Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một vài kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng an ninh cho học sinh trường THPT hoằng hóa 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.81 KB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"MỘT VÀI KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH CHO HỌC SINH
TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 2"

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ có tri thức, đạo đức, bản lĩnh sống để hòa nhập
vào thời đại CNH – HĐH. Hiểu biết sâu sắc về quê hương đất nước và có trách nhiệm
bảo vệ quê hương đất nước cả phần đất liền cũng như biển đảo.
Khi nói về giáo dục, Đảng ta khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Trong phần kinh phí chi chung thì giáo dục được ưu
tiên hàng đầu. Các trường THPT là cái nôi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa
“chuyên”, đào tạo cả Đức – Trí – Thể - Mỹ. Trang bị cho học sinh đầy đủ hành trang trí
tuệ để học sinh bước vào đời, trở thành công dân có ích cho quê hương, đất nước.
Giáo dục quốc phòng – an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, nhằm
thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới XHCN có sự
phát triển toàn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về
đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực
lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo
con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng
yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân
sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong
những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con


người mới XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ
Tổ quốc, góp phần nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương đất nước.
Tuy nhiên, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh, công việc giảng dạy
phải gắn liền với nghiên cứu. Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến
thức, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những giải pháp, biện
pháp thích hợp để truyền đạt tri thức tới người học.
2. Cơ sở thực tiễn:
Qua nhiều năm giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – an ninh theo phương pháp mới,
bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải chuyển tải nhiều kiến thức.

2


Đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực hành, phải hợp lý khoa học
mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy. Ví dụ: Bài số 4 – lớp 11 “ Giới thiệu
súng tiểu liên AK và súng trường CKC” Thời lượng theo PPCT 5 tiết (1LT; 4 TH). Hoặc
bài số 5 tương ứng tỷ lệ 7 tiết ( 1LT; 6 TH ). Nếu người dạy không sử phương pháp tổng
quát, phương pháp phân nhóm hay phương pháp góc học tập thì sẽ khó khăn đến việc giải
quyết và truyền tải một lượng kiến thức bài học tới người học. Bên cạnh đó việc sử dụng
CNTT là điều rất cần thiết soạn giảng trên Máy chiếu, giúp người dạy hoàn thành được
50% công việc. Mặt khác, không để học sinh học phần lí thuyết cũng như thực hành một
cách thờ ơ, xem thường và cũng tránh sự nhàm chán trong tập luyện đó là yếu tố chủ
quan, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng phát huy tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
Đối với giáo viên Giáo dục quốc phòng-an ninh , công việc giảng dạy phải gắn liền với
nghiên cứu và tự nghiên cứu, học hỏi, nghe các thông tin, thời sự.... Đây là con đường
ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần
tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức tới người học. Cần lưu ý
rằng, để phục vụ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy, hướng nghiên cứu của
các giáo viên giáo dục quốc phòng-an ninh nên tập trung trực tiếp vào nội dung kiến thức

môn học hay những yếu tố tham gia vào quá trình dạy và học như: Đổi mới phương pháp
giảng dạy, đổi mới nội dung chương trình học tập...
Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra, đánh giá:
Giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hoá hơn nữa quá
trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học sinh phải tham khảo tài liệu,
chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức. Đồng thời, cần
cải tiến phương pháp học tập của học sinh, bởi hoạt động của giáo viên trên lớp đã bao
hàm hoạt động của học sinh; cũng như vậy, hoạt động học của học sinh luôn chứa đựng
vai trò giảng dạy của giáo viên. Để dự báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh và
khích lệ bằng điểm thưởng cho những học sinh có tinh thần nghiên cứu bài học, điều đó
phụ thuộc vào khả năng giảng dạy, điều khiển của giáo viên. Qua đó điều chỉnh, cải tiến
phương pháp học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của thầy. Có như vậy, chúng
ta mới thực sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Vậy tôi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một vài kinh nghiệm và giải pháp
nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh trường THPT
Hoằng Hóa 2.”. Riêng bản thân tôi, khả năng và năng lực chiều sâu còn hạn chế, đòi hỏi
cần phải nỗ lực hơn nhiều.
Một lần nữa, với lí do trên nên tôi chọn đề tài này, nhưng trong quá trình nghiên cứu, viết
đề tài, tất sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, bởi đây là một đề tài rất mới mẻ đối với
bản thân. Rất mong bạn bè, đồng nghiệp… góp ý, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài
3


sáng kiến và kinh nghiệm năm học 2012-2013 và nếu thành công, đó sẽ là cơ sở để tôi có
cơ hội tiếp tục nghiên cứu ở những chương , bài rộng hơn nữa.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự lãnh
đạo của đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ thị số 417/CT-TTg
ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác

GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị định 116/2007-NĐ-CP về GDQPAN cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm
vụ GDQP-AN trong các trường THPT.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách
và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban
hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục Đào tạo cũng đã nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của
từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Năm học 2012-2013 Trường THPT Hoằng Hóa 2 tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện
cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho học sinh ngồi
nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày
07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo chất lượng giáo dục ổn định và
phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học Trường THPT Hoằng Hóa 2 đã chỉ đạo làm
tốt công tác tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các bậc Phụ huynh
hiểu rỏ mục đích, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới phương pháp
giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến khích tự học phải vận
dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy

4


sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần phải đào tạo khả năng tự học cho học

sinh.
Nói đến giáo dục quốc phòng – an ninh. Trường THPT Hoằng Hóa 2 là một trong những
đơn vị trong huyện có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân bãi đáp
ứng số lượng tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh cho gần 1500 học sinh. Tiết học
giáo dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các em học sinh những tri
thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND
Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh
dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất
bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh còn được
làm quen với tác phong quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận
động cơ bản trong chiến đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến
đấu như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ...
Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước
- tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của
kẻ thù.Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo chương trình
hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân phối chương trình.
Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học sinh tham gia học đầy đủ tích cực
sôi nổi và hào hứng.
Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính khóa, là bộ
môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên không thể đơn
giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và phải được quán triệt
trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy
mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng hiện tại và tương lai.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
2.1 Thuận lợi :
- So với khu vực, trường Trung học phổ thông Hoằng Hóa 2 là một trường có bề dày về
kết quả đào tạo học sinh và là trường đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia trong những năm
tới, nên vấn đề chuyên môn giảng dạy luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát.
Trường có một đội ngũ sư phạm hùng hậu đều đạt chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có
chuyên môn vững, nhiệt tình, tận tụy với công tác quản lý và giảng dạy.

- Hội đồng sư phạm nhà trường về tuổi đời công tác được dàn trải qua nhiều thế hệ, và
luôn có sự đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau.

5


- Đối với môn Giáo dục quốc phòng – An ninh. Nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn
quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh
đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với môn học.
- Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học Giáo dục
quốc phòng – an ninh tương đối đầy đủ.
- Nền nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp, từng khâu
nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt.
2.2. Khó khăn :
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên được đào tạo
từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh, tuy được đào
qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, cấp
giấy chứng nhận đã học qua lớp Đào tạo ngắn hạn và được bồi dưỡng qua các chuyên đề
thường xuyên hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian được
lĩnh hội về chuyên môn còn hạn chế nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy.
- Đối với học sinh: Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do
yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ phía không ít
phụ huynh phân luồng theo khối A, B. Nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác
định nhiệm vụ học tập đối với bộ môn này. Đối với một phận nhỏ học sinh còn ngộ nhận
và coi đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh
chưa cao. Dẫn đến tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa về môn giáo
dục quốc phòng – an ninh, còn mang tính đối phó nên làm cho việc giảng dạy theo
phương pháp mới còn bị hạn chế nhất định.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở Giáo dục –
Đào tạo cấp và một số tự trang bị: Khu vực huấn luyện thực hành đã nâng cấp nhưng

chưa được đảm bảo. Đặc biệt là thiếu phòng máy chiếu. Để đạt được kết quả tốt qua nội
dung ngắm bắn giáo viên đã gặp khó khăn thực sự, nếu chỉ trang bị cho các em học sinh
về lý thuyết bắn, tư thế bắn, các yếu lĩnh của động tác bắn với thời lượng 1 tiết học lý
thuyết thì hiệu quả thực sự chưa cao trong khi luyện tập,
2.3 CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2.3.1. Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
2.3.1.1. Tuyển chọn VĐV thi đấu Hội thao GDQP-AN cấp tỉnh:
Biện pháp thực hiện:

6


Về thời gian hội thao cấp Tỉnh thực hiện 1 năm/1lần, cấp trường tổ chức hằng năm theo
hướng dẫn và kế hoạch Hội thao năm học về GDQP-AN, thì Tổ trưởng chuyên môn bắt
đầu lập kế hoạch, phân công giáo viên chịu trách nhiệm môn thi:
Môn điều lệnh quan trọng nhất là chọn cho được một học sinh làm chỉ huy phải có dáng
dấp quân đội, tiếng hô to, rỏ, mạnh dạn và dứt khoát, tốt nhất là chọn học sinh có giọng
phổ thông, tránh giọng địa phương. Sau đó phân công trực tiếp cho em làm Tiểu đội
trưởng của một tiểu đội trong lớp, giáo viên nào hướng dẫn lớp đó sẽ bồi dưỡng trực tiếp
cho em đó. Song song thì các giáo viên còn lại cũng tự tìm kiếm một tiểu đội trưởng và
huấn luyện cho em đó, rồi cuối cùng chọn ra một tiểu đội trưởng tham gia Hội thao.
Tính Hiệu quả qua thực tế: Qua thực nghiệm năm học năm học 2010 – 2011. Học sinh:
Lê Quang Mai Lê Đạt giải 3 cá nhân Tiểu đội trưởng. Năm học 2011 – 2012. HS: Lê Thị
Út - giải nhất cá nhân Tiểu đội trưởng, Đạt cờ giải ba môn đọi ngũ.
Các môn còn lại sẽ chọn theo thành tích đạt được trong hội thao, số lượng chọn thì gấp
đôi để sau khi tập luyện sẽ chọn VĐV chính thức được hoàn hảo hơn. Sau đó sẽ biên chế
về các lớp, rồi giáo viên được phân công sẽ có kế hoạch tập luyện ở những giờ ngoại
khóa (theo quy định kế hoạch tập luyện hội thao cấp tỉnh).
2.3.1.2. Tuyển chọn học sinh thi các môn thực hành:
Biện pháp thực hiện:

Thực hiện công văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ giáo dục quốc phòng-an ninh năm học.
Căn cứ hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục quốc phòng trong năm học của Sở
GD&ĐT Thanh Hóa.
Căn cứ kế hoạch tổ chức học tập môn học GDQP của nhà trường; Qua quá trình học tập
nội dung môn học của học sinh;
Hằng năm Sở Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự tổ chức trọng tài thi
đấu cho học sinh khối THPT.
Theo kế hoạch của tổ bộ môn thì trong quá trình giảng dạy bài kĩ thuật tháo lắp súng tiểu
liên AK, kĩ thuật băng bó cứu thương, kĩ thuật ném lựu đạn và môn chiến thuật. Tại lớp
các giáo viên phải chọn cho mình một số học sinh có kết quả học tập tốt sau đó sàn lọc lại
một lần nữa và việc đầu tiên là cho học sinh khám sức khỏe.Việc khám sức khỏe tập
trung chú ý vào huyết áp và tim mạch của các em. Những học sinh nào có vấn đề về
huyết áp và tim mạch thì dứt khoát bị loại. Sau đó tiếp tục có kế hoạch, nội dung tập
luyện.

7


Thông qua việc khảo sát, tuyển chọn ra được những học sinh có độ nhanh nhẹ, khéo léo.
Sau quá trình tập luyện theo đúng chế độ và trước khi đi tham gia thi một ngày. Tổ bộ
môn sẽ phân công giáo viên trưởng đoàn, giáo dục về tâm lý khi tham gia thi đấu nhất là
học sinh mới lần đầu thi đấu (yếu tố này rất quan trọng) rồi sau đó thực Điều quan trọng
nhất là phải giáo dục cho các em thật kỉ lưởng, phải bình tỉnh, tự tin không cẩu thả. Nắm
vững nguyên tắc khi tháo, lắp và để đúng quy định:
2.3.1.3. Dụng cụ sân bãi:
Biện pháp thực hiện:
Về sân bãi thì hàng năm Tổ bộ môn làm tờ trình xin nhà trường có kế hoạch tu bổ, đổ
bồi thêm đất cát vào, không để động vũn khi mưa to, đảm bảo sân bãi đúng qui cách.
Trang bị thêm dụng cụ tập, sách giáo khoa, tranh ảnh.

Cụ thể:
Giáo viên tham gia trực tiếp huấn luyện ngoài việc sử dụng cụ, thiết bị vốn có được
ngành cấp, bổ sung mua các thiết bị phục vụ cho môn học, khuyết khích học sinh tự làm .
Ví dụ: Băng, gạc cá nhân dùng để thực hành băng; Môn chiến thuật học sinh tự làm cọc,
dây làm hàng rào...
2.3.1.4. Kết hợp với Ban Giám Hiệu Nhà trường tổ chức học tập pháp luật, mít
tin…:
Biện pháp thực hiện:
Để đổi mới hình thức, phương pháp GDQP-AN cho học sinh, nhân các ngày lễ lớn của
đất nước, địa phương, Tổ trưởng chuyên môn đề nghị Ban giám hiệu nhà trường để phối
kết hợp với Đoàn trường tổ chức Giáo dục pháp luật, cho học sinh tham gia mít tin, giao
lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; thi tìm hiểu ngày thành lập Quân đội nhân dân
Việt Nam; ngày thành lập Công An nhân dân, ngày thành lập Tỉnh, thi về phòng chống
ma túy, HIV… Qua đó đã nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, truyền thống của quê hương, đất nước, nâng cao
nhận thức về quốc phòng, an ninh cho học sinh.
2.3.1.5. Học theo phương pháp thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức học hợp
tác nâng cao chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với nhau và có được
những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
Biện pháp thực hiện:
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan điểm,
và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của việc học nhóm, giáo
8


viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên phải khơi gợi hứng thú học
sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng với trình độ của học sinh, hoặc
đặt câu hỏi và đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến mức độ tư duy sâu sắc hơn. Bên
cạnh đó, quá trình cộng tác cũng phải được sắp xếp hợp lý về kế hoạch, nội dung và
chương trình để đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm, chuẩn bị lượng kiến thức nhất

định tham gia một cách tích cực, có hiệu quả.
Chia lớp thành 4 nhóm, 10-11 thành viên/nhóm theo những tiêu chí như sau: Mỗi nhóm
đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu tiên. Chia các nhóm đồng
đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá. Chia nhóm đồng đều theo tỷ lệ rèn
luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương đương với tỷ lệ nam nữ của lớp 50:50. Xây
dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế này, các nhóm đồng đều nhau nên
dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số cán sự lớp ở mỗi nhóm là hạt nhân để phát
triển nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá khách quan của các Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm việc
nhóm của học sinh hầu như là không có. Tuy có được thầy cô giáo phổ biến nhưng không
rõ ràng và đầy đủ vì còn hạn chế nhiều về thời gian và trình độ. Đây là một "khâu” quan
trọng nếu muốn làm tốt sự thay đổi trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ
bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm, là những viên gạch nền tảng đầu tiên để
xây dựng nên thành công của thảo luận nhóm.
Thủ lĩnh nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề tài, phân
chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu hết là nhóm
trưởng - Ai tìm tài liệu?- Ai xử lý tài liệu?- Ai viết bài?- Ai phản biện lại bài viết, tài
liệu của nhóm?- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác- Ai thư ký?
Chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh tham gia sôi nổi,
nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay. Thông thường, câu hỏi được đưa lên cho nhóm trình
bày và được chuyển cho giáo viên, giáo viên xem xét, chọn câu hỏi hay, chuyển cho
nhóm thảo luận trả lời. Người hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời. Sau khi nghe câu
trả lời, người đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì cho câu trả
lời hoàn thiện. Như thế yêu cầu người hỏi phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh thần
đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một mô hình tốt, rất đáng học tập, thu hút được học sinh.
Đối với những học sinh ôn luyện tham gia thi học sinh giỏi cấp tỉnh, việc áp dụng
phương pháp học nhóm là vấn đề rất quan trọng. Học nhóm để các em có điều kiện trao
đổi kiến thức và cũng cố lại trí nhớ ( thành lập kỹ năng bền vững ).
2.3.1.6. Kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp giảng dạy truyền thống
chuyển sang dạy bằng giáo án điện tử là cả một quá trình đổi mới tư duy:
9



Biện pháp thực hiện:
- Cần phải thống nhất về nhận thức và tư duy của đội ngũ giáo viên. Đây là vấn đề tưởng
chừng đơn giản nhưng khi thực hiện thì có một số ý kiến cho rằng, soạn giáo án điện tử
chỉ là chuyển giáo trình văn bản được sao từ file word sang các slide rồi đem chiếu lên
cho học sinh xem. Đây là một quan niệm nhầm lẫn mà chúng ta cần loại bỏ. Vì để soạn
được một giáo án điện tử đem lại hiệu quả cao cho người học thì người thầy phải bỏ ra rất
nhiều công sức và tâm huyết. Tôi muốn nhấn mạnh là vất vả hơn nhiều khi dạy bằng
phương pháp truyền thống.
Việc chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang giảng dạy bằng giáo án điện tử
tôi mới bắt đầu thực hiện từ khi áp dụng chương trình cải cách giáo dục ban đầu giáo
viên gần như tự mày mò, tìm hiểu, học hỏi đồng nghiệp, học lớp tin học do Sở Giáo dục,
nhà trường tổ chức và cấp chứng chỉ. Từ thiết kế giáo án cho đến cách trình bày… chưa
có một chuẩn thống nhất, vì vậy còn những khiếm khuyết và dẫn đến có những ý kiến,
thậm chí cả phản đối dạy bằng giáo án điện tử. Tôi nghĩ rằng đổi mới ở lĩnh vực nào cũng
vậy thôi, bước đầu sẽ có những khó khăn, nhưng chúng ta mạnh dạn làm, điều chỉnh dần
dần và cộng với lòng đam mê nghề nghiệp thì chúng ta sẽ gặt hái được những thành
công.
2.3.1.7. Kinh nghiệm về chuẩn bị và giảng dạy bằng giáo án điện tử:
Biện pháp thực hiện:
- Về thiết kế bài giảng:
Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực quan,
sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn phim
ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng cần được
coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức đẹp nhưng
không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ…) làm cho học sinh
mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian vô ích.
Các công đoạn thường theo một qui trình sau:
Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và thu gọn cho

phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm của tôi sẽ đưa
lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp truyền thống),
chủ yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắt hay các trích dẫn… tuyệt đối không bê
nguyên bài soạn vào slide. Và vì vậy, cũng xin nói thêm là sử dụng giáo án điện tử nhưng
vẫn phải có bài soạn…

10


Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu nền, phông
chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm tốt khâu này sẽ
giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ không quá lớn,
chiếm quá nhiều “diện tích” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho
đảm bảo độ tương phản nhưng không quá lòe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa có
một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp, lấy ý kiến
giáo viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án phù hợp nhất. Nên cố
gắng mô hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình, đồ thị để chuyển các
slide. Công việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức của giáo viên, nhưng bù lại việc
truyền tải bài giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh động, giúp học sinh hưng phấn
hơn khi tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn.
Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được chú trọng.
Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và sử dụng tính
năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài giảng và giửa các
nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo viên đang giảng ở trang
danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất kỳ của bài giảng bằng cách
nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách. Hay có thể sử dụng các nút chức
năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí bài giảng ban đầu… Tóm lại, giáo viên
có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài giảng chỉ bằng một vài lần nhắp chuột mà
không phải lần tìm mất thời gian.
Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp với mỗi tiết,

mỗi chương trình bài giảng. Thời lượng của tư liệu, nhất là phim tư liệu nên vừa đủ minh
họa cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm loãng thông tin và ảnh hưởng
đến thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời lượng dài, bổ ích cho môn học được
thu xếp cho học sinh xem vào một vài tiết học riêng. Yêu cầu học sinh thu hoạch, liên hệ
với bài giảng.
- Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử:
Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết bảng, thời
gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lôi cuốn học sinh hơn.Tuy nhiên,
giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay không phụ thuộc vào
các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái độ của người học.
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn GDQP-AN sẽ có rất
nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang đến cho giáo viên và người học
những kết quả thiết thực.
2.3.1.8. Vai trò của đội ngũ cán sự môn học:
11


Biện pháp thực hiện:
Chúng ta biết rằng không thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự lớp.
Muốn giúp những học sinh này trở nên những cán sự lớp biết cách điều hành tổ chức tập
lớp đòi hỏi người giáo viên cần phải có một số kỹ năng cần thiết.
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự quan sát
từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại không có khả năng điều hành
lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về hạnh kiểm biết diễn đạt
mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng lớp
- Thiết kế công việc: Người giáo viên phải biết những công việc cần thiết trong kế
hoạch năm học, trong tháng và trong tuần để thiết kế cho tập thể lớp tham gia mà trong
đó đội ngũ Cán sự lớp theo dõi, điều hành dưới sự giám sát chặt chẽ của GV
- Bồi dưỡng: Thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng nhiệm vụ
mà chúng ta đã phân công, không nên giao khoán cho các em mà có sự trợ giúp; cũng

không tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và giáo viên sẽ tư vấn cho các em,
giúp
các
em
giải
quyết
các
tình
huống
khó
khăn.
- Kiểm tra, đánh giá: Giáo viên phải thật sự nhiệt tình và tâm huyết trong công tác,
thường xuyên theo dõi, động viên đội ngũ Cán sự lớp. Tuyên dương các em làm tốt, uốn
nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em mất uy tín trong tập thể lớp.
Xây dựng đôi ngũ Cán sự lớp là việc làm không dễ nhưng chúng ta phải làm vì GV
ở các trường Trung học phổ thông không có thời gian để xử lí tất cả mọi việc ở lớp hơn
nữa sẽ không có thông tin và cũng không giải quyết kịp thời được nếu đội ngũ Cán sự lớp
không được rèn luyện một cách chu đáo và có kế hoạch cụ thể.
- Việc sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, ý thức kỷ luật, từ đó
hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển trí tuệ và thể chất một
cách toàn diện.
Tóm lại để dạy tốt theo phương pháp mới giáo viên Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh
chúng ta cần phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán sự môn học một
cách chu đáo, phát huy khả năng tự học cho học sinh, bằng cách phải đưa ra tiêu chí phấn
đấu có tính cạnh tranh, thi đua từng nhóm vào trong nội dung chương trình học tập. Như
vậy thì thời lượng của nội dung bài dạy chỉ chiếm khoảng 1/3 thời lượng toàn bộ nội
dung buổi học. Mặt khác giáo viên có đủ thời gian để hướng dẫn sửa chữa động tác sai
cho các học sinh yếu, kém. Tuy nhiên việc chọn lựa cán sự phải tìm hiểu kỷ tham khảo ý
kiến tập thể có tính nhiệm không, khả năng nắm bắt động tác, vai trò quản lý...

2.3.2. Một vài giải pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
12


2.3.2.1.Giải pháp 1:
Làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, họ là người trực tiếp giáo dục,
quán triệt và giao nhiệm vụ cho học sinh. Chính sự chuyển biến trong nhận thức về công
tác GDQP-AN của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức của học sinh.
Nội dung giáo dục quán triệt tập trung vào đường lối, quan điểm của Đảng; các văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác GDQP-AN trong giai đoạn mới hiện nay,
như: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Nghị định số
116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP-AN, các văn bản quy định
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDQP-AN… và những yêu cầu mà học sinh
cần đạt được khi học tập tại nhà trường.
2.3.2.2. Giải pháp 2:
Thường xuyên làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất lượng cho đội
ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đây là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng môn học
GDQP-AN.
2.3.2.3. Giải pháp 3:
Thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp với từng đối
tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho học sinh thông qua bảo tàng cách
mạng của Trung ương, địa phương; thường xuyên cập nhật thông tin để truyền đạt cho
học sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc.
2.3.2.4. Giải pháp 4:
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội đồng GDQPAN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để tạo sự thống nhất, đồng
bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, sách giáo khoa, tranh ảnh,
mô hình học cụ phục vụ cho môn học; thường xuyên làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra
đánh giá kết quả môn học, hàng năm tổ chức hội thi, hội thao, thực hiện tốt công tác sơ,
tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có

thành tích trong giảng dạy, học tập môn học GDQP-AN.
2.3.2.5. Giải pháp 5:
Thường xuyên quan tâm đầu tư ngân sách, đổi mới chế độ chính sách cho giáo viên trực
tiếp giảng dạy môn học GDQP-AN theo chế độ hiện hành, nhằm động viên kịp thời, nâng
cao tinh thần trách nhiệm cho giáo viên trong thực hiện nhiệm vụ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
13


Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với sự cố gắng
nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi đã đúc kết được
một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy cho các học sinh ba
khối lớp 10, 11, 12 của trường Trung học phổ thông Hoằng Hóa 2.
So sánh
với thực tế và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và các giải pháp của sáng
kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau :
- Tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn.
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn.
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm của môn giáo dục quốc phòng – an ninh
của từng năm học được nâng dần lên:
Xếp loại

GIỎI

KHÁ

ĐẠT


KHÔNG ĐẠT

2010-2011

81

1048

611

44

1784 học sinh

4,54%

58,74%

34,25%

2,47%

2011-2012

95

764

681


38

1578 học sinh

6,02%

48,42%

43,16%

2,41%

2012- 2013

133

500

24

1481 học sinh

8,98%

33,76%

1,62%

Năm học


824
55,64%

Thành tích qua 3 lần hội thao giáo dục quốc phòng cấp tỉnh cũng được nâng lên:
Hiệu quả:
Thành tích
Giải
Năm học

Nhất

Nhì

Ba

Khuyết
khích

14


2010-2011
2011-2012

1

1

4


2

1

4

6

2

3

2012-2013

- Hội thao giáo dục quốc phòng tỉnh Thanh Hóa năm 2011 dành cho khối trung học phổ
thông. Trường trung học phổ thông Hoằng Hóa 2 qua ba năm gần đây đã có những
chuyển biến rõ nét. Tuy nhiên sự thành công để đạt được những thành tích cao, không chỉ
nói hay trên cơ sở lý thuyết mà đòi hỏi sự nổ lực của cả Thầy và trò.
C. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp cho học sinh tự tìm tòi
sáng tạo và chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả.
Ngoài những nội dung kiến thức nêu trên sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy rõ được ý
nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học GDQP-AN.
Qua quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm vốn có, kết
quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên cạnh đó học sinh thấy yêu thích học
môn GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động và hấp dẫn.
Trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra kinh nghiệm thực tiễn như đã trình bày ở trên,
với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến
của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo về chuyên môn
của trường để bản thân được học hỏi thêm, mỗi ngày phát huy tốt hơn giờ dạy GDQP-AN

ở trường Trung Học Phổ Thông.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giáo dục trong dạy học là
rất cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Việc đổi mới phương pháp giáo dục nếu
tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương
pháp dạy học là một định hướng đúng đắn .
Việc đổi mới phương pháp giáo dục mà tôi đang trình bày giúp giáo viên gây được hứng
thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài học. Học sinh yêu
thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho kết quả cao hơn. Biện
pháp tuy có thể nói không mới gì lắm, nhưng với sự chủ động hướng dẫn của giáo viên
và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả khả quan hơn trong quá trình học.

15


Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo viên phải biết
linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học sinh khắc sâu kiến
thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm và
nắm được những nội dung cơ bản. Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với
bộ môn GDQP-AN giáo viên cần phải có nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm
bổ sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt
để có được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm lôi cuốn
học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp
thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
* Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với tổ:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để học sinh và
giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương pháp dạy tốt hơn bộ môn
GDQP-AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có những sáng kiến hoặc sáng
tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của

mình
- Đối với trường:
Cần tạo điều kiện về phòng học bộ môn, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng cường
hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP-AN.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cung cấp thêm máy chiếu, phòng đa năng riêng biệt cho bộ môn GDQP-AN.
Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải pháp để nâng
cao hiệu quả chất lượng bộ môn.
Tăng số lượng học sinh dự thi môn nhận thức về GDQP- AN, giảm thi thực hành môn kĩ
thuật tháo lắp súng ( vì liên quan đến công tác mượn và bảo quản súng
cho Huyện đội).
Tôi xin chân thành cảm ơn!

16


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm
ĐƠN VỊ
2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Trịnh Văn Thanh

17



×