Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

NHỮNG ĐỘNG THÁI MỚI TRONG BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ CƠ CẤU TUỔI - GIỚI TÍNH CỦA DÂN SỐ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 18 trang )

NHỮNG ĐỘNG THÁI MỚI TRONG BIẾN ĐỔI
DÂN SỐ VÀ CƠ CẤU TUỔI - GIỚI TÍNH
CỦA DÂN SỐ VIỆT NAM
GS. TS Nguyễn Viết Thịnh, GS. TS Đỗ Thị Minh Đức
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

1. Mở đầu
Ở nước ta, trong những thập kỉ từ 1979 đến nay, cứ 10 năm lại có một
cuộc Tổng điều tra dân số (1979, 1989, 1999, 2009), và từ 1999 trở lại đây là
Tổng điều tra dân số và nhà ở. Những thông số về dân số là quan trọng để
có thể tích hợp được các chính sách dân số với các chính sách phát triển của
cả nước và của từng vùng. Các thông số về dân số còn là “đầu vào” quan
trọng trong việc quy hoạch tổng thể phát triển của từng ngành và từng
vùng, trong đó có những ngành trực tiếp đến an sinh xã hội như giáo dục,
y tế, bảo hiểm xã hội, lao động - việc làm...
Trong bài này, chúng tôi chỉ phân tích khái quát những động thái mới
của dân số liên quan đến gia tăng dân số tự nhiên và cơ cấu dân số theo
tuổi và giới tính, cả theo chiều thời gian và chiều không gian.

2. Dân số và sự biến đổi dân số
2.1. Dân số và sự gia tăng dân số
Về diện tích tự nhiên, nước ta đứng thứ 58 trên thế giới, nhưng về dân
số, nước ta đứng thứ 13. Theo các cuộc Tổng điều tra dân số, dân số nước
ta là 76,3 triệu người (1/4/1999), 85,8 triệu người (1/4/2009). Theo Dự báo dân
số 2009-2049 [6], thì dân số nước ta sẽ vượt ngưỡng 100 triệu người vào năm
2025, đạt tới con số 108,7 triệu người vào năm 2049.
Vào năm 1921, dân số nước ta mới có 15,6 triệu người. Bốn mươi năm
sau (1961) dân số tăng gấp đôi. Cũng như nhiều nước đang phát triển khác,

| 775



25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

hiện tượng “bùng nổ” dân số ở nước ta bắt đầu từ những năm 50 của thế kỉ
này. Đến khoảng năm 1980 - 1985, dân số nước ta còn ở vào cuối giai đoạn II
của sự quá độ dân số, và như vậy là sự “bùng nổ” dân số ở nước ta đạt mức
cực đại vào cuối thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80, sau đó mới giảm dần, đi vào thế
ổn định từ khoảng năm 2000 - 2005 trở đi.
Việt Nam hiện đã chuyển sang giai đoạn cuối của quá trình quá độ dân
số: tỉ suất sinh đã tương đối thấp và đang giảm chậm; tỉ suất tử vong cũng
giữ ổn định ở mức tương đối thấp. Dự báo trong những năm tới, tỉ suất tử
vong sẽ tăng lên do quá trình già hóa dân số. Vào khoảng giữa thể kỉ này
(2045 - 2050), theo DESA, dân số nước ta sẽ đạt đến quy mô lớn nhất (104,4
triệu người), sau đó là quá trình suy giảm dân số cho đến cuối thế kỉ (xem
Hình 1). Hiện nay, tỉ suất gia tăng dân số của nước ta đã tương đương hoặc
thấp hơn mức trung bình của thế giới, khẳng định những thành tựu to lớn
của công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Theo 2009 World Population Data
Sheet (Population Reference Bureau), thì năm 2009, tỉ suất sinh của nước ta
là 17‰, tỉ suất tử là 5‰, tỉ suất gia tăng tự nhiên 1,2%. Trong khi đó, các chỉ
tiêu này trung bình toàn thế giới tương ứng là 20‰, 8‰ và 1,2%.
Hình 1. Các giai đoạn quá độ dân số Việt Nam 1950-2100

(Nguồn: xử lí từ số liệu UN-DESA, World Population Prospects: The 2010 Revision)

776 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Bảng 1. Dân số trung bình và tỉ lệ phát triển dân số hàng năm ở Việt Nam

trong thời kì 1951 - 2010
Năm

Tổng số dân
(nghìn người)

Tỉ lệ phát triển dân số hàng năm
Giai đoạn

%

1951

23061

-

-

1955

25074

1951-1955

2,11

1960

30172


1955-60

3,77

1965

34929

1960-1965

2,97

1970

41063

1965-1970

3,29

1975

47638

1970-1975

3,02

1980


53722

1975-1980

2,43

1985

59872

1980-1985

2,19

1990

66016

1985-1990

1,97

1995

71995

1990-1995

1,75


2000

77631

1995-2000

1,52

2005

82392

2000-2005

1,20

2010

86928

2005-2010

1,08

Nguồn: Phân tích kết quả điều tra mẫu - Tổng điều tra dân số Việt Nam 1989;
Niên giám thống kê năm 2010.

Mức phát triển dân số trong hai thập niên qua đã giảm đi đáng kể.
Vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, mỗi năm dân số tăng thêm hơn 1,2 triệu

người, đến năm 2000, tăng thêm khoảng 1,0 triệu người và vào cuối thập
niên đầu của thế kỉ XXI, mỗi năm tăng thêm khoảng 900 nghìn người. Số
dân tăng thêm này tương đương dân số của một tỉnh (năm 2010, có 20 tỉnh,
thành phố có dân số dưới 900 nghìn người), lớn gấp đôi số dân của một số
tỉnh như Lai Châu, Bắc Kạn, Kon Tum.
Tỉ suất tăng tự nhiên thay đổi khá mạnh theo các vùng của nước ta, trị
số cao nhất gấp khoảng 1,7 lần so với trị số thấp nhất. Điều này chủ yếu do
khác biệt trong tỉ suất sinh thô.

| 777


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 2. Dân số và gia tăng dân số (nghìn người) 1990-2010

Bảng 2. Một số chỉ tiêu về biến động dân số tự nhiên
phân theo vùng năm 1999 và năm 2009
Năm 1999
Tỉ suất
Tỉ suất
sinh thô
chết
(‰)
thô (‰)
CẢ NƯỚC

Năm 2009
Tỉ suất
GTTN

(%)

Tỉ suất
sinh thô
(‰)

Tỉ suất
chết thô
(‰)

Tỉ suất
GTTN
(%)

19,9

5,6

1,43

17,6

6,8

1,08

- Thành thị

15,9


4,2

1,12

17.3

5,5

1,18

- Nông thôn

21,2

6,0

1,52

17,8

7,4

1,04

19,5

6,5

13,0


Miền núi-Trung du Bắc Bộ
- Đông Bắc

19,3

6,4

1,29

- Tây Bắc

28,9

7,0

2,19

Đồng bằng sông Hồng

16,2

5,1

1,11

17,6

7,2

1,04


Bắc Trung Bộ

21,4

6,7

1,47

16,8

7.6

0,92

Duyên hải Nam Trung Bộ

21,0

6,4

1,46

16,9

6.5

1,04

Tây Nguyên


29,8

8,7

2,11

21,9

6.1

1,58

Đông Nam Bộ

18,2

4,5

1,37

17,8

6.3

1,15

ĐB sông Cửu Long

18,9


5,0

1,39

16,0

6.8

0,92

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999: Kết quả điều tra mẫu; Kết quả xử lí của tác
giả từ Cơ sở dữ liệu điều tra mẫu 15%, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009

778 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

2.2. Phân tích động thái tỉ suất tử vong
Tỉ suất tử vong thô (CDR) ở nước ta những năm qua chịu tác động của
nhiều biến cố xã hội. Hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chống đế
quốc Mĩ xâm lược đã để lại những tổn thất to lớn về người. Không chỉ hàng
triệu người bị giết trong chiến tranh (mà phần lớn trong số này ở tuổi tráng
niên), mà còn hàng triệu người khác mang thương tật do chiến tranh, và
hậu quả còn để lâu dài cho các thế hệ mai sau.
Mặt khác, song song với việc ổn định và phát triển kinh tế, sự phát
triển của y học nước nhà, cải thiện điều kiện dịch vụ y tế, đặc biệt là việc
chăm sóc bà mẹ và trẻ em, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đã góp
phần làm giảm nhanh chóng tỉ suất tử vong. Tỉ suất tử vong thô của dân số

Việt Nam năm 1965 là 12‰, năm 1989 là 7,3‰, đến năm 1999 chỉ còn 5,6‰,
năm 2009 là 6,8‰, có phần cao hơn năm 1999.
Tỉ suất tử vong thay đổi giữa các vùng, tuy không thật lớn. Nếu
như năm 1999, tỉ suất tử vong thô cao nhất là ở Tây Nguyên, thấp nhất
ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng, thì năm 2009 ta thấy một xu
hướng khác: hai vùng xuất cư là chính (Đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung Bộ) có tỉ suất tử vong thô cao nhất, còn hai vùng nhập cư lớn
nhất (Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) có tỉ suất tử vong thô thấp nhất.
Điều này phản ánh tác động tích lũy nhiều năm của các luồng xuất cư
ra khỏi vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ làm tăng tỉ trọng
người cao tuổi trong cơ cấu dân số của vùng đi, cũng như tác động theo
chiều ngược lại của các luồng nhập cư người trẻ, khỏe tới Tây Nguyên
và Đông Nam Bộ.
Bảng 3. Tỉ suất tử vong thô (CDR) phân theo thành thị, nông thôn, 1989 - 2009
1989

1999

2009

Toàn quốc

7,3

5,6

6,8

Thành thị


5,1

4,2

5,5

Nông thôn

7,9

6,0

7,4

9,7

5,6

6,8

Chuẩn hóa CDR của toàn quốc theo
cơ cấu tuổi của năm 2009

Nguồn [2; tr.68].

| 779


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH


Hình 3. Bản đồ Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi năm 1999 và năm 2009

Việc giảm tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) đã đóng góp phần
quan trọng vào việc giảm tỉ suất tử vong thô. Nếu như IMR (1995-2000)
trung bình trên thế giới là 57‰, ở các nước phát triển là 9‰, các nước đang
phát triển là 63‰, còn các nước kém phát triển nhất là 99‰, thì ở nước ta
cùng thời kì là 38‰. Năm 2009, IMR toàn quốc là 16‰, so với 36,7‰ năm
1999. Cũng trong năm 2009, thì IMR trung bình thế giới là 46‰, các nước
phát triển là 6‰, các nước đang phát triển là 50‰. Trong khu vực Đông
Nam Á, Việt Nam đứng thứ 5 (về IMR thấp) sau các nước Xingapo, Thái
Lan, Malayxia, Brunây. Việc triển khai các chương trình y tế quốc gia (tiêm
chủng mở rộng cho trẻ em, phòng chống sốt rét, lao, phòng chống bướu cổ
và các bệnh xã hội, giám sát AIDS...) đang góp phần làm giảm tỉ lệ mắc và
chết do các căn bệnh nguy hiểm này.
Hai bản đồ Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (Hình 3) cho thấy tình
hình được cải thiện rất mạnh ở các tỉnh, thành phố từ năm 1999 đến 2009.
IMR năm 1999 dao động từ 10,5‰ (TP Hồ Chí Minh) đến 82,7‰ (Kon
Tum), năm 2009 là từ 8,9‰ (TP Hồ Chí Minh) đến 47,7‰ (Lai Châu). Có sự
thay đổi nhất định trong mẫu hình không gian của tỉ suất tử vong trẻ em
dưới 1 tuổi phân theo tỉnh trong thời kì này.
780 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Tuổi thọ trung bình của dân cư nước ta đã tăng đáng kể, trong vòng 20
năm (1989-2009) đã tăng 7,6 tuổi (nam tăng 7,2, nữ tăng 8,1 tuổi). Tuổi thọ của
nữ cao hơn của nam tới 5,4 tuổi (2009). Cùng với việc nâng tuổi thọ chung của
dân cư, thì khoảng cách tuổi thọ giữa nữ và nam sẽ tăng lên trong tương lai.
Hình 4. Quá trình giảm nhanh tỉ suất chết trẻ em và tăng nhanh tuổi thọ

của dân cư Việt Nam so với thế giới, 1950 - 2010

Hình 4 dựa trên đánh giá của Vụ Kinh tế và xã hội - Liên Hiệp Quốc
(UN-DESA) cho thấy rõ hơn những thành tựu này, có thể nói mô hình tử
vong và tuổi thọ của dân số nước ta đang tiệm cận với mô hình của các
nước phát triển trên thế giới.
Hình 5. Bản đồ tuổi thọ trung bình của dân cư, năm 1999 và 2009

| 781


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Tuổi thọ trung bình của dân cư phân hóa khá mạnh giữa các tỉnh. Năm
1999, tuổi thọ thấp nhất của dân cư là thuộc tỉnh Kon Tum (55,8 tuổi) và
cao nhất là ở TP Hồ Chí Minh (78,2 tuổi). Năm 2009, tuổi thọ trung bình
thấp nhất là ở tỉnh Lai Châu (63,9 tuổi) và cao nhất vẫn là TP Hồ Chí Minh
(75,9 tuổi). Nếu so sánh các bản đồ ở hình 3 và hình 5, đều được lập thang
chú giải theo cùng một phương pháp (ở đây là phương pháp phân bậc tự
nhiên), thì có thể rút ra nhận xét thú vị: Bản đồ về tỉ lệ tử vong trẻ em dưới
1 tuổi và bản đồ về tuổi thọ trung bình của dân cư giống như là âm bản và
dương bản của một tấm hình vậy.
Bảng 4. Tuổi thọ trung bình của dân cư 1989, 1999, 2009
1989

1999

2009

Chung


65,2

68,2

72,8

- Nam

63,0

66,5

70,2

- Nữ

67,5

70,1

75,6

4,5

3,6

5,4

Chênh lệch và tuổi thọ giữa nữ và nam


Trong các nguyên nhân gây tử vong, chiếm tỉ lệ cao nhất vẫn là các
bệnh truyền nhiễm, kí sinh trùng, suy dinh dưỡng, thiếu máu. Tiếp đến là
các bệnh về đường hô hấp, đường tiêu hoá. Đáng chú ý là một số nguyên
nhân gây tử vong chiếm tỉ lệ cao ở các nước phát triển thì nay cũng bắt
đầu chiếm tỉ lệ đáng kể ở nước ta, chẳng hạn như bệnh ung thư, bệnh tim
mạch... Tai nạn giao thông cũng là một nguyên nhân gây tử vong quan
trọng. Việc nhiễm HIV và mắc bệnh AIDS ở một số nhóm dân cư có nguy
cơ cao cũng đang trở thành mối quan tâm chung của cộng đồng.
2.3. Phân tích động thái tỉ suất sinh
Nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài từ 1945 đến
1975. “Quy luật bù trừ” trong phát triển dân số sau chiến tranh đã đưa đến
những đỉnh cao trong tỉ suất sinh vào cuối thập kỉ 50, đầu thập kỉ 60 (ở
miền Bắc) và vào những năm cuối thập kỉ 70 (trong cả nước).
Hiện nay, công tác kế hoạch hoá gia đình thu hút sự nỗ lực của các
tổ chức xã hội và các cá nhân, trở thành một bộ phận hữu cơ trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tuy nhiên, việc phấn đấu giảm
tỉ suất sinh phụ thuộc rất lớn vào kết quả của cuộc vận động này ở vùng
nông thôn, nơi có tỉ suất sinh còn cao, mấy thập kỉ gần đây còn tập trung
gần 80% dân số, và trong thập kỉ qua, do đô thị hóa tăng tốc, thì cũng còn
782 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

tập trung khoảng 70% dân số. Mặt khác một loạt các nhân tố kinh tế - xã
hội chưa thật sự thuận lợi cho việc thay đổi cách nghĩ và hành vi sinh sản
của các cặp vợ chồng trẻ.
Tổng tỉ suất sinh (TFR) còn được gọi là “số con trung bình của một
phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ”. Tổng tỉ suất sinh tính chung cả nước đã giảm từ

5,5 (giai đoạn 1969-1974) xuống 4,85 (1978-1979), 3,80 (1988-1989), 2,3 (năm
1999) và 2,03 (năm 2009) dưới mức sinh thay thế. Đây là cố gắng lớn trong
việc kiểm soát tỉ lệ sinh.
Đến nay vẫn còn tồn tại sự khác biệt khá lớn về mức sinh giữa thành
thị và nông thôn, cũng như giữa các vùng địa lí lớn, mặc dù các khác biệt
này đã thu hẹp đáng kể trong hai thập kỉ (1989 - 2009). Tây Nguyên vẫn
là vùng có mức sinh cao nhất cả nước, kế đến là Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.
Đây cũng là các địa phương dân cư có mức sống thấp hơn các vùng khác.
Tuy nhiên, Tây Nguyên cũng là vùng có mức giảm sinh nhanh nhất trong
hai thập kỉ qua. Tổng tỉ suất sinh cũng giảm khá mạnh ở duyên hải Nam
Trung Bộ. Mức sinh đã khá thấp ở đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long, trong đó Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông
Cửu Long có mức sinh đã thấp dưới mức sinh thay thế khá xa (Bảng 5). Các
bản đồ ở hình 4 cho thấy rõ hơn sự phân hóa không gian của tổng tỉ suất
sinh ở nước ta vào hai thời điểm 1999 và 2009.
Bảng 5. Tổng tỉ suất sinh ở các vùng năm 1989, 1999 và 2009
Năm 1989

Năm 1999

Năm 2009

Cả nước:

3,8

2,33

2,03


- Thành thị

2,23

1,67

1,81

- Nông thôn

4,27

2,57

2,14

Miền núi và trung du Bắc Bộ:

4,17

-

2,24

- Đông Bắc

2,3

(2,17)


- Tây Bắc

3,6

(2,46)

Đồng bằng sông Hồng

3,03

2,0

2,12

Bắc Trung Bộ

4,29

2,8

2,32

Duyên hải Nam Trung Bộ

4,61

2,5

2,15


Tây Nguyên

5,97

3,9

2,65

Đông Nam Bộ

2,89

1,9

1,70

Đồng bằng sông Cửu Long

3,88

2,1

1,83

Nguồn: Kết quả điều tra mẫu - Tổng điều tra dân số 1989, Tổng điều tra dân số và nhà ở
1999. Xử lí từ Cơ sở dữ liệu điều tra mẫu 15%, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009.

| 783



25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Công tác kế hoạch hoá gia đình ở khu vực đô thị được thực hiện có kết
quả tốt, trong khi đó ở nông thôn vẫn còn tồn tại một khoảng cách đáng
kể giữa nhận thức về sức ép dân số và hành vi sinh đẻ trên thực tế. Dường
như có sự giằng co của các yếu tố truyền thống trước các yếu tố kinh tế và
tác động của chính sách dân số.
Theo Dự báo [6], thì TFR cả nước sẽ giảm xuống dưới 2,0 trong vòng 5
năm tới và đến cuối thập niên 30, đầu thập niên 40 của thế kỉ XXI thì ổn định
ở mức 1,85, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. Với TFR ở
dưới mức sinh thay thế và tiếp tục giảm, đồng thời tuổi thọ của dân cư tăng
lên, thì dân số nước ta mặc dù đang ở giai đoạn có cơ cấu dân số vàng, nhưng
cũng đang già hóa, và quy mô dân số sẽ dần đi vào thế ổn định.
Bảng 6. Tổng tỉ suất sinh (TFR) giả thiết cho một số giai đoạn dự báo
TĐT 2009

2014-2019

2024-2029

2034-2039

2044-2049

2,03

1,93

1,88


1,86

1,85

Thành thị

1,81

1,75

1,85

1,85

1,85

Nông thôn

2,14

2,02

1,89

1,86

1,85

Cả nước


Hình 6. Bản đồ Tổng tỉ suất sinh năm 1999 và năm 2009

784 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Mô hình sinh theo độ tuổi của bốn năm (1989, 1994, 1999 và 2009)
cho thấy mức sinh đã giảm ở tất cả các nhóm tuổi của phụ nữ, rõ nhất
là ở ba nhóm tuổi: 20 - 24, 25 - 29 và 30 - 34 (hình 5). Dân số nước ta đã
chuyển từ mô hình sinh con sớm (cực đại ở nhóm tuổi 20-24) sang mô
hình sinh con muộn (cực đại ở nhóm tuổi 25-29), tính chung cả nước và
đặc biệt rõ ở khu vực thành thị. Ở khu vực nông thôn, hiện vẫn là mô
hình sinh con sớm.
Hình 7. Sự thay đổi tổng tỉ suất sinh của dân số Việt Nam so với thế giới
(1950 - 2010) và sự thay đổi tỉ suất sinh phân theo độ tuổi của người mẹ 1989 - 2009

3. Cơ cấu tuổi - giới tính
3.1 Cơ cấu tuổi
Cho đến cuối thập kỉ 80, đầu 90 của thế kỉ trước, dân số nước ta thể
hiện rõ nét là một dân số trẻ, với tỉ trọng cao của các nhóm tuổi trẻ. Tháp
dân số năm 1979 và 1989 có đáy nở rộng. Do tỉ lệ sinh giảm mạnh và tuổi
thọ của dân cư tăng lên, hình dáng tháp dân số (2009) thay đổi mạnh,
có hình của một lá bồ đề, thu hẹp đáy tháp, nở rộng ở các nhóm tuổi
trung niên, thể hiện cấu trúc tuổi của một dân số đang dần ổn định. Sự
thu hẹp đột ngột của tháp dân số (năm 1989) sau độ tuổi 35 và tỉ số giới
tính thấp (số nam tính trên 100 nữ) ngay từ các nhóm tuổi tráng niên
cho thấy rõ tác động của các cuộc chiến tranh diễn ra trong suốt 35 năm,
từ 1945 đến 1979. Hai mươi năm sau (2009), khoảng thu hẹp này đã tiến
dần lên phía đỉnh tháp dân số, “dư âm” của một thời chiến tranh khói

lửa đang tắt dần.

| 785


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 8. Tháp dân số năm 1979, 1989, 1999 và 2009 (tính theo % dân số)
85+
80-84
75-79
70-74
65-69
60-64
55-59
50-54
45-49
40-44
35-39
30-34
25-29
20-24
15-19
10-14
5-9
0-4

85+
80-84
75-79

70-74
65-69
60-64
55-59
50-54
45-49
40-44
35-39
30-34
25-29
20-24
15-19
10-14
5-9
0-4



1989

Nam

85+
80-84
75-79
70-74
65-69
60-64
55-59
50-54

45-49
40-44
35-39
30-34
25-29
20-24
15-19
10-14
5-9
0-4

85+
80-84
75-79
70-74
65-69
60-64
55-59
50-54
45-49
40-44
35-39
30-34
25-29
20-24
15-19
10-14
5-9
0-4


1979

8

6

4

2

0

2

4

6

8



2009

Nam

1999

8


6

4

2

0

2

4

6

8

Trong các tài liệu dân số học, người ta quan tâm đến cơ cấu tuổi của dân
số thuộc 3 nhóm tuổi: dưới 15 (0 - 14 tuổi), 15 - 64 và 65 trở lên (65+). Tỉ số
phụ thuộc được đo bằng tỉ số giữa dân số ngoài độ tuổi lao động (ở đây quy
ước là 0 - 14 và 65+) so với dân số trong độ tuổi lao động (ở đây quy ước là
15 - 64). Ở nước ta năm 1979, tỉ số phụ thuộc chung là 89,9%, trong đó tỉ số
phụ thuộc của trẻ em là gần 81%, của người già là 9%. Khi nền kinh tế có
năng suất lao động xã hội còn thấp, tỉ số phụ thuộc cao là gánh nặng dân số,
mặt khác một phần khá đông trẻ em (nhất là ở vùng nông thôn) sớm phải
bước vào tuổi lao động. Điều này có ảnh hưởng xấu lâu dài đến việc phát
triển nguồn nhân lực. Tỉ trọng cao của dân số các nhóm tuổi 0 - 4 và 0 - 14
đặt ra những vấn đề cấp bách về văn hoá, y tế, giáo dục, giải quyết việc làm
cho số công dân tương lai này. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng gay
gắt ở các tỉnh miền núi và trung du, ở các cộng đồng dân tộc ít người. Trong
30 năm qua, tỉ số phụ thuộc tiếp tục giảm, nhưng đồng thời, dân số nước ta

cũng đang già hóa. Năm 1989, tỉ số phụ thuộc chung là 77,7%, trong đó tỉ số
phụ thuộc của trẻ em là 69,3%, của người già là 8,4%. Năm 1999, tương ứng
là 64,7%, 55,2% và 9,5%; năm 2009 tương ứng là 44,7%, 35,5% và 9,3%. Năm
2009, dân số nước ta ở vào thời kì ưu thế thuộc về lực lượng lao động, được
gọi là thời kì “cơ cấu dân số vàng”, mà theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc,
786 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

khi trẻ em dưới 15 tuổi chiếm dưới 30% và người già từ 65 tuổi trở lên chiếm
dưới 15% tổng dân số. Theo Dự báo [6], thì thời kì “cơ cấu dân số vàng” này sẽ
kết thúc vào quãng năm 2040, khi mà tỉ trọng của dân số 65+ vượt mức 15%.
Bảng 7. Tỉ số phụ thuộc năm 2009 của thế giới, các nhóm nước và Việt Nam
Tỉ lệ dân số Tỉ lệ dân số 65
dưới15 tuổi tuổi trở lên

Tỉ số phụ thuộc (%)
Trẻ em

Người lớn Chung

Thế giới

27

8

41,5


12,3

53,8

Các nước phát triển

17

16

25,4

23,9

49,3

Các nước đang phát triển

30

6

46,9

9,4

56,3

Các nước đang phát triển (trừ
Trung Quốc)


33

5

53,2

8,1

61,3

Các nước kém phát triển nhất

40

3

70,2

5,3

75,4

24,5

6,4

35,5

9,3


44,7

Việt Nam

Nguồn: tính toán từ 2009 World Population Datasheet; [1]

Trong khi tỉ số phụ thuộc ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đông
Nam Bộ ở mức thấp nhất cả nước, ở Đồng bằng sông Hồng và hầu hết các
tỉnh trung du Bắc Bộ ở mức trung bình cả nước, thì chỉ tiêu này còn khá cao
ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ và các tỉnh Tây Nguyên. Năm 2009 vẫn còn 10
tỉnh có tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm trên 30% dân số, hay nói cách khác là
các tỉnh này chưa bước vào thời kì có “cơ cấu dân số vàng”, đó là: Hà Giang,
Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắk
Lắk và Đắk Nông.
Tuổi trung vị của dân số (độ tuổi phân chia dân số thành hai phần bằng
nhau: một nửa số dân ở dưới tuổi đó và một nửa số dân ở trên tuổi đó) đã
tăng thêm gần 10 tuổi trong 30 năm, từ 18,3 (năm 1979) lên 20,2 (năm 1989),
23,0 (1999), 28,0 (2009). Chỉ số già hóa (đo bằng tỉ số (%) dân số tuổi 60+ so
với dân số tuổi dưới 15) đã tăng từ 16,6 (1979) lên 18,4 (1989), 24,3 (1999)
và 35,5 (2009). Chỉ số già hóa của nước ta cao hơn trung bình của các nước
ASEAN, tương đương Indônêxia và Philippin, nhưng thấp hơn Xingapo và
Thái Lan. Đáng chú ý là ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng dân số có xu hướng
già hóa nhanh, chỉ số già hóa đi trước mức trung bình cả nước 10 - 15 năm.
Theo Dự báo [6], thì tốc độ già hóa dân số sẽ gia tăng trong những thập kỉ tới,
đòi hỏi Nhà nước phải sớm có các chiến lược, chính sách kinh tế - xã hội phù
hợp đối với người cao tuổi đang chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong xã hội.

| 787



25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 9. Bản đồ Tỉ số phụ thuộc và Chỉ số già hóa năm 2009

3.2 Cơ cấu giới tính
Ở nước ta, tỉ số giới tính (số nam so với 100 nữ) của dân số phản ánh
tác động của chiến tranh kéo dài. Tỉ số giới tính năm 1979 là 94,2%, vào loại
thấp nhất thế giới. Cuộc sống hoà bình đang kéo tỉ số giới tính lại gần con
số cân bằng từ 94,7% (năm 1989) lên 96,4% (năm 1999) và 98,1% (năm 2009)
(xem Hình 10).
Hình 10. Tỉ số giới tính theo nhóm tuổi, 1979 và 2009
120
110
100
90
80
70
60
50
40
30
20
0-4

10-14 20-24 30-34 40-44 50-54 60-64 70-74 80-84
TØ sè giíi tÝnh 1979

788 |


TØ sè giíi tÝnh 2009


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Hình 11. Bản đồ Tỉ số giới tính khi sinh và Tỉ số giới tính năm 2009

Tỉ số giới tính còn chịu ảnh hưởng mạnh bởi hiện tượng chuyển cư.
Sức hút về lao động, các cơ hội có việc làm đối với người di cư ở nơi đến,
đã làm thay đổi tỉ số giới tính ở cả nơi đi và nơi đến. Trong thập kỉ 80 và 90
của thế kỉ XX, do xu hướng chuyển cư có những thay đổi, nên tỉ số giới tính
cũng có những thay đổi tương ứng. Bức tranh tổng thể về tỉ số giới tính
phân theo tỉnh của năm 2009 không khác nhiều so với năm 1999. Tỉ số giới
tính thấp nhất là ở đồng bằng sông Hồng, nơi liên tục nhiều năm nay có
các luồng di dân nông nghiệp tới miền núi trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên
và Đông Nam Bộ. Tỉnh Thái Bình có tỉ số giới tính thấp nhất năm 1999 là
91,0%, đến năm 2009 là 93,3%. Tỉnh Bình Dương và TP Hồ Chí Minh có tỉ
số giới tính thấp nhất năm 2009 (tương ứng là 92% và 92,2%) có liên quan
đến việc thu hút nhiều lao động nữ đến làm việc tại các khu công nghiệp,
các ngành dịch vụ và làm dịch vụ gia đình. Đây cũng từng là hai trong năm
địa phương có tỉ số giới tính thấp nhất cả nước năm 1999. Tỉ số giới tính cao
rõ rệt ở các tỉnh Tây Nguyên (cao nhất là Đắk Lắk 103,4% năm 1999; Đắk
Nông 108,2% năm 2009) và Quảng Ninh, Bình Phước (104,2% và 104,4%
năm 1999; 104,3% và 102,6% năm 2009), Lai Châu và Kon Tum (103,9% và

| 789


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH


102,6% năm 2009). Quảng Ninh có tỉ số giới tính cao, do nhiều công nhân
mỏ là nam giới từ các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định,
làm việc tại mỏ, nhưng vợ con vẫn sống ở quê.
Một trong những xu hướng dân số học được quan tâm là sự mất cân
bằng trong tỉ số giới tính khi sinh (SRB). Vào năm 2000, SRB của Việt Nam
là 105 [8], rất gần với mức chuẩn của thế giới (104 - 106 trẻ em trai/100
trẻ em gái). Tính trung bình thời kì 1999 - 2009, mỗi năm SRB tăng thêm
gần 0,5 điểm phần trăm để đạt tới con số 110,5 (2009). Nếu như ở các tỉnh
miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ, SRB gần như ở mức bình
thường, thì SRB đặc biệt cao ở một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng, điển
hình là Hưng Yên 130,7, Hải Dương 120,2 và Bắc Ninh 119,4 (Hình 11).
Theo cảnh báo từ nghiên cứu đã dẫn [8], trong điều kiện vẫn còn tâm lí
thích có con trai hơn, thì việc tiếp cận công nghệ xác định giới tính và
lựa chọn giới tính trước khi sinh một cách dễ dàng hơn với khoản chi trả
không lớn là một nhân tố căn bản làm cho các cặp vợ chồng theo đuổi
nguyện vọng có một hoặc nhiều con trai hơn. Theo Dự báo [6] thì SRB còn
tiếp tục tăng đến 115,0 vào năm 2020 sau đó mới giảm, đến năm 2030 thì
sẽ trở lại mức bình thường là 105,0. Sự mất cân bằng tỉ số giới tính khi
sinh sẽ tác động đến số nam thanh niên sinh ra sau năm 2005, mà theo
[8], vào năm 2035, số nam trưởng thành sẽ nhiều hơn số nữ trưởng thành
10% hay hơn nữa.

4. Kết luận
Các kết quả Tổng điều tra dân số cho thấy trong hơn ba thập kỉ qua,
dân số nước ta đã trải qua những thay đổi lớn lao trong các xu hướng sinh,
tử, trong cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính. Đó là kết quả của những biến
chuyển trong xã hội, với sự cải thiện lớn lao về đời sống dân cư, về chăm
sóc sức khỏe, thay đổi trong tâm lí xã hội về dân số và sinh sản, trong đó
có phần đóng góp tích cực của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Gia tăng dân số đã chậm lại, dân số bước vào giai đoạn “dân số vàng” sẽ

kéo dài khoảng 3 thập kỉ, nhưng sự mất cân bằng về giới tính khi sinh đã
ở mức báo động và sẽ còn kéo dài khoảng hai thập kỉ nữa. Dân số nước ta
đã giảm đi được gánh nặng của dân số phụ thuộc, thì đang chuẩn bị cho
những thập kỉ tới giải quyết các vấn đề an sinh cho người già ngày càng
tăng trong dân số.
790 |


25 NĂM VIỆT NAM HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG LIÊN NGÀNH

Các thay đổi này diễn ra với tầm vóc và xu hướng khác nhau ở các
vùng lãnh thổ, đặt ra những yêu cầu riêng cho từng địa phương. Nhưng
những tác động của các luồng chuyển cư, mà trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, quy mô chuyển cư giữa các tỉnh và các vùng sẽ ngày càng tăng,
làm cho nhiều chính sách dân số chỉ có thể giải quyết tốt ở tầm toàn cục,
quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ban chỉ đạo TĐT dân số và nhà ở Trung ương, Tổng điều tra dân số và nhà ở
1/4/2009, Kết quả điều tra suy rộng mẫu. Hà Nội, 2010.

2.

Ban chỉ đạo TĐT dân số và nhà ở Trung ương, Tổng điều tra dân số và nhà ở
1/4/2009 - Các kết quả chủ yếu, Hà Nội, 2010.

3.


Ban chỉ đạo TĐT dân số và nhà ở Trung ương, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt
Nam 2009; Một số chỉ tiêu chủ yếu, Hà Nội, 6/2010.

4.

Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức, Giáo trình Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam
(Tập 1), Tái bản lần thứ 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009.

5.

Tổng cục Thống kê, Báo cáo kết quả dự báo dân số Việt Nam 1999-2024, Nxb Thống
kê, 2000.

6.

Tổng cục Thống kê, Dự báo dân số Việt Nam 2009-2049, Hà Nội, 2/2011.

7.

UN – DESA, World Population Prospects: The 2010 Revision.

8.

UNFPA (2009), Reent Change in the Sex Ratio at Birth in Viet Nam: A Review of
Evidence.

| 791


792 |




×