Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN đổi mới phương pháp dạy học hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc thông qua bài giảng trên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 139 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC, TỰ ĐỌC THÔNG QUA BÀI
GIẢNG TRÊN LỚP"

1


PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

“Biết cách học là chứng tỏ bạn thông thái”
(Henrry Brooks Adams)
Vấn đề tự học của học sinh là một vấn đề quan trọng vì đó là một khâu trong quá
trình thống nhất của việc dạy học nhằm phát huy năng lực học tập tư duy của các em trên
lớp cũng như ở nhà. Vì vậy, vấn đề tự học của học sinh hiện nay hết sức cấp thiết. Vậy
xuất phát từ cơ sở nào mà vấn đề tự học hiện nay lại trở nên quan trọng và cần thiết như
vậy ?
I. Cơ sở lý luận
Trước thực trạng và tình hình thực tiễn của giáo dục Việt Nam, nhu cầu của người
học và sự bùng nổ tri thức của thế giới. Đảng ta đã xây dựng chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo giai đoạn 2001 – 2010. Trong đó vấn đề “đổi mới và hiện đại hóa phương
pháp giáo dục. Chuyển từ truyền đạt tri thức thụ động thầy giảng - trò ghi sang hướng
dẫn người đọc chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích,
tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tính tích cực
chủ động của học sinh trong quá trình học tập”. (Báo giáo dục thời đại, số 25 ngày
26/3/2002).
Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục Việt
Nam từ những năm 1960. Ở thời điểm này các trường sư phạm đã có khẩu hiệu: “Biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” Trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai


năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong những phương hướng cải cách, nhằm

2


đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Từ đó, trong nhà trường xuất
hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt của các giáo viên giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh
hoạt động, tự lực chiếm lĩnh tri thức mới. Sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, hiện đại
hóa đất nước, sự thách thức của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phài có nguồn
nhân lực, người lao động có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong
giai đoạn mới. Người lao động phải có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức của nhân loại vào điều kiện hoàn cảnh thực tế, tạo ra
những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để có nguồn nhân lực trên, yêu cầu đặt ra là
phải đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục
và phương pháp dạy và học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác
định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa (VII 1-1993), Nghị quyết trung ương 2 khóa
VIII (12-1996) và được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi ban hành ngày 27/ 6/
2005, điều 2.4, đã ghi “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả
năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
Giáo dục hiện nay luôn được quan tâm hàng đầu.Việc đổi mới phương pháp dạy
học trong nhà trường phổ thông trong đó có đổi mới phương pháp dạy học văn theo tinh
thần khoa học hiện đại đã, đang diễn ra sôi động và thu được nhiều kết quả đáng mừng.
Với yêu cầu đổi mới, phương pháp giáo dục đã đánh giá lại vai trò của học sinh, coi học
sinh là chủ thể tiếp nhận, là trung tâm của quá trình tiếp nhận và là bạn đọc sáng tạo trong
quá trình dạy học văn. Nó không chỉ đòi hỏi kiến thức mà còn cả tài năng nghệ thuật sư
phạm của người giáo viên. Thầy cô giáo giống như kiến trúc sư trước mỗi công trình
nghệ thuật. Dưới bàn tay của nhà chạm khắc, nó mang dấu ấn cảm thụ riêng hàm chứa
tầng sâu ý nghĩa.


3


Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh nhân văn, giáo dục đóng
một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng của mỗi đất
nước và tạo cơ hội học tập cho mỗi người dân. Trong xu thế dạy học ngày nay, thực hiện
dạy học theo phương pháp hiện đại người ta nghĩ ngay đến đổi mới trong nhà trường phổ
thông . Đổi mới phưong pháp dạy học là một trọng tâm của đổi mới giáo dục THPT
(trung học phổ thông). Luật Giáo dục điều 28 yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của HS, phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập
cho học sinh”. Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần
thiết trong điều kiện hiện nay. Có thể khẳng định thời gian tự học là lúc học sinh có điều
kiện tự nghiền ngẫm vấn đề học tập theo một yêu cầu, phong cách riêng và với tốc độ
thích hợp, điều đó không chỉ giúp các em nắm vấn đề một cách chắc chắn và bền vững
mà còn là dịp tốt để các em rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo. Đây là phẩm
chất mà không ai cung cấp được nếu các em không thông qua hoạt động bản thân, nó là
vấn đề cần thiết cho sự phát triển và thành đạt lâu dài của mỗi con người. Trong quá trình
dạy học phải hướng dẫn học sinh phương pháp tự học, duy trì sự hứng thú lôi cuốn các
em say mê trong học tập, tạo ra những tiết học thoải mái, có nhiều hoạt động kích thích
học sinh tư duy, thực hành, áp dụng kiến thức vào cuộc sống thông qua các câu hỏi gợi
mở, những thí nghiệm hướng cho người đọc sự tìm tòi, nghiên cứu để rút ra các kết luận.
Ngoài ra, phải động viên khen ngợi học sinhh đúng lúc, tạo mối quan hệ thân thiết với
người học, tình cảm với học sinh chia sẻ những khó khăn, vướng mắc tâm tư nguyện
vọng của học sinh, tạo cho học sinh các hoạt động vui chơi lồng nghép với trang bị kiến
thức, lắng nghe và trao đổi với học sinh. Có thể nói, hướng dẫn học sinh phương pháp tự
học cho học sinh trong giờ giảng dạy đã thu được nhiều kết quả và tạo nên sự chuyển

4



biến trong dạy học, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục, tiếp cận được xu
thế dạy học hiện đại của thế kỷ XXI.
Trong Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã chỉ rõ chúng ta phải
“Đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục, đào tạo : Đó là thực hiện đồng bộ các giải
pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống
lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ thuật thực hành, tác phong
công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội ......”
Trước hết cần quan niệm như thế nào về tự học cho đúng ?
Rubakkin trong cuốn “Tự học như thế nào” đã kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn tự tôi
đặt câu hỏi rồi tự tôi tìm lấy câu trả lời đó là phương pháp tự học”. Ông cho rằng tự học
không chỉ làm xem sách mà phải biết so sánh cái viết trong sách với thực tế cuộc sống,
biết so sánh cái khoa học với cái không khoa học, biết liên hệ giữa các môn khoa học.
Không nên sợ bất đồng với ý kiến người khác, không nghiên cứu cái chung chung mà
phải nghiên cứu vấn đề đang tranh luận, những vấn đề tất yếu của thời đại mở rộng tầm
nhìn cho bản thân. Ông còn đưa ra một nguyên tắc tự học là”. Hãy làm tất cả những gì có
thể làm được và hãy cố gắng làm sao để làm được nhiều nhất.
Từ ngàn xưa đến nay chúng ta có thể trích ra nhiều câu danh ngôn về việc tự học.
Trong đời sống văn hóa, văn học trong và ngoài nước, xưa và nay cũng có thể dẫn ra
không biết bao nhiêu tấm gương tự học của các danh nhân chính trị, nhà văn hóa hay
khoa học lớn thành nhân và thành danh phần quan trọng là nhờ tự học.
Nguyễn Kỳ cho rằng : “Tự học là tự đặt mình và tình huống học, vào vị trí của người
tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình, nhận thức vấn

5



đề, thu thập xử lý thông tin, tái hiện kiến thức cũ, xây dựng các giải pháp, giải pháp vấn
đề, xử lý tình huống, thử nghiệm các giải pháp, kết quả kiến thức mới đã tự lực mình tìm
ra, tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Chu Mạnh Nguyên cho rằng : “Tự học, tự nghiên cứu là một quá trình, trong đó
mỗi người tự suy nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và các phẩm chất của bản thân,
khai thác vận dụng những điều kiện vật chất có thể để biến một kiến thức nào đó của
người khác thành kiến thức sở hữu của mình, vận dụng một kiến thức nào đó của người
để làm cho công việc của bản thân có hiệu quả hơn”
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đã đưa ra một quan niệm về tự học có thể xem khá
hoàn chỉnh : “Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình
động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp và có khi
cả cơ bắp khi phải sử dụng công cụ) cùng với các phẩm chất của mình, rồi động cơ, tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiểu biết nào
đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng biến chúng thành sở hữu của
mình”.
Tự học có ba cấp độ:
+ Tự học không có thầy hoặc có thầy nhưng không gặp mặt thầy trong phần lớn thời
gian học tập.
+ Tự học có hướng dẫn, tức là học không giáp mặt thầy nhưng nhận được sự hướng
dẫn giúp đỡ từ xa.
+ Tự học, học mà không có thầy
Trong nhà trường phổ thông nói chung tự học là vấn đề hết sức quan trọng. Rèn
luyện năng lực tự học cho học sinh đặt lên vai người giáo viên, nhà trường, không chỉ

6


dạy cho học sinh kiến thức mà còn dạy cho các em cách tự học. Vậy tựu chung lại vấn đề
tự học xuất phát từ cơ sở lý luận nào ?
Xuất phát từ nguyên tắc dạy học nhà trường gắn liền với đời sống và nguyên tắc

chuyển quá trình dạy học sang quá trình tự học. Nguyên tắc này đòi hỏi phải hình thành
cho người học có nhu cầu, năng lực, phẩm chất tự học để chuyển dần quá trình dạy học
sang quá trình tự học. Nghĩa là người học có thể tự mình tìm ra hình thức cùng với cách
khai thác hoạt động của chính mình, tự thể hiện mình và hợp tác với bạn, tự tổ chức hoạt
động của mình, tự kiểm tra đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học của mình để biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Gắn liền với nhu cầu đòi hỏi của thời đại khi mà cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và phát triển hiện nay đã dẫn tới sự bùng nổ thông tin và làm cho tri thức ở từng
người trở nên lạc hậu nhanh chóng. “Sự bùng nổ của tri thức khoa học và công nghệ đòi
hỏi không những khoa học mà cả kỹ thuật và công nghệ phải trở thành một yếu tố không
thể thiếu trong cấu trúc nhân cách của con người hiện đại thì mới đảm bảo sự thích nghi
với xã hội và khả năng đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng”. Để thích ứng với cuộc
sống, mỗi người phải tự học liên tục, học suốt đời. Hồ Chí Minh một tấm gương sáng về
tự học đã từng nói” “Học tập là công việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho
mình biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ
cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để đuổi kịp nhân dân” ; “Lấy tự học làm cốt,
có thảo luận và chỉ đạo giúp vào”.
Xuất phát từ nhận thức của bản thân về vấn đề tự học : Tự học là con đường khắc
phục khó khăn thử thách rèn luyện, ý chí vươn lên, tạo tri thức bền vững cho mỗi người
trên con đường phát triển học vấn và phát triển nhân cách suốt đời. Tự học là biểu hiện
của trí lớn lập nghiệp. Tự học là công việc tất yếu của mỗi người và là công việc suốt cả

7


cuộc đời. Trong quá trình tự học, con người sẽ tự lớn lên cả về tri thức lẫn nhân cách, tâm
hồn và vị trí xã hội. Tự học là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, luôn được Đảng và
Nhà nước chú trọng. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới dạy học: nói phương
pháp dạy học tới thì cốt lõi là phương pháp tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa
học tập và nghiên cứu khoa học. “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của học sinh”, đó là tư

tưởng chiến lược cơ bản của Đảng, lấy nội lực, năng lực tự học làm nhân tố quyết định sự
phát triển của bản thân người học và giáo dục đào tạo, làm cho giáo dục đào tạo sớm trở
thành khâu phát huy năng lực nội sinh của dân tộc đưa đất nước tiến nhanh lên công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ nguyên tắc dạy học nêu vấn đề : Một trong những
con đường nhằm khắc phục tình trạng dạy học nhồi nhét kiến thức, phát huy trí thông
minh, năng lực độc lập trong nhận thức của học sinh là dạy học nêu vấn đề. Nhà giáo dục
Distervery người Đức đã nói : “Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lý, người thầy giáo
giỏi dạy cách tìm ra chân lý”, phương pháp dạy học nêu vấn đề chủ yếu nắm kiến thức,
song không phải chỉ để ghi nhớ thuộc lòng, mà tự sự kiện cần biết tự tạo nên tình huống
có vấn đề để giải quyết. Như vậy sẽ nhớ lâu, hiểu kĩ sự kiện hơn. Phương pháp nêu vấn
đề sẽ gây hứng thú học tập, phát huy tích cực tư duy học sinh và tạo cho học sinh biết tư
duy, suy nghĩ.
Theo M.I. Macmutop: “Dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề đó là trở ngại về
trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng, sự kiện,
quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen
thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới,
tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo có hiệu quả”. “Nhiệm
vụ của người thầy giáo không phải là truyền đạt kiến mà dạy cho học sinh biết suy nghĩ”.

8


II. Cơ sở thực tiễn
Nhìn rộng ra thế giới chúng ta cũng thấy rằng: Không phải ngẫu nhiên Singapore chỉ
có khoảng 2 triệu dân mà dám chi ra hàng tỷ đô la cho việc cải cách giáo dục ở nhà
trường phổ thông. Cũng không phải tùy hứng mà Pie Lena, giáo sư vật lý thiên văn, viện
sĩ Viện hàn lâm Khoa học Pháp được Giải thưởng Noben năm 1992 đã đề xướng phong
trào “bàn tay nặn bột” nhằm phát triển tư duy sáng tạo ngay từ bậc tiểu học.
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường để xóa bỏ phương pháp dạy học
giáo điều là một đòi hỏi cấp bách nhằm giải phòng và phát huy tiềm năng sáng tạo cho

người học ngay từ trên ghế nhà trường. Thế kỷ XXI là thế kỷ của chất xám, của trí tuệ,
của nền văn minh hậu công nghiệp. Con người muốn tồn tại, muốn hòa nhập, muốn tự
khẳng định mình thì nhất định phải là những thành viên năng động sáng tạo.
Vấn đề tự học từ xưa tới nay đều hết sức được đề cao. Lê nin nói “Học, học nữa, học
mãi”. Hồ Chí Minh cũng đề cao : “Lấy tự học làm cốt”. Einstein nói “Kiến thức chỉ có
được qua tư duy của con người”. Một nhà khoa học Pháp cũng nói: “Văn hóa không nhận
được từ bên ngoài mà là kết quả của việc làm từ bên trong, một việc làm của mình với
mình”...
Đánh giá một cách khách quan cho thấy rằng với phương pháp đổi mới dạy học hiện
nay, học sinh đã tiếp cận có hiệu quả việc tự học, đổi mới trong tư duy để phát huy tính
độc lập, sáng tạo và chủ động của mình. Rất nhiều em đã hình thành cho mình thói quen
tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi và nắm vững kiến thức một cách chính xác, suy nghĩ và vận
dụng một cách thành tạo. Không thể phủ nhận rằng rất nhiều giờ học mà học sinh hăng
hái phát biểu xây dựng bài, thể hiện hiểu biết của các em. Giáo viên chỉ cần nêu vấn đề
và học sinh qua quá trình tìm hiểu sẽ tự trả lời. Nhìn ra thế giới nền giáo dục của một số
nước như: Mĩ, Anh, Pháp, Phần Lan, Đan Mạch...nằm ở tốp đầu trong bảng xếp hạng các

9


nền giáo dục thế giới và hãy nhìn cách học của họ. Phần lớn là học sinh tự học, thời gian
lên lớp không nhiều. Cách học như vậy phát huy được khả năng tự học, tự nghiên cứu
của học sinh, sinh viên rất lớn.
Tuy nhiên, về phía giáo viên vẫn còn tồn tại một số quan niệm, biện pháp có ảnh
hưởng không tốt đến việc giáo dưỡng, giáo dục học sinh như: giới hạn hoạt động nhận
thức của học sinh ở việc ghi nhớ một số điểm cơ bản, tóm tắt rất sơ lược nội dung sách
giáo khoa, giới thiệu một số sự kiện chung chung mà không cụ thể về sự kiện ... Hậu quả
của những việc làm này làm nghèo nội dung, hạ thấp chất lượng và hứng thú của học
sinh.
Về phía học sinh : Học sinh đã có sự chuẩn bị là đọc sách giáo khoa nhưng vẫn thụ

động, chỉ biết thuộc lòng không biết cách đặt vấn đề, tìm hiểu sâu hơn những kiến thức
trong sách giáo khoa.
Học sinh ngồi nghe giảng bài mà không biết tiến hành những hoạt động tư duy độc
lập trong việc lựa chọn những điều nghe được để ghi chép, nảy sinh những vấn đề mới
cần giải quyết hay có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn những điều giáo viên trình bày.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài về vấn đề việc tự học hiện nay là hết sức cần thiết. Tự học
trong quá trình học tập của học sinh là việc các em độc lập hoàn thành những nhiệm vụ
được giao, với sự giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra của giáo viên. Việc tự học như vậy bao
gồm cả việc tập dượt nghiên cứu (tìm tòi, nghiên cứu từng phần). Nó gây hứng thú học
tập, sự cố gắng của học sinh (nhất là học sinh cuối cấp) và đóng góp phần nào với xã hội
(chủ yếu là công tác xã hội). Việc tự học của học sinh diễn ra dưới nhiều hình thức khác
nhau :
- Những hoạt động tự nhận thức khi nghe giảng trên lớp (biết tự điều chỉnh để nghe
giảng, chọn lọc kiến thức để ghi chép, tự trả lời câu hỏi của giáo viên nêu ra...)

10


- Tự học sách giáo khoa theo các bước:
+ Đọc và tự ghi tóm tắt những vấn đề cơ bản của bài viết
+ Ghi lại những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm
+ Hoàn thành bài tập, câu hỏi sách giáo khoa
+ Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh ngoài sách giáo khoa
+ Tự đọc thêm các tài liệu, văn học trong các sách tư liệu tham khảo, sách đọc
thêm...nhằm hiểu rõ hơn kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết.
+ Tự ôn tập dưới sự hướng dẫn của thầy.
Như thế chuyện tự học của học sinh không phải là vấn đề mới lạ. Có lạ chăng là sự
khôn ngoan đã từng giúp ích cho con người khôn lớn nhưng nhiều khi chính con người
lại bỏ quên những kinh nghiệm quý giá đó, biến nó thành thứ kho báu chìm lãng trong
lớp bụi thời gian.

Không ai thành đạt mà không có chí lớn. Chí làm chính trị cứu nước cứu dân, chí
làm khoa học, làm kinh tế... Muốn nâng cao học vấn thì ngoài việc học tập tại các trường
học phải thường xuyên tự học. Tự học là biểu hiện của chí lớn lập nghiệp của mỗi con
người trên con đường hòa nhập vào cộng đồng. Chúng ta còn nhớ cảnh tự học ngoại ngữ
của Bác Hồ hồi còn trẻ, những ngày Người phải lênh đênh kiếm sống trên tàu nơi biển cả
hay trong những này xúc tuyết ở Luân Đôn.
III. Mục đích nghiên cứu
- Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn.

11


- Rèn luyện cho HS tính tự lực, sáng tạo, ham học hỏi, tìm tòi khám phá tự nhiên,
học sinh có niềm tin vào bản thân,
- Đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh,
* Với giáo viên : Trong quá trình dạy học, người thầy đóng vai trò chủ đạo trong
việc tổ chức, điều khiển, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người
dạy và người học, khuyến khích sự tham gia chủ động, sáng tạo và ngày càng độc lập của
học sinh vào quá trình học tập.
* Với học sinh : Giúp các em học sinh trong mỗi giờ dạy sẽ có sự hứng thú khi học,
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Lĩnh hội những tri thức của loài người đồng thời tìm kiếm, khám phá ra những hiểu biết
mới cho bản thân. Qua đó sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì nắm được qua hoạt động chủ
động, nỗ lực của chính mình
IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Các tổ bộ môn trong Trường THPT Trưng Vương.
Thời gian nghiên cứu 2 năm: Năm học 2012-2013 và 2013 - 2014

12



PHẦN II : NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Sau đây chúng tôi trình bầy những nội dung nghiên cứu của các tổ chuyên môn về các
nội dung yêu cầu của đề tài.
CHƯƠNG I
Các hình thức tổ chức dạy học nhằm hình thành năng lực tự học cho học sinh (Thực
nghiệm ở Tổ Văn)
1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà
1.1. Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong sách giáo
khoa
Sách giáo khoa là sự cụ thể hóa chương trình, là nguồn tri thức thống nhất và là chỗ
dựa cơ bản cho giáo viên khi dạy học. Ở nước ta sách giáo khoa có vai trò vô cùng quan
trọng. Điều 25 của Luật Giáo dục đã khẳng địnhh: “Sách giáo khoa để sử dụng chính
thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác”. Đã từ lâu, các nhà nghiên cứu lí luận dạy học đã khẳng định vai trò quan trọng của
Sách giáo khoa trong quá trình học tập của học sinh. Sách giáo khoa là nguồn cung cấp
tri thức đúng đắn, khoa học và thống nhất trong nền giáo dục quốc dân. Tri thức được
đưa vào Sách giáo khoa có tính tinh giản, cô đọng, súc tích phong phú. Để giúp học sinh
có phương pháp tự học tự nghiên cứu giáo viên cần có những định hướng cho học sinh
trong các hoạt động tiếp xúc với Sách giáo khoa, tập trung cho các em biết gia công tìm
tòi, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức. Đối với học sinh, việc soạn bài ở nhà yêu
cầu không thể thiếu là phải đọc văn bản nhưng cốt yếu giáo viên hướng dẫn HS khi đọc
phải thực hiện các công việc sau:
- Đọc âm vang và cả đọc thầm để tưởng tượng
- Đọc và ghi lại những cảm nhận, những ấn tượng ban đầu về tác phẩm

13



- Đọc để tìm nội dung chính, xác định những kiến thức cơ bản trọng tâm.
Chuẩn bị bài là một yêu cầu bắt buôc đối với học sinh khi hoạt động dạy học Ngữ
văn tiến hành theo tư tưởng đổi mới : học sinh là tích cực chủ thể trong giờ họcHướng
dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất vẫn là yêu cầu các em trả lời câu
hỏi ở phần Hướng dẫn học bài, hướng các em vào những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm
điều này rất có ích trong việc đọc văn bản trên lớp Muốn làm được điều này giáo viên
phải có đầu tư suy nghĩ trước một bước.
Và như vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại hiệu quả cao
hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Hai đứa trẻ (Thạch Lam) giáo viên yêu cầu các em chú ý
và trả lời kỹ những vấn đề sau: Anh (chị) có ấn tượng sâu sắc với nhân vật nào,vơí chi
tiết nghệ thuật nào trong truyện Hai đứa trẻ? Vì sao?
Như vậy việc Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là việc làm
vô cùng quan trọng, bởi đây là bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho việc đọc tác phẩm trên
lớp, giúp giờ học sôi nổi và đạt hiệu quả cao hơn
1.2 Hướng dẫn học sinh lập graph, lập dàn ý khái quát cho bài học
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những dàn ý
theo suy nghĩ của mình. Ghi chép tóm tắt những gì và như thế nào là phụ thuộc vào hiểu
biết và kinh nghiệm của từng người. Có nhiều cách ghi tóm tắt, sau đây là một số cách
ghi mà học sinh có thể dùng trong khi học môn Ngữ văn:
-Trình bày dưới dạng dàn bài
Ví dụ:
I/…………..
1)………….

14


2)…………..
II /………….
1)………….

2)………….
-Trình bày dưới dạng bảng biểu
Ví dụ :

Tác phẩm

Nội dung

Nghệ thuật

-Trình bày dưới dạng sơ đồ:
Ví dụ: Bài Trích đoạn Chí khí anh hùng-Truyện Kiều của Nguyễn Du

15


Nhân vật Từ Hải

Ngôn ngữ tác giả

Khát vọng lớn lao

Thủ pháp ước lệ

Tầm vóc vũ trụ

Ngôn ngữ nhân vật

Phẩm chất phi thường


H×nh t­îng ng­êi anh hïng

1.3 Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh
Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước đến nay là giáo viên
dặn dò học sinh về nhà học bài và chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. Vì vậy, tổ chức
phân công vấn đề cho học sinh chuẩn bị trước là bước đệm rất quan trọng cho bài học
mới đạt kết quả. Để làm việc này có chất lượng giáo viên phải thực hiện những bước sau:
- Giáo viên chuẩn bị trước các vấn đề
- Chia nhóm
- Phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm
- Thời gian: giáo viên dành khoảng 5 phút cuối mỗi giờ học để làm việc này.

16


Chẳng hạn khi dạy bài Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ngoài việc HS chuẩn bị
bài theo phần hướng dẫn trong sách giáo khoa, GV có thể chuẩn bị trước các vấn đề sau
giao cho HS và yêu cầu mỗi nhóm phải chuẩn bị kĩ phần việc của nhóm mình
- Phong cách tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân qua truyện ngắn Chữ người tử tù?
- Thông qua việc phân tích nhân vật Quản ngục trong Chữ người tử tù hãy làm rõ
quan điểm về cái Đẹp và thái độ đề cao “thiên lương”của Nguyễn Tuân
- Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ
trong nhà giam
GVchia làm 3 nhóm mỗi nhóm đều có nhóm trưởng, nhóm phó để đôn đốc các
thành viên và chịu trách nhiệm chung cho cả nhóm của mình. Nếu công việc này GV làm
một cách đều đặn và tâm huyết thì khả năng tự học tự nghiên cứu của HS sẽ được nâng
cao. Đây cũng là một trong những hình thức tốt để nâng cao chất lượng dạy học tác
phẩm văn chương ở trường phổ thông. Bởi bất cứ một công việc gì khi đã có sự hợp tác
chuẩn bị kĩ lưỡng từ hai phía thì chắc chắn sẽ hiệu quả tốt hơn. Ưu điểm của cách làm
này là tiết kiệm thời gian khi lên lớp, phát huy được cách học hợp tác, vấn đề trọng tâm

của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn. Quan trọng khi thực hiện điều này, GV
phải nắm sát đối tượng để khuyến khích, động viên một cách kịp thời, chân thành kể cả
học sinh làm tốt và học sinh chưa làm tốt
1.4 Hướng dẫn, phân công học sinh sưu tầm và khai thác nguồn tài liệu học tập
khác.
Ngoài Sách giáo khoa, tài liệu học tập cho môn Ngữ văn vô cùng phong phú. Đây
là phương tiện rất cần thiết đối với người học văn, ngoài các loại sách tham khảo như :
Học tốt Ngữ văn, Các bài văn hay lớp 10,11,12 HS còn có thể tìm thấy những tài liệu về
văn học trên các tờ báo, tạp chí văn học, trên mạng Internet… Các tài liệu này là nguồn

17


tri thức bổ sung vô cùng quan trọng đối với người học. Tìm các tài liệu liên quan đến bài
học một mặt giúp HS tìm hiểu và giải quyết các vấn đề trong quá trình soạn bài, mặt khác
nó góp phần rèn luyện, trau dồi và năng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu ở các em. Dưới
đây, chúng tôi xin nêu ra một số cách để giúp HS tìm và sử dụng tài liệu vào việc chuẩn
bị bài cho giờ đọc văn
- Giới thiệu cụ thể tên sách tham khảo, các bài viết, các tài liệu có liên quan trực tiếp
đến bài học. Hướng dẫn học sinh tìm sách, tài liệu tham khảo ở những địa chỉ: thư viện
trường, nhà sách trên địa bàn, ở thầy cô giáo…..
- Cung cấp cho HS một số địa chỉ (trang Web) trên mạng Internet. Với Internet, HS có
thể khai mở kho thông tin khổng lồ và phong phú nhất trong lịch sử nhân loại ở nhiều
lịnh vực khác nhau của đời sống. Chẳng hạn chỉ cần vào một số trang Web như:
www.vietnamwebsite.net / ebook /vanhocvietnam
www/thưquan.net;
www.thovn.vn...
Là học sinh đã có thể tìm kiếm những thông tin văn học mình cần sử dụng chúng vào
việc học tập.
- Hướng dẫn học sinh xử lí tài liệu bằng cách đọc kĩ, tóm tắt ý chính, tách nội dung liên

quan để minh họa cho bài học. Ví dụ khi đọc Ca dao than thân, yêu thương, tình nghĩa
giáo viên có thể hướng dẫn HS tìm một số bài ca dao khác để thấy được vẻ đẹp tình nghĩa
của nhân dân ta trong ca dao
Tóm lại, để giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn trong nhà trường THPT người giáo
viên phải hướng dẫn, và quan trọng hơn là xây dựng ở các em ý thức, thói quen đi tìm tài
liệu liên quan đến bài học. Điều này rất quan trọng đối với việc bổ trợ thêm kiến thức,

18


bồi dưỡng niềm say mê đọc sách, rèn luyện tác phong làm việc nghiêm túc khoa học cho
học sinh khi đứng trước một vấn đề cần giải quyết.
2. Tổ chức cho học sinh học tập trên lớp
2.1. Nêu vấn đề của bài học
Mở đầu bài học, giáo viên khuyến khích, động viên, tạo động lực học tập, sao cho học
sinh học tập với tinh thần tích cực, tự giác và hứng thú nhất. Bởi chỉ có như vậy giờ học
mới đạt hiệu quả cao. Muốn thực hiện điều này, GV phải biết sử dụng những thủ thuật
sau:
Tạo ra tình huống có vấn đề, trong đó có những mâu thuẫn về nhận thức mà HS hứng
thú, thỏa mãn nhu cầu và phù hợp với năng lực của họ. Để tạo ra một tình huống như thế
đòi hỏi giáo viên phải có tri thức, kinh nghiệm, có sự nhạy cảm cần thiết, nắm được nhu
cầu nguyện vọng của HS; có tinh thần trách nhiệm và sự dày công trong khâu chuẩn bị
bài
Nêu lên mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà các em phải có trách nhiệm hoàn thành qua
giờ học. Làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng về mặt khoa học và xã hội của hệ thống tri thức
mà các em cần nắm vững trong bài học.
2.2. Tổ chức cho học sinh giải quyết tốt các vấn đề của bài học
Giáo viên căn cứ vào bài học, tiết học, lớp học cụ thể để đưa ra những cách thức, biện
pháp tổ chức hoạt động phù hợp để học sinh chiếm lĩnh bài học một cách hiệu quả nhất.
Tuy nhiên cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Phối hợp chặt chẽ hoạt động của thầy và của trò
Hoạt động của thầy

Hoạt động của trò

19


- Tạo tình huống để HS rõ vấn đề,
thấy mâu thuẫn cần giải quyết

-Nghe, tiếp thu, chuyển mâu thuẫn
bên ngoài thành mâu thuẫn bên
trong, có nhu cầu giải quyết mâu
thuẫn

- Giao nhiệm vụ học tập(đặt câu hỏi,
ra bài tập…)

- Tiếp nhận nhiệm vụ qua câu hỏi,
bài tập…

- Hướng dẫn HS hoạt động( đọc giáo

- Đọc giáo trình, tái hiện , suy

trình, nghiên cứu tài liệu, tổ chức thảo nghĩ, sáng tạo, trả lời câu hỏi, thảo
luận

luận….


- Theo dõi sự tự học của các em, tổ

- Phát huy tính tích cực, sự nỗ lực

chức nhóm thảo luận, đặt câu hỏi bổ sáng tạo, trao đổi bạn bè để thảo
sung khi cần thiết

luận giải quyết nhiệm vụ học tập.

- Giải đáp câu hỏi

- Nêu câu hỏi

- Phân tích, bổ sung, khẳng định những

- Sửa chữa, hoàn thiện, hệ thống

điểm đúng, uốn nắn những sai lầm, thiếu hóa tri thức, kĩ năng
sót

- Phối hợp hiệu quả các phương pháp dạy học
Phương pháp

Nội dung hoạt động

1. Diễn giảng nêu vấn đề

- Tạo ra tình huống có vấn đề.
- Thầy trò cùng giải quyết các vấn đề

qua các thủ thuật như: đặt câu hỏi;
thuyết trình; nêu vấn đề để các em trao

20


đổi tìm cách giải quyết.
2.Tự đọc

- HS đọc giáo trình, tài liệu.
- Viết tóm tắt, lập sơ đồ, bảng biểu.

3. Thảo luận nhóm

- HS được chia thành nhiều nhóm để
thảo luận một vấn đề do GV nêu lên.
- Đại diện các nhóm trình bày trước
lớp
- Gv định hướng, tổng kết.

4. Phương pháp trực quan

- Xem băng hình.
- Thảo luận.
- GV định hướng, tổng kết.

5. Làm bài tập, thực hành

- Làm bài tập, thực hành
- Thảo luận, kết luận.


6. Tổ chức cho HS thuyết trình,
báo cáo

- HS báo cáo một vấn đề đã được
chuẩn bị trước
- Cả lớp nghe, trao đổi, thảo luận
- GV định hướng, tổng kết

2.3. Hướng dẫn học sinh hệ thống hóa kiến thức bài học
Hệ thống hóa kiến thức bài học là một việc làm vô cùng quan trọng không thể bỏ
qua trong quá trình dạy học. Vì vậy GV phải rèn luyện cho HS có kĩ năng này để đảm

21


bảo tính hiệu quả của giờ dạy. Tuy nhiên khi hệ thống hóa kiến thức Gv cần lưu ý HS
phải làm theo ý riêng của mình, nghĩ là mỗi học sinh hệ thống theo một kiểu mà các em
thấy phù hợp với bản thân khi học. Nhưng yêu cầu phải ngắn gọn sao cho dễ học và phải
đảm bảo kiến thức trọng tâm
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh hệ thống hóa bài “ Lời tiễn dặn” (trích “Tiễn dặn người
yêu” dưới dạng dàn bài. GV yêu cầu HS khi hệ thống phải thể hiện được những vấn đề
sau:
Về nội dung
1 Tâm trạng của chàng trai ( và gián tiếp là tâm trạng của cô gái qua sự mô tả của chàng
trai trên đường tiễn dặn)
-Tâm trạng mâu thuẫn nủa như muốn chấp nhận sự thật đau xót là cô gái đã có chồng,
nủa như muốn níu kéo tình yêu, kéo dài giây phút bên nhau.
- Lòng quyết tâm giữu trọn tình yêu giữa chàng trai và cô gái
2. Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái.

- Cử chỉ:
+ Vỗ về, an ủi lúc cô gái bị nhà chồng đánh đập, hắt hủi.
+ Làm thuốc cho cô gái uống.
- Tâm trạng:
+ Nỗi xót xa, niềm thương cảm mà chàng trai dành cho cô gái.
+ Ý chí mạnh liệt của chàng trai nhất quyết giành lại tình yêu để đoàn tụ cùng cô gái.
Về nghệ thuật

22


- Kết hợp nghệ thuật trữ tình ( mô tả cảm xúc, tâm trạng) với nghệ thuật tự sự (kể sự
việc, hành động).
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc: ẩn dụ, so sánh tương đồng, điệp từ, điệp ngữ…
2.4 Hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả của mình
Tự đánh giá kết quả học tập của mình sau mỗi buổi học là việc làm vô cùng cần thiết
đối với bản thân mỗi học sinh. Thông qua hoạt động này các em sẽ tự nhận biết được khả
năng của mình: thấy được điểm mạnh, điểm hạn chế để phát huy và khắc phục. Cũng tự
việc làm này mà HS sẽ tự lớn lên trên con đường học tập của mình. Các em sẽ tự biết
được năng lực của mình đạt đến đâu so với mục tiêu bài học đặt ra ở cả ba phương diện:
kiến thức, kĩ năng, thái độ.. Ở đây, các em sẽ có một lượng thời gian nhất định để so
sánh, đối chiếu giữa cái mình đã hệ thống qua tiết học ở lớp và bài soạn của chính mình ở
nhà. Với việc làm này, học sinh sẽ có cái nhìn sâu sắc và khách quan hơn về tác phẩm,
đồng thời cũng tự mình rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân khi đứng trước công
việc tìm hiểu và khám phá một tác phẩm văn học.
II - ÁP DỤNG MỘT GIÁO ÁN CỤ THỂ
Yêu cầu chuẩn bị
a. Đối với giáo viên
Quá trình chuẩn bị bài giảng của giáo viên bao gồm hai việc chính : tìm hiểu tác
phẩm và soạn giáo án.

● Tìm hiểu tác phẩm
Bao gồm các việc sau:
- Tìm hiểu những tư liệu lịch sử - xã hội liên quan đến thế giới quan sáng tác của tác
giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.

23


- Tìm đọc những bài viết của những nhà nghiên cứu, phê bình... có liên quan đến tác
giả và tác phẩm.
- Tìm hiểu những văn bản cùng thể hiện nội dung cần đề cập của chính tác giả và của
các nhà văn khác.
Soạn giáo án
Nói chung, giáo án phải thể hiện một cách cụ thể quan điểm dạy học, phương pháp
lên lớp, cấu tạo giờ dạy, nội dung kiến thức cần truyền đạt, các hình thức luyện tập...
Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay, một giáo án tuy có
nhiệm vụ chủ yếu là thể hiện sự vận dụng phương pháp đối thoại trong dạy học một
tác phẩm cụ thể nhưng giáo án đó vẫn phải có sự kết hợp hữu cơ, sự vận dụng nhuần
nhuyễn, hài hoà các phương pháp, biện pháp dạy học truyền thống một cách hợp lí để
từ đó dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá, hình thành, củng cố các đơn vị kiến thức
của bài học một cách sinh động, linh hoạt.
b. Đối với học sinh
Chủ thể học sinh chiếm một vai trò quan trọng trong tiến trình dạy học, cho dù sự
chuẩn bị của giáo viên có công phu đến đâu mà học sinh không chuẩn bị thì ý tưởng
của giáo viên (mục đích, yêu cầu đặt ra trong bài) khó thành hiện thực. Do vậy, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà cho tiết học sắp tới thông qua câu
hỏi gợi ý của giáo viên và một số câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa.
Đây là bước đầu tiên giúp học sinh thâm nhập tác phẩm, chuẩn bị tham gia phân tích và
tiếp thu bài giảng trên lớp. Trong quá trình chuẩn bị bài, học sinh phải đọc tác phẩm
một cách nghiêm túc, tìm hiểu và nắm một số từ ngữ, câu văn cần thiết, trả lời các câu

hỏi trong sách giáo khoa; đặc biệt là các câu hỏi hướng đến việc xây dựng những nội
dung đối thoại do giáo viên yêu cầu.

24


Qua sự chuẩn bị này, học sinh sẽ nắm được một phần nội dung của tác phẩm, làm
cơ sở để tham gia đối thoại về tác phẩm trên lớp dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên.
Tiết 52+53 Đọc văn
CHÍ PHÈO
(Nam Cao)
A. Mục tiêu bài học : Giúp học sinh
1. Về kiến thức
- Hiểu được hình tượng nhân vật Chí Phèo (những biến đổi về nhân hình, nhân tính sau
khi ở tù; nhất là tâm trạng và hành động của Chí sau khi gặp thị Nở cho đến lúc tự sát).
- Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm;
- Những nét đặc sắc trong nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao như điển hình hóa nhân vật,
miêu tả tâm lí, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ nghệ thuật...
2. Về kĩ năng
- Rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
3. Về thái độ
- Phê phán xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với đầy rẫy những bất công,
tàn bạo.
- Bồi dưỡng tinh thần nhân đạo, biết yêu thương và trân trọng nhân vật Chí Phèo nói riêng
và người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ nói chung.

25



×