Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Đề xuất biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp thông qua môn tiếng việt cho học sinh lớp 3 trường tiểu học chiềng sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.69 KB, 71 trang )

LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu
Trường Đại học Tây Bắc, Ban chủ nhiệm khoa Tiểu học - Mầm non đã tạo điều kiện
cho em nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo - ThS. Khổng Cát Sơn, người
đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ đạo tận tình cho em trong suốt quá trình làm khóa luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo chủ nhiệm và tập thể lớp K52 - Đại
học giáo dục Tiểu học A đã động viên, khích lệ em làm khóa luận cùng toàn thể các
thầy cô giáo trong thư viện trường đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các em học sinh Trường Tiểu học
Chiềng Sinh - Sơn La đã giúp đỡ em trong quá trình khảo sát thực tế và thể nghiệm
tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên
Phùn Thị Bích


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................................4
5. Phạm vi nghiên cứu .....................................................................................................4
6. Phạm vi đề tài ..............................................................................................................4
7. Giả thiết khoa học ........................................................................................................4
8. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................4
9. Đóng góp đề tài............................................................................................................5
10. Cấu trúc đề tài ............................................................................................................5


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
.........................................................................................................................................6
1.1.Cơ sở lý luận ..............................................................................................................6
1.1.1. Một số khái niệm ...................................................................................................6
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc dạy Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.......................8
1.1.3. Cơ sở triết học Mác – Lênin về chức năng của ngôn ngữ...................................13
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu...................................................................18
1.2.1.Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học và việc rèn kỹ năng giao tiếp (nói) cho
học sinh ..........................................................................................................................18
1.2.2. Nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 ....................................21
1.2.3. Khảo sát thực trạng rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học
Chiềng Sinh – Sơn La ....................................................................................................22
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................28
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH TIỂU HỌC ..............................................................................................29
2.1. Vận dụng các phương pháp dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp............29
2.1.1. Phương pháp rèn luyện theo mẫu........................................................................29
2.1.2. Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) ......................................................................30
2.1.3. Phương pháp trò chơi ..........................................................................................31


2.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các phân môn Tiếng Việt lớp 3 theo
quan điểm rèn kỹ năng giao tiếp....................................................................................32
2.2.1. Nâng cao kỹ năng giao tiếp qua phân môn Tập đọc cho học sinh ......................32
2.2.2. Nâng cao kỹ năng giao tiếp qua phân môn Luyện từ và câu ..............................37
2.2.3. Nâng cao kỹ năng giao tiếp qua phân môn Tập làm văn ....................................39
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................41
CHƢƠNG 3: THỂ NGHIỆM SƢ PHẠM .................................................................42
3.1. Những vấn đề chung ...............................................................................................42
3.1.1. Mục đích thể nghiệm ..........................................................................................42

3.1.2. Thời gian, địa bàn thể nghiệm .............................................................................42
3.1.3. Đối tượng thể nghiệm ..........................................................................................42
3.1.4. Nội dung và tiêu chí đánh giá thể nghiệm ...........................................................42
3.2. Kết quả thể nghiệm .................................................................................................44
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................47
KẾT LUẬN ..................................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT

HS

:

Học sinh

GV

:

Giáo viên

SGK

:

Sách giáo khoa


SGV

:

Sách giáo viên

HSTH

:

Học sinh tiểu học

HSDTTS

:

Học sinh dân tộc thiểu số

NXB

:

Nhà xuất bản


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu hướng hội nhập và phát triển, giáo dục cần phải hướng tới các mục
tiêu: “học để biết, để làm và để cùng chung sống”, một trong ba kỹ năng toàn cầu đòi
hỏi ở mỗi con người hoàn thiện phải có đó là “kỹ năng giao tiếp”. Giao tiếp là một nhu

cầu không thể thiếu của mỗi con người, nhờ có kỹ năng giao tiếp mà con người có thể
chung sống với nhau và hòa nhập trong một xã hội không ngừng biến đổi.
Đối với học sinh tiểu học, giao tiếp giúp học sinh trao đổi tri thức thông tin học
tập, rèn luyện, chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống hoạt động và vui chơi. Nhờ có hoạt
động giao tiếp, các em có điều kiện bộc lộ khả năng hiểu biết của mình cũng như được
phát triển các thao tác tư duy qua các hoạt động “ nghe - nói - đọc - viết”. Qua giao
tiếp học sinh biết bày tỏ thái độ và quan điểm của mình trong quan hệ gia đình, nhà
trường và xã hội.
Để thực hiện các mục tiêu giáo dục cho học sinh tiểu học cần thiết phải hình
thành và phát triển ở các em kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giao tiếp này được rèn luyện
chủ yếu ở trong môn Tiếng Việt. Trong các giờ học tiếng việt, dạy cho học sinh biết
cách giao tiếp có hiệu quả chính là dạy cho các em biết cách nhận thức đúng đắn về
mình, nhận biết về đối tượng giao tiếp, biết cách tiếp cận với đối tượng giao tiếp và
biết bày tỏ thái độ, quan điểm của mình bằng lời nói cử chỉ, điệu bộ, nét mặt và bằng
cả những việc làm khi cần thiết.
Kỹ năng giao tiếp giúp học sinh biết cách giải quyết những tình huống trong
cuộc sống hàng ngày, giúp các em nói những điều muốn nói, làm những việc nên làm,
đồng thời biết lắng nghe và thấu hiểu người khác. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề giao tiếp
của học sinh Trường Tiểu học Chiềng Sinh còn chưa được thực sự quan tâm đúng
mức, đăc biệt là những học sinh dân tộc thiểu số. Kỹ năng giao tiếp của học sinh còn
hạn chế, các em chưa dám bày tỏ ý kiến của mình, còn chưa tự tin hòa mình vào cuộc
sống bạn bè, thầy cô, dẫn đến các em không thể học tập tốt được.. Nếu tình trạng này
không được khắc phục sẽ làm cho các em ngày càng tự ti, thu mình với thế giới xung
quanh. Đây là trở ngại lớn cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình học tập.
Từ ý nghĩa quan trọng của kỹ năng giao tiếp và thực trạng giao tiếp của học
sinh hiện nay tôi mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề “Đề xuất biện pháp nâng
1


cao kỹ năng giao tiếp thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học

Chiềng sinh”. Thực hiện đề tài này tôi hi vọng có thể đóng góp thêm tiếng nói vào
việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng để kỹ năng
giao tiếp của học sinh đươc tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Những năm gần, đây tức là sau cải cách giáo dục, phương pháp dạy học chính
là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Trong các phương pháp đó thì phương pháp giao
tiếp được rất nhiều nhà giáo dục chú ý. Vấn đề nâng cao kỹ năng giao tiếp thông qua
môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học không còn là biện pháp mới mẻ trong quá trình
đổi mới giáo dục ở trường tiểu học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà
giáo dục về vấn đề này, các công trình đã nhấn mạnh tới vấn đề đổi mới phương pháp
giáo dục hiện nay, giúp cho giáo viên và học sinh có thể dạy - học tốt môn Tiếng Việt
trong nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tốt các môn học khác. Nội
dung này được thể hiện trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả sau:
Công trình nghiên cứu Phát triển lời nói cho học sinh tiểu học trên bình diện
ngữ âm – TS. Nguyễn Thị Xuân Yến (chủ biên) Ths. Lê Thị Thanh Nhàn, đã nghiên
cứu sâu về khía cạnh ngữ âm của lời nói; mô tả hệ thống âm chuẩn Tiếng Việt hiện
đại, xác định các lỗi phát âm, các biến thể phát âm theo vùng phương ngữ; trình bày
các biện pháp sửa lỗi phát âm, rèn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh tiểu học.
Chuyên luận Các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện tính lễ phép trong giao tiếp
Tiếng Việt tác giả Phan Phương Dung, đã nghiên cứu một cách có hệ thống các
phương tiện ngôn ngữ biểu hiện tính lễ phép và đưa ra một số mẫu bài tập dạy học
sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở. Trong bài “ Về vấn đề dạy lời nói văn hóa
trong giao tiếp ngôn ngữ cho học sinh qua môn Tiếng Việt” [12] đã đề cập một cách
cụ thể các phương tiện từ ngữ biểu đật tính lễ phép trong giao tiếp và việc ứng dụng từ
ngữ biểu đạt tính lễ phép trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học.
Trong cuốn Rèn luyện kỹ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh tiểu học thuộc
mô đum văn học, tiếng Việt và phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học do nhóm
tác giả Trường Đại học Hồng Đức biên soạn chú ý tới vấn đề mở rộng kiến thức về
các kỹ năng thưc hành tiếng Việt, các biện pháp đặc thù trong việc luyện kĩ năng thực
hành tiếng Việt. Đồng thời hướng dẫn giáo viên cách thực hành vận dụng hẹ thống ký


2


thuyết đó vào việc thiết kế giáo án, quy trình hoạt động rèn luyện kĩ năng nghe - nói đọc - viết cho học sinh tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học Lê Phương Nga (chủ
biên) đã đưa ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của dạy học tiếng Việt ở tiểu học và
trình bày chi tiết những mục tiêu, nội dung, nguyên tắc, cơ sở khoa học của các
phương pháp dạy học. Trên cơ sở đó đề ra những phương pháp dạy học hiện đại hướng
tới rèn luyện kỹ năng cho học sinh tiểu học, giúp năng cao hiệu quả học tập của học sinh.
Tác giả PGS. TS Nguyễn Trí trong cuốn sách Một số vấn đề về dạy hội thoại
cho học sinh tiểu học đã tập trung vào dạy và rèn luyện kĩ năng nghe - nói và luyện kỹ
năng trao lời, đáp lời cho học sinh. Hướng dẫn các em sử dụng các nghi thức lời nói,
vai xưng hô cho phù hợp với hoàn cảnh, vai giao tiếp của mình.
Tác giả Nguyễn Quang Ninh đã bàn đến việc rèn kỹ năng nói theo hướng giao
tiếp trong công trình Một số vấn đề dạy học ngôn bản nói và viết ở tiểu học theo
hướng giao tiếp. Từ lý thuyết hội thoại, tác giả đã rút ra một số vấn đề quan trọng, để
học sinh có thể giao tiếp tốt, người giáo viên cần phải chú ý tới một số điểm sau: phải
chuẩn bị tốt nội dung bài nói, phải tạo được nhu cầu về hội thoại cho học sinh và phải
tạo được hoàn cảnh giao tiếp tốt.
Xét về phạm vi tìm hiểu, các công trình nghiên cứu của các tác giả kể trên đã
bàn đến mục tiêu, nội dung, biện pháp phát triển lời nói hoặc dạy học ngôn bản nói và
viết theo hướng giao tiếp song kỹ năng giao tiếp mới chỉ được nói một cách khái quát
ở chương cuối của các công trình hoặc chỉ đề cập có giới hạn ở một số bài viết mà vẫn
chưa hình thành nên một công trình nghiên cứu về rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học
sinh một cách hoàn chỉnh. Do vậy việc nghiên cứu để tìm biện pháp nâng cao kỹ năng
giao tiếp cho học sinh tiểu học là một việc làm cần thiết, nhằm đưa ra các hình thúc và
phương pháp để tổ chức hoạt động nâng cao kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học
Trường Tiểu học Chiềng Sinh - Sơn La.
3. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn năng lực giao tiếp của học sinh tiểu học, đề tài
tập trung xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao năng lực giao tiếp, phát triển và làm
giàu vốn từ giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập, hòa nhập với cuộc sống
xung quanh. Từ đó giúp các em học tốt hơn môn Tiếng Việt cũng như các môn học
khác trong nhà trường.
3


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu sơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn có liên quan tới đề tài nghiên cứu:
Xây dựng một số biện pháp nhằm năng cao kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 3
Trường Tiểu học Chiềng Sinh.
Thiết kế thể nghiệm để khẳng định tính khả thi của biện pháp nâng cao kỹ năng
giao tiếp cho học sinh tiểu học mà đề tài nghiên cứu.
Xử lý kết quả nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu một số biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học
Trường Tiểu học Chiềng Sinh.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 3A1, 3A2, Trường Tiểu học Chiềng Sinh – Thành phố Sơn La.
6. Phạm vi đề tài
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn về kỹ năng giao tiếp của học sinh.
Nghiên cứu một số biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học.
Do thời gian và điều kiện hạn chế nên tôi – người thực hiện công việc nghiên
cứu chỉ khảo sát và thể nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giao tiếp ở
ba phân môn của Tiếng Việt: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn cho học sinh lớp
3, Trường Tiểu học Chiềng Sinh.
7. Giả thiết khoa học
Dạy học tiếng Việt theo định hướng giao tiếp hiện ở các trường tiểu học là vấn

đề quan trọng nhằm phát triển lời nói cho học sinh. Đối với học sinh Trường Tiểu học
Chiềng sinh – Sơn La đây là vấn đề chưa thục sự được quan tâm, nhiều giáo viên chưa
nhận thức được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng và phát triển giao tiếp cho học sinh
trong khi dạy tiếng Việt cho các em.
Nếu đề tài đề xuất được biện pháp phù hợp sẽ giúp các em tự tin hơn khi sử
dụng ngôn ngữ tiếng Việt vào trong giao tiếp, từ đó giúp các em linh hoạt trong tư duy
và phát triển trí tuệ học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác trong nhà trường tiểu học.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận

4


Nghiên cứu tài liệu liên quan tới đề tài, đọc và hệ thống hóa liên quan đến cơ sở
lí luận của vấn đề nghiên cứu và tài liệu lien quan đến cơ sở hình thành và nâng cao kỹ
năng giao tiếp cho học sinh tiểu học.
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Dự giờ, quan sát và khảo sát thực trạng dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao
tiếp của giáo viên và học sinh lớp 3, Trường Tiểu học Chiềng Sinh – Sơn La.
Thể nghiệm sư phạm, thống kê kết quả điều tra, phân tích mô tả kết quả nghiên cứu.
9. Đóng góp đề tài
Về lí luận: Khẳng định dạy tiếng Việt phải chú ý tới dạy kỹ năng giao tiếp cho
học sinh; đề xuất các biện pháp dạy học theo tinh thần tích cực, quan điểm giao tiếp;
khẳng định đổi mới phương pháp dạy học hiện đại.
Về thực tiễn: Khảo sát, đánh giá thể nghiệm, thiết kế thể nghiệm.
Nhằm góp phần hoàn thiện mô hình bài giảng giờ học tiếng Việt theo quan
điểm giao tiếp.
10. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm
các chương.

Chương 1: Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Đề xuất biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học
Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm chứng minh tính khả thi của biện pháp
đã đề xuất.

5


Phần II: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Kỹ năng
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó
phát sinh trong cuộc sống. Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng, có lẽ không có
cơ sở lý thuyết nài tốt hơn hai lý thuyết về: phản xạ có điều kiện (được hình thành
trong thực tế cuộc sống cá nhân) và Phản xạ không điều kiện (là những phản xạ tự
nhiên sinh ra đã sẵn có). Trong đó kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là
phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi một cá nhân sinh ra,
trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế cuộc sống. Ví dụ: Kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng làm việc nhóm… Người ta phân kỹ năng thành hai loại cơ bản là: Kỹ năng cứng
và Kỹ năng mềm. Kỹ năng cứng là kỹ năng mà chúng ta có được do dduuowcj đào tạo
từ nhà trường hoặc tự học, đây là kỹ năng có tính nền tảng. Kỹ năng mềm là loại kỹ
năng vô cùng phong phú và quan trọng. Để thành công trong cuộc sống, chúng ta cần
có hai loại kỹ năng cứng và kỹ năng mềm, cần phải vận dụng linh hoạt và phù hợp hai
loại kỹ năng cơ bản trong cuộc sống và công việc. Dựa vào những điều trên chũng ta
có thể định nghĩa kỹ năng như sau: “Kỹ năng là năng lực (khả năng) của chủ thể thực
hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh

nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi”.
1.1.1.2. Giao tiếp
Giao tiếp là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện sự
tiếp xúc tâm lý giữa con người với con người. Thông qua đó con người trao đổi với
nhau thông tin, cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại tác động với nhau. Nói
cách khác, “giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các mối quan hệ người với
người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác”[4.Trang 38].
Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xảy ra với các hình
thức khác nhau.
- Giao tiếp các nhân với cá nhân.
6


- Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm.
- Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng…
Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất cá nhân. Tính chất xã
hội của giao tiếp thể hiện ở chỗ, nó được nảy sinh, hình thành trong xã hội và sử dụng
các phương tiện do con người tào ra, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính
chất cá nhân được thể hiện ở nội dung phạm vi, nhu cầu, phong cách, kỹ năng… giao
tiếp của mỗi người.
Giao tiếp có nhiều chức năng
Chức năng thông tin: Qua giao tiếp, con người trao đổi, truyền đạt tri thức kinh
nghiệm với nhau. Mỗi các nhân vừa là nguồn phát thông tin vừa là nơi tiếp nhận thông
tin. Thu thập và xử lý thông tin là một con đường quan trọng để phát triển nhân cách.
Chức năng cảm xúc: Giao tiếp không chỉ thể hiện cảm xúc, mà còn tạo ấn
tượng, những cảm xúc mới giữa các chủ thể. Vì vậy giao tiếp là một trong những con
đường hình thành tình cảm con người.
Chức năng nhận thức lẫn nhau, đánh giá lẫn nhau: Trong giao tiếp mỗi cá nhân
bộc lộ quan điểm, tư tưởng, thái độ, thói quen… của mình, do đó các chủ thể có nhận
thức được về nhau và làm cơ sở đánh giá lẫn nhau. Điều quan trọng hơn là trên cơ sở

so sánh với người khác và ý kiến đánh giá của người khác, mỗi chủ thể có thể đánh giá
được bản thân mình.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Trên cơ sở nhận thức lẫn nhau, đánh giá lẫn
nhau và tự đánh giá được bản thân. Trong giao tiếp, mỗi chủ thể có khả năng tự điều
chỉnh hành vi của mình, cũng như có thể tác động đến động cơ, mục đích, quá trình ra
quyết định và hành động của chủ thể khác.
Chức năng phối hợp hoạt động: Nhờ có quá trình giao tiếp, con người có thể
phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ nào đó nhằm đạt tới mục tiêu
chung. Đây là một chức nang giao tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu chung của xã hội hay
của nhóm người.
Tóm lại, giao tiếp là quá trình quan hệ, tác động qua lại giữa con người với con
người, trong đó con người trao đổi thông tin, mục đích, cảm xúc, nhận thức, đánh giá
và điểu chỉnh hành vi lẫn nhau, đồng thời điều chỉnh hành vi của mình.

7


1.1.1.3. Kỹ năng giao tiếp
“Giao tiếp là một nghệ thuật. Các nghiên cứu cho thấy 85% thành công trong
cuộc sống của chúng ta có liên quan trực tiếp đến kỹ năng giao tiếp. Chúng ta không
thể đơn phương độc mã trên hành trình đến thành công. Điều phân biệt những người
thành công và kẻ thất bại chính là người thành công có khả năng thu phục nhân tâm
để phát huy tiềm lực cá nhân và tận dụng sức mạnh của người khác” (Leil, 2010). Câu
nói trên đã khái quát về tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp, ứng xử khôn khéo và
thu phục lòng người. Kỹ năng này là một tập hợp những qui tắc, nghệ thuật, cách ứng
xử, đối đáp được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày guips mọi người giao tiếp
hiệu quả thuyết phục hơn khi áp dụng thuần thục kỹ năng giao tiếp. Có thể nói kỹ năng
giao tiếp đã được nâng lên thành nghệ thuật giao tiếp bởi trong bộ kỹ năng này có rất
nhiều kỹ năng nhỏ khác như kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thấu hiểu, kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ cơ thể, kỹ năng sử dụng ngôn từ, âm điệu… Để có được kỹ năng giao tiếp

tốt đòi hỏi người sử dụng phải thực hành thường xuyên, áp dụng vào mọi hoàn cảnh
mới có thể cải thiện tốt kỹ năng giao tiếp của mình.
Đây là kỹ năng không những liên quan đến qui tắc ứng xử mà còn liên quan đến
cách hình thành ngôn ngữ đúng, làm thế nào để sử dụng ngôn ngữ phát ngôn thích hợp
và vai trò của ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội. Kỹ năng này ở học sinh tiểu học nói
chung và học sinh lớp 3 nói riêng còn rất nhiều khó khăn khi nõi và viết. Khó khăn lớn
nhất là hả năng diễn đạt trong lời nói và khả năng tiểu kết câu trong lời viết nhất là đối
với học sinh tiểu học miền núi như học sinh Trường Tiểu học Chiềng Sinh - Sơn La.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc dạy Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý của học sinh
Môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình
thành kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng rất
nhiều kết quả của Tâm lý học. Đó là các qui luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng,
kỹ xảo. Thầy giáo cần biết, sản phẩm lời nói được sản sinh ra thế nào, quá trình đọc
được thiết lập từ những yếu tố nào, khái niệm ngữ pháp được hình thành như thế ở trẻ
em ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư duy ra sao, kỹ năng nói, viết
được hình thành thế nào… Tâm lý học đưa ra cho phương pháp những số liệu cụ thể
về quá trình nắm lời nói, về việc nắm ngữ pháp. Nhứng nghiên cứu tâm lý học cho
phép xác định mức độ vừa sức của tài liệu học tập.
8


Để qua trình giao tiếp đạt được hiệu quả cao thì yếu tố tâm lý cũng đóng vai trò
rất quan trọng. Ở giai đoạn này, các em vừa chuyển từ hoạt động chính là vui chơi
sang hoạt động chính là học tập. Mặc dù các em bước đầu đã biết sử dụng ngôn ngữ để
học tập và giao tiếp, tuy nhiên quá trình giao tiếp giữa học sinh và giáo viên, giữa học
sinh với bạn bè xung quanh còn gặp một số trở ngại nhất định. Học sinh Trường Tiểu
học Chiềng Sinh có rất nhiều em là người dân tộc thiểu số, vốn từ ngữ tiếng Việt còn
hạn chế, các em còn sử dụng tiếng mẹ đẻ làm ngôn ngữ giao tiếp chính. Điều đó gây
trở ngại lớn cho việc hòa nhập cuộc sống cộng đồng của các em trong môi trường nhà

trường và môi trường xã hội. Đây là đặc điểm tâm lý rất quan trọng mà mỗi người giáo
viên cần nắm bắt để có phương pháp giảng dạy phù hợp với từng học sinh. Định
hướng đổi mới phương pháp phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học là phát huy
tích cực, chủ động, sang tao của học sinh nhằm tạo môi trường rèn luyện cả bốn kỹ
năng sử dụng tiếng Việt kỹ năng nghe - nói - đọc - viết.
Muốn vậy giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh như: quan
sát thực hành giao tiếp, thảo luận, đóng vai… để chiếm lĩnh được kiến thức mới thông
qua đó rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Ứng với quan điểm này sẽ cí hệ
thống phương pháp dạy học cụ thể. Việc lựa chọn phương pháp nào phù hợp vào từng
đối tượng học sinh, theo từng bài dạy, điều kiện vật chất của mỗi địa phương,… mới
đạt hiệu quả cao trong việc nâng cao năng lực giao tiếp cho học sinh nói riêng và nâng
cao chất lượng giáo dục nói chung. Theo các nhà nghiên cứu tâm lí trẻ em, từ bảy tuổi
trỏ đi tư duy trẻ em có thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ cũng thay đổi. Thời điểm
này, trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất trong việc giúp các em
phát triển vốn từ, mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã hội, dần hình thành tư tưởng đạo
đức, tình cảm tốt đẹp… do đó việc học tiếng Việt và rèn kyc năng tiếng Việt ở tiểu học
cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ của học sinh để tiếp
tục phát huy vốn ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, tu duy cho học sinh tiểu là công việc
quan trọng của mỗi nhà giáo. Đặc điểm của Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu
học bị quy định bởi đặc điểm của học sinh lứa tuổi này.
Học sinh Trường Tiểu học Chiềng Sinh đa dạng về thành phần dân tộc vì vậy
cũng khá đa dạng về hoàn cảnh sống, phần lớn gia đình các em là nông dân có hoàn
cảnh còn khó khăn nên thời gian học tập còn ít, hơn nữa gia đình các em cũng chưa có
điều kiện quan đúng mức tới việc học của các em, đặc biệt là khả năng giao tiếp. Vì
9


vậy môn Tiếng Việt là môn quan trọng và cơ bản nhất giúp các em có cơ hội thể hiện
khả năng giao tiếp của mình, nhất là các em dân tộc thiểu số. Nắm bắt được đặc điểm
này người giáo viên phải linh hoạt và tích cực tạo điều kiện để các em có thể được

giao tiếp tích cực, mở rộng vốn từ của mình để các em được phát triển toàn diện qua
việc tích hợp các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mới.
1.1.2.2. Đặc điểm giao tiếp của học sinh tiểu học
a. Đặc điểm giao tiếp của học sinh tiểu học
Đặc điểm của Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học quy định bởi đặc
điểm của học sinh lứa tuổi này. Giao tiếp giúp các em học tập tốt hơn, mở rộng tầm
hiểu biết của mình. Trong quá trình học tập đa số các em đều có hứng thú học tập, yêu
thích môn học. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng nhiều học sinh còn ngại phát biểu trong
giờ học tiếng Việt, không dám bày tỏ quan điểm của mình với banh bè, thầy cô giáo,
ngại giao tiếp với người lạ. Điều đó làm các em cảm thấy tự ti vào bản thân mình, dẫn
đến học tập không sôi nổi, ngày càng thu mình với mọi người
Đa phần các em học sinh tiểu học đều biết sử dụng tiếng Việt thành thạo khi
viết, nói nhờ đó các em có khả năng tự khám phá kiến thức, tìm hiểu thế giới xung
quanh. Tuy nhiên vẫn còn nhiều em gặp khó khăn khi sử dụng tiếng Việt. Các em còn
mắc lỗi về dùng từ, phát âm, đặt câu,… đặc biệt là học sinh dân tộc vùng cao. Học
sinh đầu tiểu học những lỗi tiếng Việt này càng phổ biến vì các em gặp khó khăn trong
việc chuyển chữ viết thành lời nói, vốn sống của các em còn ít, chưa được gia đình
quan tâm. Từ phân tích trên giáo viên cần quan tâm phát huy yếu tố tích cực và hạn
chế những tiêu cực trong giao tiếp của học sinh tiểu học, giúp các em phát triển ngày
càng tiến bộ, hòa nhập cuộc sống tốt hơn.
b. Đặc điểm giao tiếp của học sinh Trường Tiểu học Chiềng Sinh
Đặc điểm về vốn từ: Qua quá giao tiếp và kiểm tra phiếu điều tra với các em
học sinh tôi nhận thấy rằng các em học sinh có vốn từ tương đối phong phú, các em đã
biết sử dụng khá thành thạo tiếng Việt khi giao tiếp, một số em có vốn từ ngữ phong
phú hơn khi trò chuyện giao tiếp. Bên cạnh các em giao tiếp tốt nhiều em vẫn còn hạn
chế về ngôn ngữ giao tiếp. Đa số là các em dân tộc nên bị ảnh hưởng nặng bởi tiếng
mẹ đẻ, trong khi giao tiếp còn phát âm chưa chuẩn nhiều từ, tiếng như : l – đ (lần –
đần), v – b (vào – bào), th – t (thứ - tứ), n – l (no đói – lo đói),… hoặc khi nói chuyện

10



với người lớn nhiều em còn nói trống không không có đầu có cuối.Ví dụ khi tôi trò
chuyện với một em học sinh như sau:
A: Em đang luyện viết bài gì vậy?
B: Ích, ếch
A: Em viết có tiến bộ hơn rồi đấy!
B: Cảm ơn
Khi trao đổi với giáo viên về khả năng diễn đạt của học sinh khi làm bài, cô
giáo cho biết có những em viết văn khá hay nhưng có những em bị bí từ khi diễn đạt
vấn đề làm cho bài văn trở nên lủng củng, khó hiểu.
Đặc điểm tâm lí: Sau khi khảo sát tôi nhận thấy rằng có đa số các em có hứng
thú trong học tiếng Việt, mạnh dạn phát biểu ý kiến. Bên cạnh đó, còn một số em chưa
mạnh dạn phát biểu ý kiến, chưa tích cực trong học tập, ngại giao tiếp với người khác.
Khi muốn nói chuyện với các em thì em đó lại tỏ ra ngại ngùng và muốn lảng tránh
không muốn nói chuyện cùng.
c. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận
thức, tình cảm, hành động) nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có quan hệ chặt
chẽ của chúng cũng như các hiện tượng tâm lí khác.
Nhận thức là hoạt đông đăc trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt
động của con người nhận thức – phản ánh được thể hiện xung quanh hiện thực của bản
thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung
quanh và với chính bản thân mình. Có thể nói rằng, nhờ nhận thức mà con người làm
chủ được tự nhiên, làm chủ được xã hội và làm chủ chính bản thân mình.
Nhận thức gồm hai giai đoạn: nhận thức Nhận thức của học sinh tiểu học là
nhận thức cảm tính (đây là mức độ nhận thức đầu tiên, mức độ nhận thức thấp nhất
của con người, nó được phát triển dần theo từng lớp học). Các em nhận thức mọi thứ
xung quanh mình bằng trực giác, cụ thể, chưa nắm bắt được bản chất bên trong của sự
vật. Phát triển kĩ năng nhận thức là chỉ số của sự phát triển tâm lí trẻ em. Vì vậy, mỗi

giai đoạn lứa tuổi có những đặc điểm phát triển riêng. Trong điều kiện sống và hoạt
động mới của cuộc sống nhà trường, dựa trên nền tảng của những thành tựu phát triển
về mọi mặt của các giai đoạn lứa tuổi trước đời sống tâm lí của học sinh tiểu học có
những biến đổi và phát triển để làm nên “chất tiểu học” trong mỗi đúa trẻ. Sự biến đổi,
11


phát triển này diễn ra trên tất cả các mặt của cấu trúc nhân cách cũng như mọi chức
năng tâm lí cảu các nhân trẻ, trong đó có nhận thức.
d. Đặc điểm chú ý của học sinh tiểu học
“Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để
định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động
tiến hành có hiệu quả”[1. Trang 137].
Sự chú ý của học sinh chưa bền vững, nhất là của học sinh các lớp đầu tiểu
học chủ yếu là chú ý không chủ định. Chú ý không chủ định được phát triển mạnh mẽ
và chiếm ưu thế ở học sinh tiểu học. Trong quá trình học tâp (nhất là môn Tiếng Việt),
những điều mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ đều dễ dàng cuốn hút sự chú ý của trẻ mà không
cần bất kì sự nỗ lực nào của chú ý.
Môn Tiếng Việt mang lại cho các em rất nhiều điều hấp dẫn thông qua cả kênh
hình và kênh chữ. Đó là hệ thống vô cùng phong phú của các hình ảnh trong mỗi bài
họ, dù là bài tập đọc, tập viết, luyện từ và câu hay các phân môn khác đều có hình ảnh
minh họa cho các em rất sinh động. Học tiếng Việt các em còn được nghe kể về các
câu chuyện ở những miền xa xôi, mới lạ mà các em chưa tùng biết đến. Giaos viên cần
khaithacs hết những thuận lợi này để cuốn hút các em vào bài học cũng chính là khắc
phục khó khăn về duy trì khả năng chú ý của học sinh trong các giờ học tiếng Việt.
d. Đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học
“Tư duy là một quá trìn tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ, quan hệ bên trong có quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách
quan mà trước đó ta chưa biết”[1. Trang 122].
Đặc điểm nổi bật trong tư duy của học sinh tiểu học là chuyển từ tính trực quan,

cụ thể sang trừu tượng, khái quát. Tư duy của học sinh các lớp đầu cấp tiểu học là tư
duy cụ thể dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng. Còn tư duy của học sinh
các lớp cuối tiểu học đã thoát ra khỏi tính chất trực tiếp của tri giác và mang dần tính
trừu tượng, khái quát. Đặc điểm này được thể hiện rõ trong mọi khía cạnh tư duy của
các em. Các nghiên cứu cho thấy rằng thao tác phân tích và tổng hợp của học sinh các
lớp đầu tiểu học còn sơ đẳng. Các em tiến hành hoạt động này chủ yếu bằng hoạt động
thực tiễn khi tri giác trục tiếp đối tượng. Các lớp đầu tiểu học trẻ còn tiếp nhận các dấu
hiệu bên ngoài và đượm màu sắc xúc cảm như là các dấu hiệu chung, bản chất của
chúng mà dựa vào những dấu hiệu chung giống nhau ngẫu nhiên hay chức năng. Đó
12


cũng là nguyên nhân của những sai lầm thường xảy ra ở trẻ trong quá trình lĩnh hội
khái niệm. Trong quá trình lĩnh hội khái niệm, đặc điểm tư duy của các em cũng được
thể hiện khá rõ, các em có thể hình thành những khái niệm từ đơn giản đến phức tạp.
Từ những phân tích về đặc điểm tâm lí của học sinh nói trên ta thấy nó ảnh
hưởng quan trọng đến khả năng tiếp thu bài học của học sinh. Mỗi bài học phải có các
phương pháp linh hoạt, cách tổ chức sang tạo, luôn có sự mới mẻ thì mới kích thích
được sự hứng thú của các em học tập. Đặc điểm tâm lí đó giáo viên cần trực tiếp nhập
vai vào trong mỗi câu chuyện dù là bài tập đọc hay bài kể chuyện để các em thể hiện
vai của nhân vật, biến câu chuyện thành tình huống thực tế. Như vậy, các em mới
mạnh dạn hơn, hòa đồng hơn và tự tin hơn với cuộc sống gia đình, nhà trường và xã hội.
1.1.3. Cơ sở triết học Mác – Lênin về chức năng của ngôn ngữ
Triết học Mác – Lênin là cơ sở Phương pháp luận của phương pháp dạy học
tiếng Việt, nó quyết định phương hướng chung của phương pháp dạy học tiếng Việt.
Triết học Mác – Lênin giúp ta hiểu được đối tượng của phương pháp dạy học tiếng
Việt một cách sâu sắc, trang bị cho chúng ta phương pháp nghiên cứu đúng đắn.
Lênin đã nói rằng: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài
người”. Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất và là phương tiện giao tiếp đặc trưng của loài người. Không có

ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại. Nếu ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, trao đổi tư
tưởng, tình cảm thì nghiên cứu nó phải nghiên cứu hệ thống hoạt động chức năng.
Mục đích của nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trường là phải để cho học sinh sử dụng
ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp. Vì vậy, phát triển năng lực giao tiếp
bằng ngôn ngữ (phát triển lời nói) là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học trong
nhà trường. Đồng thời, vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp nên phải lấy hoạt động
giao tiếp làm phương tiện để dạy và học tiếng Việt. Vậy Lênin đã chỉ ra chức năng
giao tiếp của ngôn ngữ. Đó là phương tiện giao tiếp quan trọng và ưu việt nhất của con
người. Nó hơn hẳn các phương tiện giao tiếp khác về tiện lợi và tính hiệu quả đối với
hiệu quả giao tiếp. Không một phương tiện giao tiếp nào (cử chỉ, các loại kí hiệu, các
tác phẩm nghệ thuật…) có thể thay thế được ngôn ngữ. Chỉ có ngôn ngữ mới truyền
đạt được những nội dung, yêu cầu chính xác, rõ ràng. Chỉ có ngôn ngữ mới có thể
truyền đạt được những cung bậc cảm xúc tinh tế, sâu sắc nhất của con người. Chỉ có

13


ngôn ngữ mới đáp ứng được những nhu cầu giao tiếp phong phú, sinh động và đa dạng
của con người.
Ngôn ngữ luôn luôn gắn bó chặt chẽ với tư duy “Ngôn ngữ là hiện thực trực
tiếp của tư tưởng” (C.Mác). Ngôn ngữ là phương tiện của nhận thức logic, lí tính. Tư
duy của con người không thể phát triển nếu thiếu ngôn ngữ. Việc chiếm lĩnh ngôn ngữ
nhằm tạo ra những tiền đề để phát triển tư duy. Phải thường xuyên luyện tập cho học
sinh khả năng diễn đạt tư tưởng của mình bằng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau.
Lời nói cần có nội dung, đó chính là tư duy. Tư duy tốt thì giao tiếp sẽ tốt.
Nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin dạy rằng: Con đường biện chứng của
nhận thức chân lí khách quan đi qua hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lí
tính, đông thời cũng chỉ ra thực tiễn là cuội nguồn, động lực của nhận thức, cũng là
tiêu chuẩn của chân lí, là đỉnh cao và mục đích cuối cùng của nhận thức. Đây là cơ sở
của nguyên tắc trực quan trong dạy học tiếng Việt và cũng là cơ sở đề ra nguyên tắc

phải tính đến đặc điểm của tiếng mẹ đẻ của học sinh trong quá trình dạy học tiếng Việt.
Ta thấy, tư duy của học sinh tiểu học là tư duy trực quan hình tượng, đi từ cụ
thể sinh động tới khái quát trừu tượng điều này buộc người giáo viên trong quá trình
giảng dạy phải lựa chọn phương pháp trực quan phù hợp với đối tượng học sinh thì
mới đạt được hiệu quả học tập.
1.1.3.1. Những quan điểm giáo dục hiện đại
a. Quan điểm về người dạy - người học
Theo quan điểm giáo dục hiện đại hiện nay về quan điểm người dạy – người
học đã có sự thay đổi, nhằm phát huy tối đa khả năng và tính tích cực của người học.
Quan điểm đó được biểu hiện cụ thể như sau:
Quan điểm về người dạy
Hiện nay, theo chương trình cải cách giáo dục hiện đại thì giáo viên không còn
là trung tâm của quá trình dạy học mà chỉ là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học
tập của học sinh dẫn dắt các em nắm bắt tri thức có hiệu quả bằng nhiều phương pháp
như: phương pháp luyện tập theo mẫu. phương pháp, phương pháp trò chơi học tập,
phương pháp giao tiếp,… Các phương pháp dạy học này được giáo viên vận dụng một
cách linh hoạt giúp đem lại hiệu qảu tốt hơn cho học sinh, đặc biệt giúp các em rèn
luyện kỹ năng nghe – nói – đọc – viết thành thạo, các em được hướng dẫn kỹ năng
giao tiếp trong trường học và ngoài cuộc sống xung quanh. Do đó, người dạy đóng vai
14


trò quan trọng từ định hướng dạy học sinh phát âm, lựa chọn ngôn ngữ, cách diễn đạt
sao cho phù hợp với hoàn cảnh và tình huống giao tiếp.
Quan điểm về người học
Theo quan điểm giáo dục hiên đại, học sinh là trung tâm của quá trình dạy học.
Lấy học sinh làm trung tâm có nghĩa là dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên học
sinh sẽ phải tự mình tham gia vào quá trình học tập, các em phải tự mình tìm tòi, khám
phá tri thức của bài học. Với quan điểm giáo dục này, việc tìm hiểu kiến thức sẽ phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong quá trình học các em sẽ cùng

nhau tham gia thảo luận để tìm ra tri thức mới và khi có những thắc mắc các em sẽ nhờ
đến thầy cô giáo giải đáp vấn đề, chính nhờ quá trình trao đổi mà học sinh sẽ tạo ra và
tiếp thu ngôn ngữ giao tiếp, lời nói diễn đạt trau chuốt, phong phú hơn. Từ đó, khả
năng giao tiếp của các em tốt hơn và các mà kiến thức sẽ được khắc sâu hơn trong tâm
trí của các em.
Theo quan điểm triết học Mác- Lênin “ngôn ngữ là phương tiện để tư duy” do
vậy để có thể tư duy sáng tạo thì vốn từ của các em phải phong phú và ngược lại khi
vốn từ của các em phong phú thì khả năng giao tiếp của các em sẽ tốt hơn, từ đó giải
quyết các yêu cầu của giáo viên tốt hơn. Như vậy quan điểm giáo dục hiện đại góp
phần vào việc nâng cao năng lực giao tiếp cho các em, rèn cho các em khả năng tự tin,
trình bày tốt các vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống.
b. Các nguyên tắc dạy học hiện đại
Theo quan điểm dạy học hiện đại hiện nay thì việc dạy học phải hướng đến lấy
người học làm trung tâm, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho người học muốn vậy phải
đổi mới cách thức dạy và học. Phải có phương pháp dạy học mới để phát huy tối đa
tính tịch của người học. Tuy nhiên cũng không phủ nhận hoàn toàn các phương pháp
dạy học cũ mà là sự kết hợp nhịp nhàng giữa phương pháp mới và cũ để bổ sung và
khắc phục nhược điểm cho nhau. Một số phương pháp dạy học hiện đại như: phương
pháp rèn luyện theo mẫu, giao tiếp, phân tích ngôn ngữ, thảo luận nhóm, trò chơi học tập.
b1. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp giáo viên rèn cho học sinh
dựa theo mẫu lời nói để giải quyết các bài tập, rèn kỹ năng hoặc tạo ra lời nói của
mình. Các em dựa vào đơn vị ngôn ngữ, lời nói mô phỏng của giáo viên, sách giáo
khoa để tạo ra lời nói của mình. Phương pháp này có nhiều dạng bài tập khác nhau: đặt
15


câu theo mẫu, luyện phát âm, đọc diễn cảm theo mẫu của giáo viên. Những phương
pháp này đều được sử dụng nhiều nhất trong phân môn tập đọc, tập làm văn, kể
chuyện, luyện từ và câu. Giáo viên cần nắm vững mục tiêu dạy học của từng bài, có

khả năng tạo mẫu lời nói, nắm được điểm sai lệch của học sinh để uốn nắn, có phương
pháp phù hợp để chuyển sai lệch của học sinh về đúng mẫu lời nói.
Người giáo viên muốn thực hiện phương pháp này muốn tổ chức tốt thì cần tạo
ra những mẫu lời nói chính xác, hấp dẫn để học sinh làm theo, không nên chỉ dựa vào
mẫu sách giáo khoa sẽ làm học sinh nhàm chán, không tạo sự phong phú trong lời nói.
Chỉ có như vậy mới góp phần phát triển khả năng giao tiếp cho học sinh.
b2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, học sinh phát hiện ra các hiện tượng ngôn ngữ nhất định để phát hiện đặc trưng
của chúng, được sử dụng ở tất cả các phân môn của Tiếng Việt. Đây là phương pháp
giúp các em nắm bắt được các mặt của ngôn ngữ: ngữ âm, ngữ pháp, chính tả, cấu tạo
từ,… với mục đích làm rõ các kiểu cấu trúc ngôn ngữ, hình thức và cách cấu tạo, ý
nghĩa của từ trong lời nói giao tiếp. Phương pháp này gồm các bước: quan sát ngôn
ngữ, phân tích ngữ âm, phân tích ngữ pháp, phân tích chính tả,… đó cũng là bộ phận
tạo thành các dạng bài tập, giúp các em nắm vững cấu tạo từ, viết chính tả không bị
nhầm lẫn khi sử dụng từ.
Phương pháp này là phương pháp cơ bản và quan trọng giúp các em hiểu nghĩa
của từ, dùng từ trong giao tiếp. Bởi lẽ, hiểu nghĩa của từ thì các em mới sử dụng hiệu
quả trong từng hoàn cảnh giao tiếp. Vì vậy, giáo viên phải đặc biệt coi trọng tới việc
phân tích ngôn ngữ, cấu tạo, ý nghĩa của từ trong quá trình học tập của học sinh.
b3. Phương pháp giao tiếp
Phương pháp giao tiếp là phương pháp giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng
những kiến thức sơ giản đã học và thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp cụ thể bằng tiếng
Việt. Đây là phương pháp đặc trưng của tiếng Việt bởi “ngôn ngữ là phương tiện quan
trọng nhất của loài người”. Tất cả quá trình dạy học tiếng Việt ở các cấp học đều cần
được tổ chức như một quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Gíao viên phải tạo ra các tình
huống giao tiếp để kích thích nhu cầu giao tiếp ở học sinh. Định hướng cho các em sử
dụng ngôn ngữ trong hoàn cảnh giao tiếp xác định. Hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn
ngữ diễn đạt để tạo ra lời nói. Sau khi hướng dẫn học sinh thể hiện khả năng của mình,
16



giáo viên hướng dẫn các em nhận xét, đánh giá về chính bản thân và bạn bè. Do đó
phương pháp giao tiếp là phương pháp dự vào lời nói, vào những thông báo sinh động,
vào tổ chức quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách hiệu quả trong những tình
huống giao tiếp cụ thể. Dạy học tiếng Việt theo phương pháp dạy học phát triển lời nói
cho cá nhân học sinh.
Phương pháp giao tiếp này coi trọng sự phát triển lời nói trong khi giao tiếp.
Đây có thể coi là phương quan trọng, tạo điều kiện tốt cho học sinh được thực hành
giao tiếp, được vận dụng các dạng lời nói đa học vào từng hoàn cảnh cụ thể. Do đó, để
nắm bắt được năng lực giao tiếp của từng học sinh, giáo viên nên dành nhiều thời gian,
tạo đều kiện cho các em học tốt hơn.
b4. Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là phương pháp đưa ra vấn đề sau đó chia lớp thành các nhóm
để thảo luận giải quyết vấn đề. Giáo viên phải tổ chức tốt hoạt động chia nhóm, phân
công công việc, báo cáo kết quả tổng kết. Có như vậy hoạt động nhóm mới thành
công, đạt hiệu quả cao. Thảo luận nhóm các em được trao đổi, bàn bạc, trình bày với
bạn bè những quan điểm, suy nghĩ của mình mà không ngại ngùng, lo sợ, đồng thời
các em cũng rèn luyện thói quen lắng nghe ý kiến của người khác. Đây cũng là
phương pháp rất tốt để rèn luyện tinh thần đồng đội, sự đoàn kết, gắn bó giữa các
thành viên trong nhóm với nhau. Vậy nó không chỉ rèn luyện kỹ năng nghe nói mà còn
góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em.
Đây là phương pháp hiệu quả để giáo viên rèn kỹ năng nghe – nói cho học sinh,
khi làm việc nhóm các em được trao đổi, bàn bạc nhờ đó mà vốn từ ngày càng phong
phú, ngôn ngữ sinh động tạo điều kiện để các em giao tiếp tốt hơn. Ngoài ra thảo luận
nhóm còn hình thành ở các em cách làm việc hợp tác với nhau.
b5. Trò chơi học tập
Trò chơi học tập là dạng hoạt động thông qua các trò chơi. Thường sử dụng sau
khi dạy học bài mới sau phần luyện tập. Trò chơi vừa giúp các em được giải trí, giảm
căng thẳng mệt mỏi vừa giúp các em củng cố kiến thức, đem lí thuyết vận dụng vào

thực tế. Phương pháp này sẽ nâng cao hứng thú học tập cho các em khắc sâu kiến thức.
Thông qua các trò chơi học tập học sinh sẽ được trao đổi, thảo luận ý kiến từ đó
khả năng giao tiếp của các em được nâng lên, đồng thời phương pháp trò chơi học tập
cũng các em mở rộng vốn từ, từ đó khả năng giao tiếp của của các em sẽ tốt hơn.
17


1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1.2.1.Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học và việc rèn kỹ năng giao tiếp (nói)
cho học sinh
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm:
1. Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe –
nói – đọc – viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
2. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và hiểu biết sơ
giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học, Việt Nam và nước ngoài.
3. Bồi dưỡng tình yêu tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng việt góp phần hình nhân cách con người Việt Nam XHCN[1.9].
Thực hiện mục tiêu trên, yêu cầu cần đạt đối với học sinh tiểu học riêng về môn
Tiếng Việt được qui định như trong bảng sau:
Bảng 1: Mục tiêu, yêu cầu cần đạt môn Tiếng Việt ở tiểu học
Lớp

Đọc

Viết

Nghe

Nói


1

Đọc đúng và rõ rang bài

Viết đúng chữ

Nghe hiểu lời

Nói rõ rang, trả

văn đơn giản (tốc độ

thường, chép

giảng và hướng

lời được câu

khoảng 30 tiếng/phút)

đúng chính tả

dẫn học tập của

hỏi dạng đơn

hiểu nghĩa và các từ

đoạn văn


giáo viên.

giản.

thông thường và ý của

(khoảng 30

câu đã học.

chữ/15 phút)

Đọc đúng và rành mạch

Viết đúng và đều

Nghe, hiểu

Nói thành câu,

bài văn (khoảng 50

nét các chữ

những câu nói

rõ ý, trả lời

tiếng/phút), nhận biết ý


thường, chữ hoa,

trong học tập,

đúng câu hỏi,

chính của đoạn văn,

viết bài chính tả

giao tiếp, ý

kể được một

đoạn thơ.

(khoảng 50

chính, nội dung

đoạn truyện đã

chữ/15 phút)

cưa câu

đọc hay sự việc

chuyện.


đã chứng kiến.

2

18


3

Đọc đúng và rành mạch

Viết đúng các

Nghe và hiểu ý

Nói đúng và rõ

bài văn (khoảng 70

chữ thường, chữ

chính lời nói

ý, biết hỏi và

tiếng/phút), nắm được ý

hoa viết bài


của người đối

nêu ý kiến cá

chính của bài.

chính tả (khoảng

thoại.

nhân, kể được

70 chữ/15 phút).

một đoạn

Biết thu ngắn

truyện đã học,

theo mẫu, kể lại

đã nghe hay

chuyện theo

việc đã làm.

tranh, kể lại công
việc đã làm.

4

Đọc rành mạch lưu loát

Viết đoạn văn và

Nghe và kể lại

Nói rõ một ý

bài văn (khoảng 120

bài văn kể truyện

được câu

kiến khi phát

tiếng/phút). Đọc biểu

ngắn.

chuyện một

biểu, bước đầu

cách diễn cảm.

nói thành đoạn


cảm đoạn văn, đoạn thơ
hiểu nội dung và ý nghĩa

để thông báo

của bài học.

tin tức, sự việc
đã biết.

5

Đọc rành mạch, lưu loát

Viết bài văn

Biết lắng nghe

Biết dùng lời

bài văn (khoảng 150

miêu tả, bước

và biết làm rõ

nói phù hợp với

tiếng/phút). Đọc có biểu


đầu biết ghi chép

vấn đề của bài

qui tắc giao tiếp

cảm, rõ ràng bài văn.

đơn giản khi

văn. Có thể tự

khi bàn bạc,

nghe ý kiến hoặc

kể câu chuyện

trình bày ý

nghe kể chuyện.

về cuộc sống

kiến.

có ý nghĩa liên
quan đến bài
học.
Chương trình dạy học môn Tiếng Việt trong nhà trường đã có nhiều thay đổi.

Theo định hướng giao tiếp, việc dạy học tiếng Việt chú ý cả hai mặt: kỹ năng và kiến
thức. Về kỹ năng, chú ý rèn luyện cho học sinh các kỹ năng mà “trọng tâm là kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết trong đó tập trung hơn vào đọc và viết”[1.24]. Cần chú ý là kỹ
năng nghe trong các chương trình trước không được quan tâm, kỹ năng nói tuy có
19


được đề cập đến nhưng không có nội dung cụ thể để rèn luyện, không dành được thời
gian thỏa đáng để học sinh luyện nói.
Dạy kỹ năng sử dụng ngôn ngữ chương trình mới quan tâm đầy đủ đến cả ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết. Thòi gian dành cho hai mặt kỹ năng này được điều chỉnh
hợp lí, khoa học từ lớp dưới đến lớp trên.
Nội dung chương trình được thiết kế theo hai giai đoạn nhằm phù hợp với đặc
điểm nhận thức của học sinh. Giai đoạn thứ nhất dành cho các lớp 1, 2 – tập trung học
các kỹ năng đọc, viết và phát triển các kỹ năng nghe, nói nhằm đạt được những yêu
cầu cơ bản sau: Đọc thông thạo và hiểu đúng một văn bản ngắn, viết rõ ràng và đúng
chính tả các chữ thông thường, thông qua thực hành nhận biết được một số kiến thức
sơ giản về từ và câu.
Giai đoạn thứ hai dành cho các lớp 3, 4, 5. Nội dung của giai đoạn này, một mặt
phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết ở mức có ý thức cao hơn. Mặt khác, trang bị
cho học sinh một số kiến thức sơ giản về tiếng Việt trong đó chủ yếu là các kiến thức
về từ và câu để đọc nói, nghe, viết tốt hơn. Các em có nhiều cơ hội để luyện kỹ năng
giao tiếp tốt hơn, do các em được học nhiều phân môn khác nhau: tập đọc, luyện từ và
câu, tập làm văn,… các phân môn này đều tập trung nhiều vào thực hành giao tiếp, rèn
các kỹ năng tiếng Việt. Đặc biệt các em còn được rèn luyện các nghi thức lời nói: nói
lời cảm ơn, xin lỗi, nói trong các văn bản hành chính… Ngoài ra các em còn được rèn
các kỹ năng giao tiếp qua hình thức hỏi đáp, thảo luận, trò chuyện với bạn bè,… để trả
lời các câu hỏi trong bài học, nội dung chủ đề bài học, về bản thân mình, gia đình,…
hoặc cũng có thể là trao đổi về một vấn đề diễn ra trong cuộc sống xung quanh bản
thân các em.

Về kiến thức: “Các kiến thức về ngữ âm, chữ viết, chính tả, từ vựng, ngữ pháp
văn bản của tiếng Việt được đưa vào chương trình một cách tinh giản nhằm tạo sơ sở
cho việc thực hành các kỹ năng”[1.24].
Môn Tiếng Việt trong giao tiếp
Vấn đề này được quy định phương pháp dạy học tiếng Việt theo chương trình mới.
Với sự chuyển hướng của SGK theo chương trình mới, các em được đọc, kể,
nói, viết được nêu nhận xét đánh giá, được nhận thấy cái đúng, cái sai trong cách nói,
cách nhận xét đánh giá của mình để khẳng định mình cũng như tìm ra hướng mới cho
sự nhận xét đánh giá của bản thân. Nói một cách khác, phương pháp dạy học tiếng
20


Việt theo chương trình mới đã đưa người học lên vai trò trung tâm, đòi hỏi người học
phải chủ động, tích cực trong hoạt động lên lớp nhằm tự mình tìm đến với kiến thức,
kỹ năng dưới sự dẫn dắt của người thầy. Người thầy không đóng vai trò trung tâm trên
lớp mà rút về vai trò tổ chức, dẫn dắt, đánh giá hoạt động của người học. Yêu cầu này
đòi hỏi người thầy phải bỏ công sức nhiều hơn để hiểu đầy đủ, tỉ mỉ cho nội dung bài
học. Nếu như bài soạn trước đây là bài chuẩn bị cho tình huống giao tiếp có thể tạm
coi như một kịch bản mà người thầy là người tổ chức, hướng dẫn các em thực hiện và
cùng thực hiện với các em thì giờ đây bài soạn phải chuẩn bị cho nhiều tình huống
giao tiếp khác nhau. Như vậy ngay từ khi chuẩn bị bài, Người thầy đã phải lường trước
những tình huống có thể xảy ra và hướng giải quyết từng tình huống đó.
Ví dụ: Trong bài tập đọc “Cuộc chạy đua trong rừng” khi tìm hiểu xong nội
dung bài học có học sinh nói Ngựa con là “Ngựa con quá chủ quan”, có học sinh nói là
“Ngựa con quá ngu ngốc”, có em lại nói là “Ngựa con quá tự tin”,… Với mỗi tình
huống đặt ra như vậy, người thầy cần có cách giải thích thế nào để mỗi em đều thấy
thỏa đáng và tự tin về sự nhận xét và phát biểu của mình. Để khả năng giao tiếp của
học sinh đạt hiệu quả tốt hơn thông qua giờ học tiếng Việt phải tổ chức sử dụng những
hình thức tổ chức lớp học khác nhau theo từng bài học. Chính vì vậy, thầy cô cần
hướng dẫn học sinh, cần quan sát và giúp đỡ cho từng học sinh hoạt động có hiệu quả

bằng nhiều hình thức khác nhau như: trao đổi, thảo luận, thuyết trình, đóng vai,… có
lúc thầy, cô giáo lại tổ chức cho từng em làm việc với sự hỗ trợ của các thiết bị học tập
như: làm việc với SGK, phiếu học tập, bảng con,… Từ đó tạo điều kiện cho học sinh
có ngôn ngữ phong phú và lời nói diễn đạt được chau chuốt hơn trong qúa trình học tập.
1.2.2. Nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
Chương trình SKG Tiếng Việt cải cách giáo dục ở lớp 3 gồm có hai tập (tập 1 +
tập 2) gồm có 15 chủ điểm, các chủ điểm được học trong hai hoặc ba tuần.
* Tập 1: Gồm 8 chủ điểm có tên gọi như sau:
+ Măng non (tuần 1, 2)
+ Mái ấm (tuần 3, 4)
+ Tới trường (tuần 5, 6)
+ Cộng đồng (tuần 7, 8)
+ Quê hương tuần 10, 11)
+ Bắc – Trung – Nam (tuần 12, 13)
21


×