Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

an toàn điện và các biện pháp bảo vệ an toàn điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.07 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐIỆN TỬ- VIỄN THÔNG
..............................

Báo cáo tiểu luận môn:
An toàn bức xạ và an toàn điện trong y tế
Đề Tài:
Ảnh hưởng sinh lý học của dòng điện siêu nhỏ đến cơ thể người

Giáo viên hướng dẫn: Th.s Phạm Mạnh Hùng
Sinh viên thực hiện: Lê Đức Anh
MSSV: 20111114

Hà nội, 12/2015

Page 1


Mục lục

Lời nói đầu 3

I)Vi dòng là gì và liệu pháp vi dòng

4

II) Cơ thể người là một trường điện từ

6

III) Các ảnh hưởng của chấn thương hay mất cân bằng nội mô8



IV)Cấu trúc và chức năng của tế bào

V) Ti thể và vai trò của ATP

11

VI) ATP và ảnh hưởng cảu vi dòng

VII) Tần số vi dòng chỉ đinh

9

13

14

VIII) Tổng kết các lợi ích của vi dòng

15

Page 2


Lời nói đầu

Trong môn học an toàn bức xạ và an toàn điện trong y tế, chúng em được học hai nội dung
chính : an toàn bức xạ trong y tế và an toàn điện trong y tế. Trong phần an toàn điện trong y
tế có nhiều nội dung chi tiết như sau : Các khái niệm chung về an toàn điện, Lý thuyết về
ảnh hưởng của điện , Các phương pháp phòng chống điện giật và các thiết bị kiểm tra an

toàn điện đặc biệt. Khi tìm hiểu phần Lý thuyết về ảnh hưởng của dòng diện, trong đó có
nói về các ảnh hưởng sinh lý học của dòng điện đối với cơ thể người, một câu hỏi đặt ra là :
Dòng điện giá trị lớn có thể gây tác động, phần lớn là nguy hiểm đối với cơ thể người, vậy
các dòng điện rất nhỏ có thể gây ảnh hưởng đến cơ thể người hay không? Trong quá trình
tìm hiểu để trả lời câu hỏi này, em tìm thấy những tài liệu viết về dòng điện rất nhỏ ( được
gọi là vi dòng), và thấy rằng không những dòng điện có biên độ rất nhỏ không những có thể
gây tác động đến cơ thể người, và trái với các dòng điện giá trị lớn thường gây nguy hiểm
và cần các biện pháp an toàn điện, thì dòng điện siêu nhỏ đã được chứng minh là có tác
động tích cực đến cơ thể người, thậm chí còn được ứng dụng trong các biện pháp trị liệu
trong y học và được nghiên cứu trong khoa học điện sinh học tế bào. Thông qua những bài
viết về vi dòng em đã có cái nhìn mới về dòng điện đối với con người, đồng thời hiểu thêm
về các hoạt động của cơ thể con người. Vì vậy, em làm bài tiểu luận này với mục đích chia
sẻ một phần nào đó những tìm hiểu của mình về những tác động của dòng điện siêu nhỏ,
những tác động tích cực tới cơ thể con người mà dòng điện thông thường hay các dòng điện
lớn không thể làm được thậm chí gây nguy hiểm khiến cho đối với chúng con người cần các
biện pháp bảo vệ an toàn thay vì các ứng dụng chữa bệnh tiềm năng như ở vi dòng.

Page 3


I)

Vi dòng là gì và liệu pháp vi dòng là gì ?

Vi dòng là một dòng điện cỡ một phần triệu của một ampe (micro-ampe). Ampe là đơn vị
cường độ dòng điện, 1 Ampe tương ứng với dòng chuyển động của 6.24xđiện tử trong một
giây qua một diện tích dây dẫn, như vậy vi dòng tuy là dòng điện nhỏ nhưng cũng có dòng
chuyển động tới 6.24x điện tử trong một giây. Giá trị này không thể là vô nghĩa, và cũng
như dòng điện thông thường , vi dòng cũng có khả năng gây ảnh hưởng nhất định lên cơ
thể, thậm chí các dòng điện sinh học trong cơ thể thông thường được tìm thấy có cường độ

cỡ vi dòng. Do khả năng gây ảnh hưởng tới cơ thể của vi dòng, mà đã ra đời các liệu pháp
vi dòng. Liệu pháp vi dòng là một sự gây kích thích sử dụng xung áp thấp để truyền vi dòng
tới cơ thể. Hiểu về tác động sinh học của vi dòng tới cơ thể là thực sự cần thiết trong sự phát
triển các liệu biện pháp trị liệu vi dòng. Liệu pháp vi dòng dựa trên cơ sở rằng các dòng
điện cỡ micro-ampe xấp xỉ gần sát với các dòng điện sinh học xuất hiện tự nhiên trên cơ thể,
và do đó có khả năng tăng cường hiệu quả hồi phục và chữa lành các mô của cơ thể. Liệu
pháp vi dòng tạo ra các tín hiệu điện xuất hiện tự nhiên như là khi cơ thể đang phục hồi các
mô tổn thương. Nó hoạt động được bởi vì khả năng kích thích sinh lý và sự phát triển của tế
bào. Một nghiên cứu kinh điển đã chỉ ra rằng sự kích thích vi dòng có thể tăng sự sản sinh
APT (một hợp chất có tên tiếng anh là adenosine triphosphate) gần 500%. Sự tăng dòng
điện thực sự sẽ làm giảm kết quả thu được. Như vậy vi dòng có thể tạo được các tác động
mà dòng điện lớn hơn không thể. Nghiên cứu này cũng chứng minh khả năng của vi dòng
trong việc tăng cường sự vận chuyển axit-amin và sự tổng hợp protein (là một nhóm các
hợp chất hữu cơ gồm carbon, hydro, oxy và nitơ).

Hình 1. Mô tả kết quả nghiên cứu kinh điển về sự kích thích vi dòng.

Page 4


Chúng ta có thể nhận ra tác dụng trị liệu của vi dòng thông qua cơ chế trong đó sự chấn
thương ảnh hưởng đến khả năng điện sinh học của các tế bào vị tổn thương. Mỗi khi có sự
chấn thương hay biến dạng mô, có một sự giảm sút ATP và sự phá hủy bơm chuyển Natri.
Các tế bào tăng điện trở của chúng và khu vực tổn thương sẽ có một điện trở cao hơn mô lân
cận. Điều này làm giảm sự dẫn điện qua vùng tổn thương và giảm điện dung tế bào, dẫn tới
sự suy yếu của quá trình làm lành vết thương và viêm. Các tế bào giảm khả năng nhận các
chất dinh dưỡng, nước, chất khoáng, …v.v và cũng giảm khả năng loại bỏ độc tố. Tất cả
những điều này được cảm nhận ở người qua cảm giác đau nhức. Đây không phải một môi
trường hỗ trợ phục hồi và chữa lành mô. Các tế bào của mô bị tổn thương tạo ra một dòng
điện do sự thất thoát các ion bên trong tế bào ( nội bào) và sự rối loạn cơ chế bơm Natri.

Hiện tượng này được đặt tên là “dòng điện vết thương” . Dòng điện tổn thương khi đó làm
biến đổi các mô hình điện thế thông thường. Các tế bào không bị tổn thương cố gắng giúp
khôi phục lại chức năng bình thường cho các mô bị tổn thương bằng cách khôi phục điện
thế bình thường. Hình 2 mô tả “dòng điện vết thương” hay “dòng điện chỗ bị thương”
(current of injury).

Hình 2
Cơ thể của chúng ta có hệ thống điện sinh học riêng, và trong mô cũng vậy. Khi một mô bị
tổn thương, dòng điện trong bản thân mô đó dừng lại, nhưng vẫn còn dòng ở rìa của mô bị
thương, tại đó dòng tạo ra một trường điện. Cường độ của điện trường này giảm dần từ rìa
của mô bị thương tới bên trong mô (bằng 0). Sự chênh lệch điện thế giữa trường điện của tế
bào bị thương với các tế bào lành xung quanh tạo ra “dòng điện tại vết thương” mà ta vừa
đề cập ở trên. Tuy nhiên chỉ tại rìa mô bị thương,tại đó trường điện tích cực nhất nên mô bị
thương sẽ được chữa lành từ rìa.
Chính xác ứng dụng của vi dòng tới các mô tổn thương là làm tăng lưu lượng dòng điện vào
bên trong mô, cho phép các tế bào trong vùng bị tổn thương lấy lại được điện dung của nó.
Điện trở được giảm, cho phép điện sinh học chạy qua thiết lập lại cân bằng nội mô. Quá
trình này giúp bắt đầu và duy trì nhiều phản ứng sinh hóa mà xuất hiện trong việc chữa lành.
ATP được bổ sung trong các mô tổn thương, hoạt động vận chuyển qua màng tế bào tăng,
cho phép dòng chảy dinh dưỡng vào trong tế bào và dòng chảy chất thải ra ngoài tế bào.
Quá trình này làm bắt đầu xuất hiện các mô khỏe mạnh. ATP cũng cung cấp nguồn năng
lượng mà các mô cần để tổng hợp protein. Các tín hiệu điện khởi đầu quá trình làm lành
Page 5


bằng việc làm đầy lại ATP, tăng cường vận chuyển các ion qua màng tế bào, và tạo điều
kiện cho sự tổng hợp protein. Điều này cho phép các vi dòng bên ngoài chạy song song với
dòng của cơ thể. Do đó các liệu pháp vi dòng có thể xem như một xúc tác hữu ích giúp cho
việc khơi mào và di trùy nhiều phản ứng điện hóa diễn ra trong quá trình chữa lành.
Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng sự kích thích bên ngoài có thể :









II)

Làm cho các biểu mô và nguyên bào sợi di duyển tới một vị trí vết thương
Tăng nồng độ ATP trong các mô
Tăng cường sự tổng hợp DNA và protein
Đẩy mạnh chữa lành các mô mềm hay các vết loét
Gia tăng sự phục hồi các mô thần kinh bị tổn thương
Giảm phù
Hạn chế sự tăng phát triển của các tác nhân gây bệnh khác nhau

Cơ thể người là một trường điện từ

Mô cơ thể là một tập hợp các chất hóa sinh được hình thành, bao bọc và liên kết theo các
cấu trúc đặc biệt tạo thành một hệ thống điện/sinh/hóa. Tuy nhiên, nếu quan sát sâu hơn
nữa, xuống tới mức phân tử, thậm chí sâu hơn nữa là mức hạ nguyên tử, chúng ta sẽ nhìn
thấy các đơn vị năng lượng dao động với tốc độ cực lớn.Mối quan hệ điện từ giữ các đơn
vị năng lượng này cùng với nhau trong một lien kết mạnh mẽ. Nếu có phép thuật có thể
thu nhỏ chúng ta, đủ nhỏ để quan sát các phân tử ở mức hạ nguyên tử, bạn sẽ chắc chắn
phát hiện ra rằng có một vùng không gian lớn lấp đầy bởi năng lượng thay vì thấy các
vật chất nguyên tử. Năng lượng này có thể tồn tại dưới dạng các hạt hay các sóng(lưỡng
tính sóng hạt). “Trong thế giới lượng tử, các hạt cổ điển như các hạt electrons tồn tại
cùng lúc như các sóng, và các sóng có thể làm những việc mà các hạt không làm được”

Hinh 3. Minh họa lưỡng tính sóng hạt của năng lượng.

Page 6


Ở mức nguyên tử, chúng ta đã biết rằng các điện tử quay xung quang hạt nhân trên một
số quỹ đạo có năng lượng xác định. Khi chạy xung quanh hạt nhân nguyên tử, đầu tiên
chúng di chuyển theo một hướng sau đó lại di chuyển theo hướng khác,dao động quanh
quỹ đạo của chúng, theo một tần số nhất định, tùy theo loại hạt hạ nguyên tử và năng
lượng của nó. Để chuyển dời một điện tử từ một quỹ đạo thấp hơn tới một quỹ đạo cao
hơn,yêu cầu một lượng tử của năng lượng với các đặc tính tần số rất cụ thể. Một electron
sẽ chỉ nhận năng lượng của tần số phù hợp để di duyển từ một mức năng lượng tới một
mức khác. Nếu điện tử rơi từ một quỹ đạo cao hơn xuống một quý đạo thấp hơn, nó sẽ
giải phóng năng lượng với cùng tần số như vậy. Tần số nguyên tử yêu cầu này được gọi
là tần số cộng hưởng. Các nguyên tử và phân tử có các tần số cộng hưởng riêng biệt, mà
sẽ chỉ có thể bị kích thích bởi năng lượng có đặc tính tần số đúng như tần số cộng
hưởng. Ví dụ một ca sĩ có thể làm vỡ một chiếc cốc thủy tinh bằng cách ngân một nốt
biên độ cao với tần số giống như các tần số cộng hưởng của chiếc cốc. Mọi thứ tồn tại ở
trạng thái dao động, mọi trường điện từ được đặc trưng bở dao động, hay tần số, đều có
thể đo lường được. Cơ thể con người cũng không loại trừ. Để đơn giản hóa có thể hình
dung một người đang tồn tại ở một tần số dao động riêng biệt, có thể thay đổi sự năng
động mỗi giây phụ thuộc vào các trạng thái tâm lý của người đó, các căng thẳng bên
trong hay bên ngoài, bệnh tật, v.v….
Y học đã xác định được rằng có các trường điện rộng tại các hoạt động bên trong cơ thể.
Ví dụ, hệ thống thần kinh, đã được biết đến từ lâu là làm việc thông qua điện hóa hoặc
chỉ thông qua các tín hiệu điện. Trong thực tế , ở mức nguyên tử, điện giúp lien kết tất cả
các phân tử với nhau. Một tế bào, giống như các đơn vị gồm các cụm nguyên tử và phân
tử, do đó có moment điện, kết quả là sự tương tác của tất cả các phần tử điện hóa với
nhau.
Giờ chúng ta đã biết cơ thể bao gồm một ma trận dạng sợi bán dẫn lien kết với nhau tan

tỏa tới mọi ngóc ngách trong cơ thể. Về vĩ mô, hệ thống này gồm các mô kết nối với
Page 7


nhau tạo thành xương sống, gân, cân mạc, sụn, và các dây chằng, do đó tạo nên một
mạng lưới các cơ quan và tuyến. Tất cả các hệ thống của cơ thể, hệ thống cơ, hệ thống
mạch máu, hệ thần kinh, đường tiêu hóa, da, các mạch bạch huyết, được tạo thành từ các
mô làm cho chúng hình dạng cụ thể và các đặc điểm vật lý. Các nhà sinh học tế bào
ngày nay đã nhận thức được cách hệ thống sợi dày đặc này kết nối với bề mặt tế bào và
bên trong tế bào bằng việc trao đổi các protein qua màng tế bào một cách nhất quán.
Có một sự kết nối giữa não và phần còn lại của cơ thể đó là perineurium ( mô có nguồn
gốc thuộc trung phôi bì gồm có nguyên bào sợi keo và các tế bào mỡ; hỗ trợ các cơ quan và
lấp đầy không gian giữa chúng,đồng thời tạo các gân và dây chằng) với một trường điện từ
sâu bên trong.

III)

Các ảnh hưởng của chấn thương hay mất cân bằng nội mô.

Trường điện từ giữ các dao động năng lượng hay các mô hình tần số đặc trưng bởi các
sự kiễn cụ thể đã xảy ra mà đã gây chấn thương vật lý hay tâm lý. Điều này giải thích tại
sao ảnh hưởng của các chấn thương vật lý vẫn còn trong mô sau khi các mô đã lành.
Điều này cũng giải thích tại sao các chấn thương tâm lý và trí nhớ mà được “lưu trữ” ở
các mô cơ thể và sau đó ảnh hưởng đến các chức năng cơ thể. Chấn thương và bệnh bên
trong biểu hiện như rối loạn chức năng của cân bằng nội mô. Các vùng chịu ảnh hưởng
của mầm bệnh được chỉ ra rằng có độ dẫn điện cao hơn so với vùng xung quanh. Do đó
bất kỳ rối loạn thể chất nào làm tăng hoạt động bên trong có thể đo được tại các điểm cụ
thể bằng cách sử dụng một cảm biến theo từng điểm. Nếu hệ thống sinh hóa ở trong một
trạng thái mất cân bằng hoặc không đồng nhất, có thể là do thực tế các phần tử điện
dung của tế bào không được hệ thống phân phối năng lượng đúng cách. Hoặc không có

đủ năng lượng hoặc có quá nhiều năng lượng trong các phần tử điện dung của tế bào.
Trạng thái sai lệch này là kết quả từ sự mất cân bằng trong hệ thống điện dung trong tế
bào mà do đó gây nên sự mất cân bằng dòng năng lượng, dẫn đến tình trạng chấn thương
toàn than do nỗ lực của cơ thể để bù đắp cho sự mất cân bằng. Chấn thương này gây nên
các tín hiệu tạo cảm giác đau được truyền đi khắp các vùng liên quan của hệ thần kinh
trung ương. Nếu các khu vực mô nhận luồng năng lượng điện chính xác, sự tuần hoàn
được cải thiện và quá trình chữa thông thường được đẩy nhanh. Điều này được thể hiện
bởi sự giảm đau tức thì. Thí dụ, sau khi cơ thể nhận một liệu pháp điện sinh học, có điện
vào tại các điểm khác nhau để điều chỉnh chức năng và các hệ thống cơ- thần kinh của
cơ thể. Sự sử dụng glucogen của mô cơ tăng và lượng axitamin của mô não cũng tăng.
Cùng lúc đó, hoạt động của một vài enzim trong mô cũng mạnh hơn. Những thay đổi
này chỉ ra rằng việc điều trị có thể thúc đẩy quá trình trao đổi chất của các mô trong hoạt
động của chúng để giúp tiếp thêm năng lượng cho cơ thể đề kháng với các yếu tố không
thuận lợi, do đó kích thích sự phục hồi của các mô bị tổn thương.
Page 8


Hình 4 . Cơ thể người là một trường điện. Ở các khu vực khác nhau trường điện cân
bằng ở các giá trị khác nhau đối với người khoe mạnh

IV)

Cấu trúc và chức năng của tế bào

Trong nghiện cứu về tế bào bằng phương pháp hóa học và sinh học thông thường xem tế
bào như một màng lấp đầy bởi các cơ quan nhỏ ( gọi là bào quan) , mà xử lý các phản
ứng thông qua khuếch tán. Khi đi sâu hơn, có một lời giải thích chi tiế hơn, tế bào được
lấp đầy bởi một lưới các bó sợi siêu nhỏ, mà tạo thành chất nền của tế bào. Tất cả các
bào quan lơ lửng và được lien kết với nhau bởi các bó sợi siêu nhỏ này.
Hinh 5 . Các bó sợi trong tế bào.


Các glycoprotein đan nhau trên bề mặt tế bào, từ bên trong tới bên ngoài tế bào. Các
protein này kết nối với mạng sợi và với tế bào. Mạng sợi là keo trong suốt được bọc bởi
các phân tử nước. Các ion hidro lien kết dọc theo keo trong suốt này tạo thành các mạng
lưới nội bào có dạng cấu trúc tứ diện với không gian cho bốn electron. Chức năng bán
dẫn bao gồm các electron và vùng trống tại đó các electron vắng mặt ở lớp vỏ bên ngoài.
Các vùng trống tại đó khuyết các electron mang điện tích dương, sẽ kéo các electron
Page 9


dịch chuyển thành dòng trên mô. Trương điện từ tạo bởi keo trong suốt và các phân tử
nước tạo thành mạng truyền tải và lưu trữ điện, các thông tin dòng diện và các thông tin
dao động.
Nhân tố tổ chức sơ cấp của cơ thể dường như là điện từ. Tức là điện không chỉ ảnh
hưởng đến quá trình trao đổi chất của tế bào riêng lẻ mà còn ảnh hưởng đến tế bào mà ở
trong một tổ chức lớn hơn trong cơ thể. Ở cấp độ tế bào điện có ở mọi nơi. Một phần lớn
của năng lượng tế bào dành cho việc phân ly các ion ( các nguyên tử và phân tử mang
điện).Khi các ion mang điện âm và dương được phân ly ,tạo ra một điện thế. Các tế bào
tích cực hoạt động trọng việc phân ly các ion qua màng kín. Các phân ly diễn ra qua
màng tế bào và màng bào quan của tế bào. Khi một điện tử được tạo nên, nó tượng trưng
cho một nguồn dự trữ năng lượng quan trọng của tế bào, giống như nước trữ sau con
đập, giống như điện trữ trong pin.Có hai hoạt động xảy ra trong phân ly ion. Một ion
dương sẽ di chuyển qua màng tế bào theo phía sườn âm hơn. Không giống như các điện
tích hút nhau mà giống như các ion dương đẩy nhau. Hoạt động thứ hai là sự tập trung.
Các ion tập trung nhiều ở một khu vực sẽ khuếch tán về khu vực có độ tập trung ít hơn.
Tế bào lợi dụng cả hai hoạt động này. Các bơm ion trong màng tế bào tích di chuyển các
ion Natri ra ngoài và các ion Kali và trong. Một lượng lớn các ion Natri bến ngoài tế bào
sau đó được sử dụng để tằng cường cho hoạt động vận chuyển, giống như nước chạy vào
máy phát tuabin sản xuất ra điện năng. Ví dụ, các ion Natri được cho phép giảm nồng độ
gradient( sự tập trung) chảy vào tế bào, cấp năng lượng cho hoạt động vận chuyển các

phân tử glucose và axitamin để tang nồng đọ gradient của chúng trong tế bào.
Hình 6. Minh họa natri làm quay tua bin nhanh hơn giúp axitamin được vận chuyển
nhanh hơn

V)

Ti thể và vai trò của APT

Page
10


Ti thể là một bào quan trong tế bào và được hình thành từ các màng kín. Ti thể còn được
gọi là các nhà máy năng lượng của tế bào, bởi vì tất cả các phản ứng trao đổi chất ưa khí
diễn ra trong chúng. Trong ti thể là một tập hợp các enzim cụ thể được gọi là các sắc tố
tế bào. Các enzim này lấy các ion hydro và di chuyển chúng di vào các màng ti thể bên
trong. Các ion sau đó lại chảy trở lại qua màng ti thể, và khi đó dòng chảy này tạo năng
lượng cho việc tạo ATP- nguồn năng lượng hóa học chính của tế bào. Hình 7 minh họa
ion hydro bị lấy vào màng trong ti thể sau đó được chảy trở lại.

Các phân tử ATP được lưu trữ và phân phối để truyền tải năng lượng cho cơ thể. ATP
trong thực tế chính là các dòng điện năng lượng cho cơ thể. Phân tử ATP bao gồm một
nucleotit ( chứa một đường ribose) và ba nhóm photphat. Năng lượng được lưu trữ trong
các lien kết đồng hóa trị giữa các photphat với một lượng lớn nhất ( 7cal/mol) trong một
lien kết giữa hai hay ba nhóm photphat. Liên kết này được gọi là lien kết pyrophotphat.
ATP truyền năng lương từ các lien kết hóa học tới các phản ứng thu nhiệt của tế bào.
Hầu hết mọi các quá trình sinh lý của mô, tế bào đều thông qua ATP, tạo nên tầm quan
trọng về mặt lâm sang của ATP. Lượng ATP tổng cộng trong cơ thể người xấp xỉ 0.1
mol. Năng lượng được sử dụng bởi các tế bào cơ thể cần thủy phân 200 đến 300 mol
ATP mỗi ngày. Do đó mỗi phân tử ATP cần được tái chế 2000 đến 3000 lần mỗi ngày.

ATP không thể được tích trữ, do đó nó phải được tiêu thụ gần như sau khi nó được tổng
hợp.
Sự phân hủy từ ATP thành ADP tạo ra năng lượng hay nói các khác là sự cắt đứt các
lien kết photphat sản sinh ra năng lượng. Công thức hóa học của sự giải phóng năng
lương từ ATP có thể viết như sau : ATP(Adenosine Triphosphate) -> ADP(Adenosine
Diphosphate) + năng lượng + Pi(photphat vô cơ). Có một sự tương đồng giữa ATP và
pin có thể sạc lại. Các pin được sử dụng, bỏ ra thế năng của nó cho đến khi chuyển thành
động năng và nhiệt năng( không có ích). Các pin được nạp lại có thể được sử dụng chỉ
sau khi năng lượng được bổ sung. Do vậy, ATP là dạng năng lượng cao hơn ( pin đã
sạc) trong khi ADT là dạng năng lượng thấp hơn(pin đã bị sử dụng). Khi photphat thứ 3
bị cắt đứt, ATP trở thành ADP (chỉ còn 2 photphat), tức là năng lương được dự trữ đã bị
giải phóng cho các quá trình sinh học sử dụng.

Page
11


Hình 8>. Sự tương đồng giữa ATP và pin có thẻ nạp lại; phản ứng tạo năng lượng cảu
ATP.

Năng lượng bổ sung đầu vào (cộng them một nhóm photphat) “nạp lại” ADP thành ATP
: 1)sự photpho hóa, 2) tổng hợp hóa học. Sự photpho hóa là sự bổ sung một nhóm
photphat tới một protein hoặc một phân tử nhỏ. ATP được tổng hợp trong ty thể, bằng
cách them vào nhóm photphat thứ 3 cho ADT được xem như là sự photpho hóa. ATP
cũng được tổng hợp từ chất nền trong quá trình thủy phân glucozo. Tổng hợp háo học là
quá trình mà ATP được tạo ra ở màng trong của ti thể. Tổng hợp hóa học cần nhiều hơn
một enzim .Các enzim trong tổng hợp hóa học được chuẩn bị cho chuỗi vận chuyển các
electron trong ti thể(hình bên dưới). Trong khi các ion của quá trình tổng hợp được bơm
qua màng bào quan mà chứa nồng độ lớn các ion .Năng lượng cung cấp cho bơm đến từ
các phản ứng oxi hóa khử, năng lương này khi bơm qua màng bị suy hao một phần, năng

lương suy hao này khiến chống lại gradient nồng độ, làm giam giữ một vài ,không thể đi
qua màng,trong khi tại màng có các enzyme tổng hợp ATP,khiến cho phải luồn qua các
enzyme này, tạo năng lượng cho enzyme gán nhóm photphat cho ADT để tạp ATP.

Ảnh hưởng của vi dòng : Một dòng điện với cường độ thích hợp khi cho chạy qua tế
bào, các ion hidro được tạo thành thông qua phản ứng điện phân nước tại cực dương sẽ
đi qua tế bào, khi chúng tới thành ti thể, sẽ cấp năng lượng cho phản ứng tạo ATP.
Page
12


VI)

ATP và và ảnh hưởng của vi dòng.

Ảnh hưởng của vi dòng đến sự sửa chữa tế bào của ATP : Dưới sự kích thích vi
dòng, nồng độ ATP tang khi đặt một nguồn dòng từ 25 đến nhỏ hơn 1000 micro-ampe.
Có nghĩa là điện thế của màng tế bào thần kinh,bình thường là -85mV ở mô khỏe mạnh,
được thiết lập lại nhờ vi dòng.Nhờ đó các tế bào có thể bắt đầu chu kỳ tái sinh, mức độ
đau đớn giảm đáng kể, chức năng tái tạo mô được tái thiết lập.
Ảnh hưởng của vi dòng đến chức năng cân bằng điện hóa của ATP : Trong khi về lý
thuyết cơ thể của chúng ta có thể tạo ra lượng ATP mà nó cần, thực tế thì không như
vậy. Kích thích vi dòng trong khoảng 200-800 micro-ampe giúp nạp đầy ATP cho mô,
và sẽ ở trong mô cho đến khi được sử dụng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy sự tang 200%
tốc độ phục hồi .Một quá trình chữa lành sử dụng nhiều ATP có thể được tang tốc bằng
cách tằng nồng độ ATP tại mô. Kích thích bằng vi dòng thực hiện trọn vẹn sự cung cấp
ATP này.
Các ion hidro không phải là các ion duy nhất mà sự chuyển động chịu ảnh hưởng của
dòng điện. Một ion quan trong khác trong sinh lý học tế bào là canxi. Các ion canxi đã từ
lầu được công nhận là một trong những “sứ giả bên trong” quan trọng của tế bào . Xung

thần kinh chạy theo một sợi trục mở các cửa canxi ở cuối sợi trục, cho phép sự chảy vào
cảu các ion canxi, là dấu hiệu của các túi tiếp hợp kết hợp với khớp thần kinh, giải
phóng chất dẫn truyền thần kinh.Một ví dụ khác, sự có mặt của canxi trong các tổ hợp
protein-canxi còn hỗ trợ quá trình bài tiết, tái sinh ATP, và nhiều quá trình khác. Do đó
sự thâm nhập của canxi vào tế bào có thể lien quan đến sự điều khiển và tằng trưởng của
tế bào,lien quan đến biểu hiện của gen.Có các cổng canxi có thể điều khiển bởi điện ở
màng tế bào, các cổng này có thể được mở bằng kích thích dòng diện phù hợp . Kích
thích dòng điện sẽ tăng tổng hợp protein và DNA. Trong khi chưa có bằng chứng hoàn
toàn thuyết phục, có một khả năng rõ ràng cho quan điểm rằng vi dòng có thể kích thích
các cơ chế sản xuất liên quan đến các cổng canxi ở màng tế bào.
VII)

Tần số vi dòng chỉ định

Dường như có một dải hẹp của kích thích rơi vào bằng tần sinh học của năng lượng điện
từ của cơ thể người. Sự kích thích với trong phạm vi lý tưởng này có thể đem lại nhưng
tác dụng lâm sang và sinh học tích cực ngay lập tức. Hình thức trước đây của điện liệu
pháp chỉ đơn giản là kích thích mô với cường độ cao nhằm giảm đau nhưng không thể
nạp ATP cho tế bào do dòng điện quá xa so với bang tần sinh hoc của cơ thể người.Các
tần số kích thích và dạng sóng điện điều trị cũng đang trở nên tinh vi hơn và được xem
là khoa học của sự tiếp cận điện liệu pháp. Nhiều dự án thiết lập tần số mà kích thích có
hiệu quả lên cơ thể đã được thực hiện ở Pháp bởi Paul Nogier MD. Những tần số thường
dùng nhất ở Châu Âu là các bội và ước của 73Hz, được tuyên bố là một tần số cộng
hưởng chủ yếu của cơ thể.
Page
13


Mỗi mô trong cơ thể có các tần số cộng hưởng riêng. Các đặc điểm dao động của mỗi
nguyên tủ, của các loại mô, biến đổi theo các điều kiện khác nhau như khi : chấn

thương, viêm, căng thẳng, sự tác động của môi trường, … Khi mội chấn thương xảy ra
trên mô, các electron trong mô bị ảnh hưởng chịu một đặc điểm dao động cụ thể, và duy
nhất đối với chấn thương đó. Vì dao động của các electron thay đổi, người ta tin rằng các
electron cũng thay đổi sang “quỹ đạo” khác với quỹ đạo thông thường. Nhiệm vụ của
các liệu pháp vi dòng là phải trung lập hóa được các tần số mà gây tổn thương tế bào,
làm cho các electron trở về quỹ đạo cũ, tạo điều kiện sinh lý để tế bào trở lại hoạt động
bình thường.Tốc độ xảy ra điều này thay đổi tùy theo mỗi cá nhân. Một số bệnh nhân có
thể trải nhiệm thay đổi đáng kể ngay lập tức sau khi điều trị, trong một số trường hợp
thay đổi tích cực nhất sẽ không được nhấn thấy trước 24h kể từ khi bắt đầu điều trị. Sẽ
vô lý khi mong đợi một mô bị ảnh hưởng nặng nề của chấn thương có thể thay đổi đáng
kể trong một ngày. Hầu hết các bệnh mạn tính thường sẽ cho thấy sự thay đổi đáng kể
sau sáu lần trị liệu. Tuy nhiên kết quả này mang tính cá nhân và có thể thay đổi tùy từng
điều kiện cụ thể.Một số trường hợp đáp ứng thay đổi nhanh chóng trong khi một số
trường hợp khác thì mất nhiều thời gian.Để giải thích cho điều này, khi các electron đã
“sai” tần số trong một thời gian dài, sau khi trị liệu các electron có thể cố gắng trở lại các
tần số sai này trong vòng bốn đến bảy ngày. Kết quả là trung bình cần sáu lần điều trị để
cho thay đổi đáng kể diễn ra. Liệu pháp vi dòng nên được lặp lại trong một khoảng thời
gian thích hợp đẻ nhưng ảnh hưởng tần số trở nên bền vững. Các tần số làm việc theo
nguyên tắc cộng hưởng sinh học. Tần số vi dòng dường như có thể cộng hưởng mô sinh
học và thay đổi cấu trúc mô khi tần số là chính xác, khi mô được thay đổi và ổn định có
vẻ như có thể giữ nguyên cấu hình mới này.
VIII)

Tổng kết các lợi ích của vi dòng.

Kích điện vi dòng đã và đang được sử dụng hoặc được nghiên cứu đối với nhiều ứng
dụng trị liệu khác nhau. Các nghiên cứu đã được tiến hành và chứng minh hiệu quả của
sự kích thích vi dòng như sau :
 Giảm đau đi kèm với giảm mức độ huyết thanh các chất gây viêm, giải phóng chất









dẫn truyền thần kinh P. Beta-endorphin và tang huyết thanh cortisol
Bệnh nhân giảm đau đáng kể, tăng khả năng cử động khi cơn đau mạn tính trở lại,
như đau cơ xơ,đau cổ tử cung, hội chứng ống cổ tay, và viêm khớp.
Giảm đau trong bệnh thoái hóa khớp
Giảm đau và tăng khả năng cử động trong vôi tôi vai
Giảm đau và phù nề sau mổ
Giảm thời gian hồi phục các vết thương mô mềm
Tăng tỷ lệ chữa bênh cho các vận động viên bị chấn thương, kiểm soát các cơn đau,
tăng tỷ lệ sửa chữa gãy xương, điều trị rối loạn chức năng
Giảm mức độ nghiệm trọng của các dấu hiệu và triệu chứng tổn thương cơ bắp.
Page
14


Page
15



×