2.1.1. Hiện trạng công tác cấp nước đô thị

Từ trước đến nay, Ðảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến công tác cấp nước
đô thị, nhiều dự án cấp nước đã được ưu tiên đầu tư, nhờ vậy tình hình cấp nước các
đô thị đã được cải thiện một cách đáng kể, công suất các nhà máy được tăng cao.
Việc nâng cao chất lượng nước, ứng dụng khoa học công nghệ tiến tiến vào sản xuất
và quản lý, tăng tỷ lệ người dân dùng nước sạch ở các đô thị... cũng được quan tâm
thích đáng .
Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam đã đầu tư khoảng hơn 1 tỷ USD để phát
triển hệ thống cấp nước đô thị với khoảng 210 dự án. Hiện tại, tất cả 64 tỉnh thành
đều có các dự án cấp nước đô thị với mức độ đầu tư khác nhau và toàn quốc có
khoảng 240 nhà máy cấp nước (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2007). Tuy nhiên
hiện nay, nhiều đô thị lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng ... vẫn thường xuyên
thiếu nước. Ở Việt Nam nguồn nước chủ yếu sử dụng là nước mặt và nước ngầm,
trong đó 2/3 là nước mặt từ các sông. Nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước
ngầm do tác động của con người và thiên nhiên gia tăng theo thời gian. Chất lượng
nguồn nước ngày càng không ổn định và diễn biến theo chiều hướng xấu. Hiện tượng
nước bị nhiễm bẩn tại thành phố Hồ Chí Minh, chất lượng nước kém tại nhiều đô thị
như Hà Nội, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên, ... hay nước nhiễm mặn tại Huế
đang trở thành vấn đề nan giải.
Ngoài ra, sự yếu kém của công tác cấp nước ở các đô thị ở Việt Nam còn thể
hiện ở một số khía cạnh sau đây:
+ Công suất thiết kế chưa phù hợp với thực tế, nơi thừa, nơi thiếu. Hệ thống
cấp nước đô thị mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của 60% dân số đô thị với mức tiêu
thụ bình quân 80 lít/người/ngày; Đặc biệt thường xuyên xảy ra tình trạng thiếu nước
và cắt nước nhất là trong mùa hè ở các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội và
Đà Nẵng. Trong những thời điểm này, người dân thường phải dùng nước nhiễm mặn,
nhiễm phèn hoặc khai thác nước ngầm gây ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên nước
ngầm và cấu trúc địa chất trong lòng đất…
+ Tỷ lệ người dân đô thị được cấp nước thấp, trung bình đạt 50% - 55%, riêng
đô thị loại 1 và loại 2: 70% - 80%, đô thị loại 4 và 5: 15% - 20%.
3

Hình 2.1. Tỷ lệ cấp nước ở các đô thị Việt Nam (Bùi Đình Kha, 2007).
+ Các nhà máy quá lạc hậu, hệ thống đường ống xuống cấp nghiêm trọng và
không đáp ứng đủ công suất. Tỷ lệ thất thoát, rò rỉ và thất thu cao, trung bình từ 30%
- 40%, có nơi lên đến 50%.
+ Việc đầu tư cấp nước không đồng bộ, mới chỉ chú trọng phần tăng công suất
cấp nước mà chưa quan tâm đúng mức đến đầu tư mạng lưới cho tương xứng; chưa
kết hợp có hiệu quả đầu tư cải tạo hệ thống cấp nước hiện có với việc xây dựng mới.
2.1.2. Hiện trạng công tác quản lý nước cấp đô thị
Có thể khẳng định rằng quản lý nhu cầu sử dụng nước nói chung và nước cấp
đô thị nói riêng hiện còn ít được quan tâm áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các
tỉnh thành trên toàn quốc đang quản lý nước cấp đô thị theo phương thức cung, nghĩa
là chỉ mới chú trọng đến việc gia tăng số lượng nước cấp để đáp ứng nhu cầu. Nói
cách khác, chúng ta đang quản lý nước theo khả năng nguồn nước và công trình sẵn
có mà ít chú trọng đến quản lý nhu cầu. Căn cứ chủ yếu của các quy hoạch tổng thể
về cấp nước là khả năng sẵn có của nguồn nước chứ hoàn toàn chưa xem trọng việc
triển khai thực hiện các giải pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước.
Ngoài ra, việc đầu tư cấp nước không đồng bộ, mới chỉ chú trọng phần tăng công
suất cấp nước mà chưa quan tâm đến việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước
ngọt có hạn.
Hiện nay, tổ chức ngành cấp nước quốc gia chưa thống nhất và phù hợp với
mô hình quản lý và kinh doanh ngành nước. Có địa phương giao cho công ty cấp
nước tỉnh quản lý toàn bộ hệ thống cấp nước trên địa bàn; có tỉnh lại giao cho các nhà
máy nước theo từng địa bàn riêng biệt; có địa phương giao các công ty cấp nước cho
4
Ủy ban nhân dân (UBND) thị xã quản lý, đa phần trực thuộc Sở Xây dựng, Sở Giao
thông - Công chính. Cơ cấu không đồng bộ đang là trở ngại kìm hãm sự phát triển
của hệ thống cấp nước đô thị Việt Nam.
Nguồn nhân lực phục vụ cho ngành cấp nước cũng chưa được quan tâm đào
tạo đúng mức, trình độ cán bộ và công nhân còn thấp, ảnh hưởng đến công tác vận
hành, bảo dưỡng cũng như tiếp thu công nghệ cấp nước mới. Cơ chế và chính sách

nhà nước trong công tác quản lý nước cấp đô thị còn nhiều bất cập, đặc biệt là vấn đề
về giá nước. Hầu hết các địa phương đều định giá nước làm nhiều loại, tăng giá nước
sản xuất và kinh doanh để bù cho giá nước sinh hoạt và công cộng.
Ngoài những bất cập nêu trên đây thì khả năng quản lý và kinh doanh hạn chế
cùng với tác động của cơ chế hành chính, quan liêu - bao cấp làm cho tỷ lệ thất thu
cao cũng là một trong những biểu hiện rõ nét về sự hoạt động yếu kém của ngành cấp
nước đô thị Việt Nam.
Nói tóm lại, công tác quản lý nước và nước cấp đô thị ở Việt Nam hiện nay
chủ yếu tập trung vào quản lý mức cung (Supply Side Management), nghĩa là tập
trung vào việc nâng cao khả năng cung cấp để thỏa mãn nhu cầu. Ngược lại, phương
thức quản lý nhu cầu (Demand Side Management) hướng đến mục tiêu sử dụng hiệu
quả và tiết kiệm tài nguyên nước, qua đó làm giảm nhu cầu cần phải đáp ứng còn
chưa được quan tâm áp dụng ở Việt Nam. Thực tế có thể là do nguyên nhân chủ quan
bởi nước ta vốn là một trong những quốc gia có tài nguyên nước ngọt khá phong phú.
Mức đảm bảo nước của ta cao gấp 8 lần so với mức đảm bảo trung bình toàn thế giới
(Trung tâm nghiên cứu Thủy văn và Tài nguyên nước, 2007). Tuy nhiên, theo cảnh
báo mới đây của Tổ chức Khí tượng thế giới, có khả năng từ năm 2010 trở đi, Việt
Nam sẽ trở thành một trong những quốc gia thiếu nước ngọt để sử dụng cho các nhu
cầu sinh hoạt và phát triển kinh tế.
2.2. HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC CẤP NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NƯỚC CẤP ĐÔ
THỊ THÀNH PHỐ HUẾ
2.2.1. Khái quát về thành phố Huế
a. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Với toạ độ địa lý: 107
o
31’45’’-107
o
38’ kinh Ðông và 16
o

30’45’’-16
o
24’ vĩ Bắc
(UBND Thành phố Huế, 2009), thành phố Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước,
trên trục Bắc - Nam của các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường
biển, gần tuyến hành lang Đông - Tây của tuyến đường Xuyên Á. Cách Hà Nội 675
km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 1.060 km, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm Trung bộ với các trung tâm kinh tế đang phát triển nhanh như khu khuyến
khích phát triển kinh tế - thương mại Chân Mây, thành phố Đà Nẵng, khu kinh tế mở
Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quốc..., có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối dễ
dàng với Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành khác trong cả
nước. thành phố Huế có diện tích: 70,99 km
2
với 335,747 người dân (Niên giám
5
thống kê thành phố Huế, 2007) – chiếm 1,4% về diện tích và chiếm 29,3% dân số
toàn tỉnh.
Hình 2.2. Bản đồ hành chính thành phố Huế (UBND Thành phố Huế, 2009).
Thành phố Huế nằm ở vị trí có điều kiện thiên nhiên, hệ sinh thái đa dạng,
phong phú và diện mạo riêng tạo nên một không gian hấp dẫn, được xây dựng trong
không gian phong cảnh thiên nhiên kỳ diệu từ núi Ngự Bình, đồi Thiên An - Vọng
Cảnh, thành phố hội đủ các dạng địa hình: đồi núi, đồng bằng, sông hồ, tạo thành
một không gian cảnh quan thiên nhiên - đô thị - văn hoá lý tưởng để tổ chức các loại
hình Festival và các hoạt động du lịch thể thao khác nhau.
Thành phố Huế là địa bàn lý tưởng gắn kết các tài nguyên văn hoá truyền
thống đặc sắc với du lịch mà không một thành phố, địa danh nào ở nước ta có được
và là một trong 5 trung tâm du lịch quốc gia. Huế nằm ở vị trí trung tâm của các di
6
sản văn hoá thế giới của Việt Nam (Hội An, Mỹ Sơn, động Phong Nha - Kẻ Bàng) và
gần với các thành phố cố đô của các nước trong khu vực.

- Đặc điểm khí hậu
Thành phố Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chuyển tiếp
từ á xích đạo đến nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa
miền Bắc và miền Nam nước ta.
+ Chế độ nhiệt: Thành phố Huế có mùa khô nóng và mùa mưa ẩm lạnh. Nhiệt độ
trung bình hàng năm vùng đồng bằng khoảng 24°C - 25°C.
 Mùa nóng bắt đầu từ tháng V đến tháng IX, chịu ảnh hưởng của gió Tây
Nam nên khô nóng, nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình các tháng nóng là từ 27°C -
29°C, tháng nóng nhất (tháng V,VI) nhiệt độ có thể lên đến 38°C- 40°C.
 Mùa lạnh: Từ tháng X đến tháng III năm sau, chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông bắc nên mưa nhiều, trời lạnh. Nhiệt độ trung bình về mùa lạnh ở vùng đồng
bằng là 20°C - 22°C.
+ Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình khoảng 2.500 mm/năm. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng IX đến tháng II năm sau, tháng XI có lượng mưa lớn nhất, chiếm tới 30%
lượng mưa cả năm.
+ Độ ẩm trung bình 85%-86%.
+ Đặc điểm mưa ở Huế là mưa không đều, lượng mưa tăng dần từ Đông sang Tây,
từ Bắc vào Nam và tập trung vào một số tháng với cường độ mưa lớn do đó dễ gây lũ
lụt, xói lở.
+ Gió bão: Chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính. Gió mùa Tây Nam khô nóng,
bốc hơi mạnh gây khô hạn kéo dài bắt đầu từ tháng IV đến tháng VIII. Gió mùa Đông
Bắc bắt đầu từ tháng IX đến tháng III năm sau thường kèm theo mưa làm cho khí hậu
lạnh, ẩm, dễ gây lũ lụt. Bão thường xuất hiện từ tháng VIII đến tháng IX-X (UBND
thành phố Huế, 2009)
- Đặc điểm địa chất thủy văn dòng chảy
Sông Hương là nguồn chính cung cấp nước cho toàn thành phố. Đây là con
sông bồi đắp phù sa cho dải đồng bằng ven sông. Lưu vực sông có diện tích
2.830km
2
chiếm 60% diện tích toàn tỉnh, trong đó dải đất ven sông là nơi tập trung

sinh sống của dân cư, các công trình, trụ sở, các di sản văn hóa, các di tích lịch sử.
Cũng như các con sông khác của miền Trung, sông Hương có các nhánh sông
chính ngắn và dốc, đoạn trung lưu gần như không có. Địa bàn nơi sông chảy qua có
đầy đủ các loại hình: Núi, đồi, đồng bằng, cồn cát, đầm phá… Tuy nhiên, khác với
các hệ thống sông khác thường có hạ lưu đổ ra biển bằng nhiều nhánh, còn hệ thống
sông Hương chỉ thoát nước ra biển bằng hai cửa Thuận An và Tư Hiền.
7
Lượng nước trên lưu vực sông Hương rất phong phú, đạt gần 6 tỷ m
3
/năm.
Nhưng do địa hình hẹp, dốc, dòng chảy không đồng đều trong năm và trên dòng
chính của sông Hương chưa có nhiều công trình điều tiết nên rừng ngày càng bị tàn
phá nặng và thảm thực vật rừng bị suy kiệt. Độ dốc địa hình và đáy sông suối lớn,
sông ngắn và lưu vực hẹp là những yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình tập trung nước,
truyền lũ, gây ra lũ quét và mặn thường xuyên xâm nhập sâu lên sông Hương, điển
hình là năm 2002, nước mặn vượt quá Huế 20-25 km gây mặn toàn vùng. Đó là một
hiểm hoạ cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cấp nước cho dân sinh.
Muốn giải quyết vấn đề này thì vào mùa kiệt, sông Hương phải được bổ sung thêm
nước 25-26m
3
/s từ hồ chứa ở thượng lưu.
b. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Thực trạng phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của thành phố Huế năm 2008 là 13,7%. Tình
hình phát triển kinh tế và doanh thu cụ thể trên địa bàn năm 2008 được tổng kết như
sau:
• Về sản xuất Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp:
Giá trị sản xuất trên địa bàn ước đạt 1.542,5 tỷ đồng, tăng 19,7%. Giá trị hàng
xuất khẩu: 35 triệu USD. Cụm Công nghiệp làng nghề Hương Sơ tiếp tục thu hút đầu
tư, đã có 13 doanh nghiệp lập dự án trong đó có 7 dự án đã chấp thuận, 2 dự án đã

được phê duyệt, triển khai.
• Tình hình sản xuất nông nghiệp: Giá trị sản xuất ước đạt 110,2 tỷ đồng,
tăng 4,5%, chuyển đổi theo hướng dịch vụ phục vụ du lịch, khu du lịch sinh thái, cây
trồng có giá trị kinh tế cao như: Thanh trà, măng cụt, rau sạch...
• Du lịch: Doanh thu ước đạt 801,5 tỷ đồng, tăng 35,5% lượt khách đến ước
đạt 1.388.610 lượt, tăng 18,5%; trong đó khách quốc tế là 680.000 lượt, tăng 18,9%,
khách nội địa là 708.610 lượt, tăng 18,08%. Số ngày khách lưu trú bình quân đạt 2,04
ngày/khách. Công suất sử dụng phòng bình quân đạt 74%. Nhiều khách sạn, nhà hàng
mới đã đưa vào hoạt động. Các tuyến du lịch được củng cố đã thu hút một lượng
khách đến từ Thái Lan, Lào, Trung Quốc...
• Dịch vụ: Doanh thu dịch vụ trên địa bàn đạt 434,4 tỷ đồng, tăng 37,3%.
• Thương mại: Doanh thu thương mại ước đạt 5.158,9 tỷ đồng, tăng 36,5%.
Công tác quản lý thị trường, giá cả được triển khai tốt. Các doanh nghiệp đã tổ chức
nhiều hoạt động kinh doanh phong phú nhằm thu hút khách hàng.
- Quy mô và cơ cấu dân số thành phố Huế
Hiện tại, thành phố Huế là một đô thị có quy mô dân số trung bình. Tổng số
dân năm 2007 là 335.747 người, tổng số hộ là 65.126 hộ. Với diện tích hiện tại là
70,99km
2
, mật độ dân số thành phố vào khoảng 4.729,5 người/km
2
(Niên Giám
8
Thống Kê thành phố Huế, 2007). Tốc độ tăng dân số tự nhiên giảm liên tục, từ 1,31%
năm 2000 xuống còn 1,1% vào năm 2007.
Tỷ lệ đô thị hóa của thành phố rất cao. Dân số trung bình thành thị năm 2007
là 305.052 người, chiếm 90,86% tổng số dân (năm 2006 chiếm 80,27% tổng số dân).
Hiện nay, dân số thành thị tập trung sinh sống ở 24 phường. Dân số nông thôn là
30.695 người, chiếm 9,14% tổng số dân (năm 2006 chiếm 19,73% tổng số dân), tập
trung ở 3 xã là Thủy Biều, Hương Long và Thủy Xuân.

- Định hướng phát triển về kinh tế trong tương lai
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) cao hơn tốc độ tăng trưởng của
tỉnh Thừa Thiên Huế 1,1 – 1,2 lần, đạt bình quân 16 – 18%/năm trong giai đoạn 2006
– 2010, trên 14%/năm trong giai đoạn 2011 – 2015 và trên 12%/năm giai đoạn 2016
– 2020.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: Dịch vụ - Công nghiệp - Tiểu thủ
công nghiệp. Cụ thể tỷ trọng GDP theo từng ngành như sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu kinh tế thành phố Huế đến năm 2020 (UBND Thành phố
Huế, 2006)
Tỷ trọng
GDP
Năm
Dịch vụ
Công nghiệp-xây
dựng
Nông-lâm nghiệp-
thủy sản
2010 59-60% 38-39%, 1,0-1,5%.
2020 67-70% 30-32%, < 1%.
Để thực hiện được mục tiêu về cơ cấu kinh tế như vậy, thành phố Huế đã có
các định hướng cho từng ngành như sau:
• Dịch vụ
Phấn đấu đón 2,5 lượt khách du lịch (tăng bình quân 14%/năm), trong đó có
1,5 triệu khách quốc tế năm 2010. Đa dạng hóa các loại hình và nâng cao chất lượng
dịch vụ để tăng số ngày lưu trú của khách lên trên 2 ngày/lượt khách. Doanh thu du
lịch tăng 30-35%/năm. Đến năm 2020, đón không dưới 8 triệu lượt khách du lịch,
tăng 12,4%/năm (trong đó 40-45% khách quốc tế), doanh thu tăng 18- 20%/năm,
phấn đấu tăng số ngày lưu trú của khách lên khoảng 2,3-2,5 ngày/lượt khách.
• Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Tiếp tục phát triển với tốc độ cao, ổn định để làm nền tảng đạt được tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao trong thời kì 2006-2010 và 2010-2020 (giá trị sản xuất công
nghiệp trên địa bàn tăng bình quân trên 16%/năm thời kì 2006 - 2010, trên 14%/năm
thời kì 2011-2015 và trên 12%/năm thời kì 2016-2020). Tỷ trọng của khu vực công
nghiệp trong tổng GDP của thành phố năm 2010 khoảng 37-39%, năm 2015 khoảng
34-35% và năm 2020 khoảng 30-32%.
9
Chuyển đổi, cơ cấu lại sản xuất công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các
ngành công nghiệp sạch, kỹ thuật - công nghệ cao như công nghệ thông tin - viễn
thông, điện tử, hóa dược, dệt may, da - giày, chế biến thực phẩm đặc sản để xuất
khẩu, đồng thời phát triển công nghiệp chế tác sản xuất hàng tiêu dùng và tiểu thủ
công nghiệp (Hàng thủ công mỹ nghệ, thêu,…) để giải quyết việc làm cho lao động
trong khu vực đô thị hóa.
Tổ chức hợp lý không gian sản xuất công nghiệp, hình thành các cụm công
nghiệp (Bắc Hương Sơ, Nam Thủy An với tổng diện tích 73 ha). Sau năm 2010 xem
xét mở rộng diện tích khu công nghiệp Bắc Hương Sơ lên 100 ha, Nam Thủy An lên
100 ha.
• Về văn hóa - xã hội
Nâng cao chất lượng dân số, tăng cường công tác truyền thông dân số và kế
hoạch hóa gia đình để giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên xuống dưới 11% vào năm
2010 và giảm tiếp còn dưới 8% năm 2020 để đảm bảo duy trì tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên từ 1-1,05%, điều tiết để duy trì mức độ gia tăng cơ học ở mức hợp lý là 0,5-0,7
%/năm.
2.2.2. Hiện trạng sử dụng nước cấp đô thị ở thành phố Huế
Thành phố Huế hiện có tổng số dân là 335.747 người, phân bố tại 24 phường
và 3 xã, với tổng số hộ theo thống kê năm 2007 là 65.126 hộ.
Các thống kê từ Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Xây dựng và Cấp
nước Thừa Thiên Huế (COWASU) cho biết 100% các hộ sử dụng nước đều có đồng
hồ nước với tỉ lệ bao phủ cấp nước thành phố Huế là 99%, nghĩa là chỉ còn 1% hộ gia
đình ở thành phố Huế chưa tiếp cận được với nước cấp đô thị, với mức sử dụng bình
quân khoảng 120-135 lít/người/ngày (đạt mức sử dụng của đô thị loại 2). Lượng

nước cấp đô thị đã sử dụng trong những năm vừa qua của thành phố Huế như sau:
Bảng 2.2. Lượng nước tiêu thụ của thành phố Huế (COWASU, 2008)
Năm Lượng nước
tiêu thụ (m
3
)
Nước phục vụ
công cộng và
thất thoát (m
3
)
Yêu cầu riêng
của nhà máy xử
lý nước (m
3
)
Tổng nhu
cầu (m
3
)
2005 18.200.000 4.914.000 2.311.400 25.425.400
2006 19.900.000 5.373.000 2.527.300 27.800.300
2007 21.700.000 5.859.000 2.755.900 30.314.900
2008 24.100.000 4.366.000 2.892.000 31.358.000
Kết quả trên cho thấy lượng nước phục vụ công cộng và thất thoát vào năm
2008 chiếm khoảng 18,1% tổng lượng nước sử dụng của toàn thành phố (giảm 1,2%
10
so với năm 2007), nước theo yêu cầu của nhà máy xử lý nước chiếm khoảng 12%
tổng lượng nước sử dụng, (tăng 2,9 % so với năm 2007).
Qua điều tra thực tế cho thấy mức độ sử dụng nước của người dân thành phố

Huế rất đa dạng tùy thuộc vào kinh tế gia đình và có thể chia ra 5 nhóm sử dụng như
sau:
Bảng 2.3. Mức độ sử dụng nước của người dân thành phố Huế
Nhóm Mức sử dụng (lít/người/ngày)
Thu nhập cao 200 - 300
Thu nhập khá 120 - 180
Thu nhập vừa 100 - 150
Thu nhập trung bình 50 - 90
Thu nhập thấp <=50
Tuy nhiên cách chia nhóm sử dụng nước trên đây chỉ ở mức tương đối. Có
những hộ gia đình có mức thu nhập cao, đời sống khá giả nhưng mức độ sử dụng
nước của họ thấp hơn 200-300 lít/người/ngày. Thông thường đối với các hộ gia đình
có nhiều trẻ em, sử dụng nhiều nước hơn các hộ khác vì các hộ này có nhu cầu giặt
giũ nhiều hơn bình thường.
Qua điều tra cũng cho thấy người dân thành phố Huế có ý thức tiết kiệm nước.
Ví dụ như tận dụng nước giặt rửa sau cùng để tưới cây hoặc làm mát mặt đường...
Đối với các hộ có máy giặt thì thường sau 2 - 3 ngày dồn áo quần mới giặt một lần để
tiết kiệm điện và nước. Vào mùa mưa, nhiều hộ dân nhất là dân ở vùng ven thành phố
có dùng nước mưa để giặt và rửa là chủ yếu. Tuy nhiên, nhận thức của người dân về
sự quý hiếm của nguồn tài nguyên nước ngọt hầu như chưa có, chỉ một số ít cán bộ,
viên chức ý thức được vấn đề này. Đa số người dân tiết kiệm nước là liên quan đến
vấn đề kinh tế, tức là để giảm chi phí tiêu dùng hàng tháng.
Do thành phố Huế có lượng mưa phân bố không đồng đều nên vào mùa hè,
mực nước của các sông thường hạ thấp. Tại các hồ chứa, mức nước giảm đến mức
báo động. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các hoạt động sản xuất và sinh hoạt
trong thành phố và toàn tỉnh. Đối với ngành du lịch, đây là mùa khách du lịch tăng
cao nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc cung cấp nước phục vụ cho mọi nhu cầu
của khách. Đối với các hệ thống khách sạn, mặc dù hầu hết các khách sạn đều có hồ
chứa dự phòng nhưng không đủ để đối phó với tình trạng thiếu hụt nước cấp nói trên.
Các biện pháp tự mỗi khách sạn khắc phục như dùng nước giếng khoan thông qua xử

lý hoặc thuê xe bồn chở nước từ nơi khác đến cũng chỉ đủ để phục vụ cho ăn uống.
2.2.3. Hiện trạng công tác quản lý nước cấp đô thị
a. Công tác quản lý khối lượng nước cấp
11
Nguồn nước đô thị cung cấp cho thành phố Huế và phụ cận được khai thác từ
nước sông Hương. Với diện tích lưu vực 2.830km
2
, chiếm 60% diện tích toàn tỉnh,
đây là con sông có trữ lượng nước dồi dào (đạt gần 6 tỉ m
3
/năm), chất lượng nước tốt,
cung cấp khoảng 75% khối lượng nước cho mọi hoạt động của đô thị Huế bao gồm
cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông đường thủy, du lịch ...
Tuy nhiên, sông Hương cũng là nơi tiếp nhận các chất thải không qua xử lý từ các
hoạt động của đô thị Huế và chịu tác động của điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa
khắc nghiệt, lũ lụt vào mùa mưa, nhiễm mặn và cạn kiệt vào mùa khô. Tất cả những
nguyên nhân trên đã làm cho chất lượng nước sông Hương biến chuyển theo chiều
hướng xấu đi rất nhiều, về cả số lượng lẫn chất lượng.
Hệ thống tuyến ống phân phối thành phố Huế cơ bản được bố trí hợp lý và có
tính đến sự phát triển định hướng cấp nước cho đến năm 2010. Khi lắp đặt đường
ống tại các khu công nghiệp tập trung, khu dân cư và tại các trục đường chính, công
ty cấp thoát nước đã tính đến sự mở rộng lề đường. Tuy nhiên, hệ thống tuyến ống
cấp nước phát triển qua nhiều giai đoạn trong suốt hơn 90 năm, do vậy tiêu chuẩn
chất lượng không đồng đều. Đáng chú ý nhất là thời gian sử dụng dài ngắn khác
nhau; có tuyến lắp đặt đã trên 40 năm nhưng đến nay đã qua 80 năm vẫn còn sử
dụng. Mặc dù hiện nay đã có nhiều chương trình nâng cấp sửa chữa mạng lưới đường
ống nhưng thực tế trên vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng nước, thường
gây sự cố vỡ ống và rò rỉ dẫn đến thất thoát nước.
Từ một nhà máy nước Huế với hệ thống máy móc thiết bị và đường ống thô
sơ cũ kỹ, tổng công suất tối đa chỉ đạt 6.000 m

3
/ngày, sản lượng nước thương phẩm
1,8 triệu m
3
/năm, cung cấp không thường xuyên và chất lượng thấp cho khoảng 20%
dân số thành phố Huế vào năm 1975, đến nay, COWASU đã có 13 nhà máy, với tổng
công suất đạt 105.000 m
3
/ngày (COWASU, 2008). Trong đó, có nhiều nhà máy mới
được xây dựng có công nghệ hiện đại như nhà máy Vạn Niên, Quảng Tế 2, Dã Viên,
Tứ Hạ và Bạch Mã. Các nhà máy cũ cơ bản đã được cải tạo và thay mới máy móc
thiết bị. Mạng lưới đường ống cũng được cải tạo và mở rộng. Đối tượng được dùng
nước máy đã vượt khỏi địa bàn thành phố đến các vùng xa, các vùng có nguồn nước
bị ô nhiễm, các khu kinh tế trọng điểm của tỉnh như sân bay, khu công nghiệp Phú
Bài, cảng Thuận An, cảng Chân Mây, các khu định cư, khu quy hoạch dân cư mới ...
Riêng tại thành phố Huế, hệ thống cấp nước hiện nay bao gồm:
+ Nhà máy nước Giã Viên công suất 14.000 m
3
/ngày.
+ Nhà máy nước Quảng Tế công suất 55.000 m
3
/ngày.
+ Trạm bơm nước Vạn Niên có chức năng bơm nước sông Hương cho nhà máy
nước Quảng Tế.
Chất lượng nước không ngừng được nâng cao và tỷ lệ thất thoát và thất thu
nước giảm nhanh từ 45% năm 1990 xuống còn 18,1% năm 2008.
Hệ thống cấp nước hộ gia đình không ngừng được phát triển trong những năm
gần đây. Nếu như năm 2000, công ty có 21.469 đấu nối chính, thì đến tháng 12 năm
2007, số đầu nối chính đã lên đến 87.000, tăng gấp 4 lần.
12

Cùng với tốc độ phát triển nhanh tỷ lệ người dân dùng nước, COWASU đã
xây dựng và thực hiện “Chương trình cấp nước uống an toàn”. Tập trung đầu tư nâng
cấp, cải tạo các nhà máy cũ, xây dựng thêm nhiều nhà máy mới, ứng dụng khoa học
kỹ thuật, cơ khí hoá, tự động hoá và công nghệ tiên tiến trong xử lý nước. Đặc biệt,
công ty đã nghiên cứu và thực hiện đề tài “Xử lý, phục hồi và nâng cấp các ống
gang, thép”. Từ năm 2001 đến nay, đã phục hồi, nâng cấp gần 60 km đường ống
gang, thép kém chất lượng, đường kính từ 80 đến 800mm, chủ động thay thế trên
90km đường ống kém chất lượng, nhất là các tuyến ống chính, đầu nguồn. Công ty
cũng chú trọng sử dụng các loại ống chất lượng cao trong thi công lắp đặt mới, như
ống gang dẻo của Pháp, Nhật, ống nhựa HDPE chất lượng cao... Đây thật sự là một
cuộc cách mạng về đường ống. Nhờ đó, mạng đường ống ngày càng hoàn thiện, tăng
năng lực truyền tải và áp lực, cấp nước liên tục, giảm thất thoát thất thu, chấm dứt
tình trạng nước đục do ống cũ.
Trong năm 2009, công ty triển khai thực hiện nhiều dự án quan trọng như thực
hiện dự án đầu tư hệ thống cấp nước sinh hoạt cho các xã ở phía Đông phá Tam
Giang - Cầu Hai giai đoạn 2009-2010 với tổng mức đầu tư là 65 tỷ đồng (phấn đấu
hoàn thành tuyến băng qua phá Tam Giang để cấp nước cho nhân dân 2 xã Quảng Ngạn
và Quảng Công trong Quý I/2009). Ngoài ra, công ty sẽ khởi công dự án xây dựng hệ
thống cấp nước từ hồ Truồi với công suất 5.000 m
3
/ngày để cấp nước cho thị trấn Phú
Lộc và 5 xã phụ cận với tổng chi phí gần 45 tỷ đồng.
Song song các hoạt động trên, năm 2009, công ty sẽ kết thúc dự án hỗ trợ kỹ
thuật Nhật Bản về đào tạo phát triển nguồn nhân lực miền Trung Việt Nam (tổ chức
kết nghĩa với Cục nước Yokohama) và triển khai dự án hỗ trợ kỹ thuật cấp nước Huế
ADB với tổng vốn viện trợ không hoàn lại là 1,5 triệu USD, nhằm nâng cao năng lực
hoạt động, tính hiệu quả của các dịch vụ cấp nước tại đô thị và nông thôn, phấn đấu
đạt tỷ lệ bao phủ cấp nước 75% trên địa bàn tỉnh vào năm 2015.
b. Công tác quản lý chất lượng nước cấp
Ngoài việc không ngừng nâng cao hệ thống cấp nước để đảm bảo đáp ứng

đủ lượng nước sử dụng cho người dân trên địa bàn, COWASU còn không ngừng tìm
mọi giải pháp để nâng cao chất lượng nước cấp, đặc biệt là hướng tới mục tiêu cấp
nước uống an toàn.
Năm 1994, COWASU đã chuyển đổi chức năng KCS “Kiểm tra chất lượng
sản phẩm” sang “Quản lý chất lượng sản phẩm”. Năm 1998, thành lập phòng quản lý
chất lượng nước, với chức năng quản lý chất lượng nước trong phạm vi toàn công ty,
kiểm tra chất lượng nước từ nguồn, qua các công đoạn xử lý đến mạng cấp, điều
chỉnh các biện pháp xử lý kịp thời, nhằm mục đích đảm bảo chất lượng nước cấp
luôn đạt tiêu chuẩn quy định. Năm 2006, phòng thí nghiệm của công ty đã được
chứng nhận ISO/IEC17025:2005. Đầu năm 2008, công ty hoàn tất cải tạo mở rộng
phòng thí nghiệm trung tâm, đạt tiêu chuẩn của một phòng thí nghiệm cao cấp, chia
thành 2 khu vực phân tích hoá lý và vi sinh. Mỗi khu vực đều có những phòng chức
năng riêng và theo quy trình khép kín. Cho đến nay, phòng thí nghiệm của công ty có
13
khả năng phân tích phần lớn các chỉ tiêu nhóm A (các chỉ tiêu phân tích hàng giờ,
hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng) và nhóm B (các chỉ tiêu phân tích năm, 2 năm)
theo tiêu chuẩn của Bộ Y Tế về nước uống. Trong đó, có các chất độc hại như nhóm
trihalogenmetan (THM), các hóa chất khử trùng, các hợp chất thuốc trừ sâu…
Song song với đầu tư máy móc thiết bị, phòng quản lý chất lượng nước của
công ty đã tập trung nâng cao tính chính xác của các kết quả phân tích. Tất cả các
máy móc thiết bị phân tích đều được hiệu chuẩn đúng định kỳ và kiểm tra tính ổn
định của độ chính xác hàng ngày. Tất cả các phương pháp phân tích đều được áp
dụng theo tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành. Ngoài ra, phòng quản lý chất lượng nước
cũng đã xây dựng và thực hiện tốt quy trình kiểm soát chất lượng từ nguồn qua các
công đoạn xử lý đến mạng cấp, với mỗi công đoạn có các tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ
thuật kèm theo. Các chỉ tiêu giám sát và tần suất giám sát nước nguồn, nước thành
phẩm và nước trên mạng cấp tuân thủ theo Quyết định số 1329/2000 của Bộ Y Tế
nhằm đảm bảo cấp nước an toàn.
Đến nay, sau nhiều năm phấn đấu liên tục, chất lượng nước trên toàn mạng
cấp nước đã được cải thiện vượt bậc. Hầu hết các khu vực trên mạng cấp, nước đã

đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế và uống được an toàn. Đặc biệt, với việc giám sát chặt chẽ
các công đoạn sản xuất nước, đảm bảo nước sản xuất ra có độ đục <0,2NTU, thấp
hơn 10 lần so với tiêu chuẩn của Bộ Y Tế. Công ty đã tiến hành công bố cấp nước
uống an toàn trong dịp Festival Huế 2008, đưa nước sạch trở thành thương hiệu tạo
uy tín lớn, niềm tự hào cho công ty và nhân dân tỉnh nhà.
Bên cạnh những nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm, COWASU đã chú
trọng các hoạt động cộng đồng nhằm cung cấp các thông tin về tầm quan trọng của
nước sạch, công tác sản xuất và cung cấp nước sạch, công tác bảo vệ môi trường, bảo
vệ nguồn nước và hệ thống cấp nước,... Các hoạt động đã được triển khai thực hiện
bao gồm việc cung cấp các thông tin về sản xuất, cung cấp nước và hoạt động của
công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng, như truyền hình, báo, tổ chức thi đố
vui để học, thi vẽ tranh với chủ đề “ Nước sạch là nguồn sống”, tổ chức cho các em
học sinh tham quan học tập tại các nhà máy sản xuất nước, phối hợp với các trường
đại học hướng dẫn sinh viên thực tập tại các nhà máy và phòng thí nghiệm, tổ chức
khảo sát, thu thập ý kiến đóng góp của khách hàng, thiết lập một website cung cấp và
trao đổi thông tin với khách hàng...

14
Chương 3
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính bao gồm:
+ Công ty TNHH Nhà nước Một thành viên Xây dựng và Cấp nước Thừa
Thiên Huế và các hoạt động cấp nước đô thị của công ty.
+ Nhu cầu sử dụng nước cấp đô thị trên địa bàn thành phố Huế. Các đối tượng
sử dụng nước ở thành phố Huế được nghiên cứu bao gồm 3 thành phần chính:
• Ngành công nghiệp,
• Ngành thương mại – dịch vụ,
• Các hộ gia đình.

+ Các vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường liên quan.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn thành phố Huế bao gồm 24 phường: Phường An
Cựu, An Đông, An Hoà, An Tây, Hương Sơ, Kim Long, Phú Bình, Phú Cát, Phú
Hậu, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Thuận, Phước Vĩnh, Phường
Đúc, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Trường An, Vĩnh Ninh, Vỹ Dạ,
Xuân Phú và 3 xã là Hương Long, Thủy Biều và Thủy Xuân.
- Về thời gian: Đề tài được thực hiện trong thời gian từ ngày 01 tháng 03 năm
2009 đến hết ngày 15 tháng 5 năm 2009.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Dùng để thu thập các tài liệu, số liệu và thông tin cần thiết cho quá trình
nghiên cứu. Các tài liệu được thu thập bao gồm:
Quy hoạch cấp nước đô thị Huế.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Huế.
Niên giám thống kê thành phố Huế.
15
Các văn bản pháp luật liên quan đến cung cấp và phân phối, sử dụng nước sạch,
giá nước sạch áp dụng trên địa bàn thành phố Huế.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường nhà máy nước Quảng Tế II.
Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của TP Huế.
Các tài liệu liên quan đến việc cung cấp và sử dụng nước cấp như tập san cấp
nước của nhà máy nước, báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh – xây dựng
cơ bản năm 2007 và 2008 của Công ty THHH Nhà nước một thành viên xây dựng và
cấp nước Thừa Thiên Huế, tài liệu từ internet…
Số liệu sử dụng nước ngầm của thành phố Huế.
Số liệu về lượng nước sử dụng thực tế hàng tháng của người dân.
Ý thức tiết kiệm nước của người dân.
3.2.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để so sánh, phân tích, tổng hợp và đánh

giá các tài liệu đã thu thập được nhằm lựa chọn những số liệu, tài liệu có cơ sở khoa
học và có độ tin cậy cao. Qua đó góp phần mang lại hiệu quả cho công tác dự báo
nhu cầu nước cấp đô thị Huế đến năm 2010 và 2020 cũng như đánh giá các tác động
của sự gia tăng nhu cầu nước cấp gây ra.
3.2.3. Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia
Phương pháp này được sử dụng nhằm tham vấn ý kiến các chuyên gia và cán
bộ ngành cấp nước (ví dụ như anh Mai Duy Tường – Trưởng phòng kế hoạch
COWASU) về dự báo việc gia tăng nước cấp đô thị của thành phố Huế, các tác động
của sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước cũng như các biện pháp quản lý nhu cầu mà
công ty đã áp dụng.
3.2.4. Phương pháp phân tích xu hướng (Trend Analysis)
Còn được gọi là phương pháp “Hồi cứu quá khứ - dự báo tương lai” giúp phân
tích các thay đổi về nhu cầu sử dụng nước theo thời gian nhằm dự báo các xu hướng
các nhu cầu sử dụng nước trong tương lai ở thành phố Huế .
Bằng cách nhìn lại diễn biến gia tăng dân số và nhu cầu sử dụng qua các năm
về trước, phương pháp này sẽ phân tích để đưa ra con số dự báo chính xác hơn. Nếu
tốc độ gia tăng dân số và nhu cầu sử dụng nước diễn ra đều đặn qua các năm thì độ
chính xác của dự báo càng cao.
16
3.2.5. Phương pháp dự báo tính theo đầu người (Per capita)
Còn được gọi là phương pháp đường thẳng (straight line). Phương pháp này
kết hợp hợp với phương pháp ngoại suy để tính toán nhu cầu dùng nước trong tương
lai ở thành phố Huế.
Để đơn giản hóa, phương pháp đường thẳng có 1 giả định cần lưu ý, đó là
không tính đến các nhân tố khác của dân số như thu nhập hộ gia đình, tiêu thụ hộ gia
đình và quy mô hộ gia đình mặc dù những nhân tố này có ảnh hưởng đến nhu cầu sử
dụng nước.
17
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. DỰ BÁO NHU CẦU SỬ DỤNG NƯỚC CẤP ĐÔ THỊ Ở THÀNH PHỐ
HUẾ ĐẾN NĂM 2020
Căn cứ theo tiêu chuẩn TCXDVN 33 : 2006 của Bộ Xây Dựng về Cấp nước
ban hành vào năm 2006, có thể chia nhu cầu dùng nước trong thành phố Huế thành
các dạng chính như sau:
+ Nước ăn uống, sinh hoạt
+ Nước phục vụ công cộng
+ Nước cho nhu cầu công nghiệp
+ Nước phục vụ cho du lịch – dịch vụ
+ Nước thất thoát
+ Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước
Như vậy, để tính tổng nhu cầu sử dụng nước cấp đô thị của thành phố Huế,
chúng tôi sử dụng công thức sau:
Q = Q
sh
+ Q
cc
+ Q
cn
+ Q
dl-dv
+ Q
tt
+Q
nm
(1)
Với Q là tổng lượng nước sử dụng (m
3
/ngày)
Q

sh
: Nhu cầu nước cho sinh hoạt (m
3
/ngày)
Q
cc
: Nước phục vụ công cộng (m
3
/ngày)
Q
cn
: Nước cho sản xuất công nghiệp (m
3
/ngày)
Q
dl-dv
: Nước cho du lịch – dịch vụ (m
3
/ngày)
Q
tt
: Nước thất thoát (m
3
/ngày)
Q
nm
: Nước cho yêu cầu riêng của nhà máy xử lý nước (m
3
/ngày)
Trong đó, theo tiêu chuẩn trên, Q

sh
được tính toán dựa trên tổng số dân của
thành phố. Các nhu cầu dùng nước khác như Q
cc
,Q
dl-dv
, Q
tt
và Q
nm
lại được tính theo
Q
sh
. Chính vì vậy, việc dự báo chính xác dân số thành phố Huế đến năm 2010 và
2020 là một yếu tố rất quan trọng trong dự báo nhu cầu sử dụng nước.
4.1.1. Dự báo dân số thành phố Huế năm 2010 và 2020
Một trong những nội dung chính của quy hoạch cấp nước đô thị là xác định
nhu cầu sử dụng nước của đô thị. Nhằm phục vụ tốt hơn, tạo độ tin cậy và chính xác
18
cho việc dự báo thì một vấn đề cần phải quan tâm đến là nắm rõ tốc độ gia tăng dân
số trên địa bàn.
Theo thống kê của Cục thống kê Thừa Thiên Huế - Phòng thống kê thành phố
Huế cho biết tình hình gia tăng dân số của thành phố Huế qua các năm gần đây như
sau:
Bảng 4.1. Diễn biến gia tăng dân số thành phố Huế qua các năm
Năm 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng số dân 316.805 321.496 326.264 330.836 335.747
Thành Thị 256.241 259.678 263.087 265.575 305.052
% thành thị 80,88 80,77 80,64 80,27 90.86
Nông thôn 60.564 61.818 63.177 65.261 30.695

% nông thôn 19,12 19,23 19,36 19,73 12
Kết quả này cho thấy tổng số dân của thành phố Huế tăng đều qua các năm.
Đặc biệt trong năm 2007, có 4 phường mới thành lập được tách từ 2 xã Hương Sơ và
Thủy An nên số dân thành thị tăng lên còn số dân nông thôn giảm xuống. Điều này
chứng tỏ tốc độ đô thị hóa của thành phố khá cao. Dân số tăng đều và không có biến
động lớn là một yếu tố thuận lợi cho việc dự báo dân số dễ dàng và chính xác hơn.
Hình 4.1. Diễn biến dân số thành phố Huế qua 5 năm (2003-2007).
Trong thực tế, để dự báo dân số trong tương lai, người ta thường sử dụng các
công thức như sau:
19

×