Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tuy hòa, tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.94 KB, 115 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã (HTX) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan
trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị
trường, HTX cũng được đổi mới cả về nội dung, hình thức hoạt động, biểu
hiện cụ thể ở việc ban hành Luật HTX (năm 1996). Tuy nhiên, trong thực tế
hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới của các HTX nông nghiệp vấp phải rất
nhiều khó khăn làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết 5 năm
thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5
khóa IX (3/2002) đã ra Nghị quyết về : Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT), trong đó nhấn mạnh Nhà nước phải tạo
điều kiện thuận lợi cho HTX nông nghiệp phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết
của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, kỳ họp thứ 4, Quốc hội
khóa XI (ngày 26/11/2003) đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX năm
2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004).
Đã hơn 2 năm trôi qua mà tinh thần của Luật HTX năm 2003 vẫn chưa
được phát huy mạnh mẽ trong thực tiễn. Điều đó cho thấy, để phát triển HTX,
trong đó có HTX nông nghiệp, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới chính sách.
Tỉnh Phú Yên nói chung, địa bàn Tuy Hòa nói riêng, là vùng có nền
kinh tế nông nghiệp tương đối phát triển ở đồng bằng duyên hải miền Trung,
có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng
hóa đa dạng. Để giúp nông dân khai thác triệt để tiềm năng ấy, cần phát triển
HTX trong nông nghiệp.
Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX năm 1996 và năm 2003 đến nay,
HTX nông nghiệp ở Tuy Hòa có bước phát triển mới, đã đáp ứng được một
phần nhu cầu của nông dân, của hộ sản xuất-kinh doanh nông nghiệp, đóng


góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của địa bàn. Tuy nhiên,
HTX nông nghiệp ở Tuy hòa cũng còn tồn tại một số yếu kém như: một số


HTX chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại của HTX còn hạn
chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho các xã viên chưa
nhiều, HTX nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò
kinh tế-xã hội vốn có của nó…
Những hạn chế yếu kém của HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn
Tuy Hòa có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về phía Nhà nước.
Để phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa phù hợp với nhu cầu và
tiềm năng, cần khắc phục những nguyên nhân đó.
Với những lý do nêu trên, “Phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới
trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” được tác giả chọn làm đề tài luận văn
thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp là một
trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong suốt quá trình
cách mạng XHCN ở nước ta, vấn đề HTX nông nghiệp là chủ đề được nhiều
cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi
và mức độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu như:
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, “Đổi mới tổ chức và quản lý
HTX trong nông nghiệp nông thôn”, Nxb Nông nghiệp, 1999. Các tác giả đã
khái quát tòan bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các
HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đến khi chuyển sang kinh tế thị
trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa
phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó phác họa một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng, “ Kinh tế hợp
tác, hợp tác xã ở Việt Nam- Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông


nghiệp, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các
lọai hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên thế giới và ở Việt Nam với những

thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ, “Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. Các tác
giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác,
HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác,
HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề
xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về “
Phát triển kinh tế hợp tác ở ngọai thành thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng
và giải pháp”. Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế
hợp tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về “
Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp”. Tác
giả trình bày vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập
thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.
- PGS.TS. Vũ Văn Phúc, “Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta”;
Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002.
Nguyễn Văn Tuất, “ Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long- Nhìn từ thực tiễn”; Tạp chí Khoa học về chính trị, 2002, số 3.
Một số bài viết của các tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa,
Hoàng Việt…
Nhìn chung, các công trình kể trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của
hợp tác xã nông nghiệp; trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001
chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, luận


giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mô hình HTX theo Luật HTX (1996);

các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển
của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Cho
đến nay chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTX nông nghiệp kiểu mới trên
địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là vận dụng lý luận HTX nông nghiệp để khảo
sát, đánh giá hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa,
tỉnh Phú Yên từ năm 1997 dến nay và đề xuất một số phương hướng, giải pháp
tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa trong thời gian tới.
Phù hợp với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Khái quát các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về HTX nông
nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2003 và Nghị quyết Hội nghị TW 5
(khóa IX).
- Phân tích thực trạng hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới ở địa
bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên từ 1997 đến nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển HTX nông nghiệp kiểu
mới ở Tuy Hòa-Phú Yên trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên. Thời gian nghiên cứu giới hạn từ năm 1997 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên
cứu khoa học có nội dung gần với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu; vận dụng phương pháp chung như:
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý


luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh,

khái quát vấn đề.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Phân tích có phê phán cơ sở lý thuyết của mô hình HTX nông nghiệp
kiểu mới ở nước ta.
- Phác họa bức tranh nhiều chiều về HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy
Hòa, Phú Yên.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển mạnh hơn nữa
HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa, Phú Yên trong thời gian tới.
7. Kết cấu của uận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI Ở NƯỚC TA
1.1. HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI THEO TINH THẦN
LUẬT PHÁP VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm hợp tác xã và phân loại hợp tác xã theo luật pháp
Việt Nam
* Khái niệm HTX ở một số nước:
HTX là một loại hình kinh tế hợp tác, là một tổ chức kinh tế có đặc thù
riêng. Ở nhiều nước trên thế giới, hợp tác xã đã hình thành và phát triển hơn
100 năm. Trong Luật hợp tác xã của các nước đều đưa ra định nghĩa về hợp
tác xã.
Luật Hợp tác xã của CHLB Đức định nghĩa: “ Hợp tác xã đăng ký là
những tập thể với đa số thành viên không hạn chế nhằm khuyến khích việc
sản xuất, kinh doanh của các thành viên, thông qua các cơ sở sản xuất, kinh

doanh chung”.
Luật Hợp tác xã của INĐÔNÊXIA định nghĩa: “Hợp tác xã INĐÔNÊXIA là
tổ chức kinh tế của nhân dân mang tính xã hội, gồm những người hoặc những
tổ chức ở địa phương và thành viên lập nên một hệ thống kinh tế như là nỗ
lực chung đặt trên cơ sở nguyên tắc của tình anh em”.
Luật Hơp tác xã của PHILIPPIN định nghĩa: “Hợp tác xã là sự hiểu biết
của những người có cam kết chung và tập hợp nhau lại một cách tự nguyện để
đạt được mục đích xã hội hoặc kinh tế chung, có sự đóng góp công bằng vào
vốn và chấp nhận phần đóng hợp lý vào các công việc và phần lợi ích của
việc kinh doanh theo nguyên tắc hợp tác xã đã được chấp nhận chung”.
Các nước: Thụy Điển, Canađa quan niệm HTX là một tập hợp gồm
những người có nhu cầu chung về kinh tế và xã hội để thành lập một doanh


nghiệp phù hợp với các nguyên tắc hoạt động của HTX, nhằm đáp ứng nhu
cầu của họ.
Như vậy, HTX là một tổ chức doanh nghiệp khác về cơ bản với công ty
cổ phần. Đặc trưng của HTX là thông qua hoạt động kinh doanh để liên kết
các thành viên với nhau và hạn chế phân chia lợi nhuận theo cổ phần đã đóng.
Từ những định nghĩa hợp tác xã nêu trên, có thể hiểu hợp tác xã là một tổ
chức kinh tế của những cá nhân, tập thể tự nguyện liên kết với nhau nhằm mục
đích chung, thoả mãn nhu cầu chung, nhằm hổ trợ, giúp đỡ lẫn nhau tiến hành
công việc kinh doanh có hiệu quả nhất theo nguyên tắc liên kết tự nguyện.
* Khái niệm Hợp tác xã ở Việt Nam:
Luật Hợp tác xã (năm 1996) đã nêu định nghĩa về Hợp tác xã:
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao
động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức
lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể
và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp

phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước [36, tr.8].
Theo định nghĩa này, HTX là một tổ chức kinh tế có tổ chức chặt chẽ, có
tư cách pháp nhân, được đăng ký kinh doanh theo qui định của luật pháp. Vì
vậy, mục tiêu của HTX trước hết là phải kinh doanh có hiệu quả, trên cơ sở
đó mà thực hiện các mục tiêu xã hội, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã
viên. HTX cũng là phương tiện để kết hợp sức mạnh của từng xã viên và sức
mạnh của cả tập thể, thông qua kết quả kinh doanh của HTX mà cải thiện đời
sống của xã viên và góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Để phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, Luật HTX
(năm 2003) đã đưa ra khái niệm HTX:
HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung,


tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của Luật này để
phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh
và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tếxã hội của đất nước.
HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách
pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính
trong phạm vị vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của
HTX theo qui định của pháp luật [12, tr.7-8].
Theo khái niệm này, ngoài những tính chất và đặc thù do Luật HTX
(năm 1996) qui định, HTX kiểu mới do các thành viên bao gồm cả thể nhân
và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức hoặc
góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc: tự nguyện, bình
đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. HTX được thừa nhận hoạt động theo
điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường như các thành phần
kinh tế khác; được khẳng định quyền “tự chủ” trong sản xuất kinh doanh;

được huy động “các nguồn vốn khác theo qui định của pháp luật” như các loại
hình doanh nghiệp khác. Trước đây, luật không qui định điều này.
Theo định nghĩa này, HTX được vay vốn bình đẳng như đối với doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế khác, các HTX được thế chấp bằng tài sản
hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và
vay theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, các HTX được tham gia các
chương trình dự án quốc gia của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước phải có hướng dẫn chỉ đạo chặt chẽ đối với các hoạt
động tín dụng trong nội bộ HTX; khuyến kích phát triển quỹ tín dụng nhân
dân một cách vững chắc.
Đây là tư tưởng đối mới của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện và giúp
đỡ kinh tế hợp tác và HTX phát triển.


* Phân loại HTX:
Từ các tiêu thức phân loại khác nhau đã hình thành nhiều loại hình
HTX với những đặc điểm và nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức, vai trò tác
dụng và tên gọi khác nhau tương ứng với những điều kiện cụ thể của từng loại
hình HTX.
Ở nhiều nước, người ta thường phân loại HTX theo mục đích, chức năng
hoạt động, theo đặc điểm về qui mô, tính chất và hình thức pháp lý. Có một số
nước việc xác định các loại hình HTX được nêu ngay trong Luật HTX như: Luật
HTX của Philippin, Inđônêxia, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Đức.…
Thông thường, có các loại hình HTX: HTX tín dụng; ngân hàng; HTX
sản xuất; HTX mua- bán; HTX đa chức năng; HTX dịch vụ; HTX sản xuất
tập trung; HTX cấp I; cấp II; cấp III; HTX trách nhiệm hữu hạn; HTX trách
nhiệm vô hạn v.v…
Trong tác phẩm: Đường Cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sử
dụng tên gọi các loại hình HTX: “HTX tiền bạc” (tín dụng, ngân hàng);
“HTX sinh sản” (sản xuất); HTX mua- bán.

Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, để phân loại HTX, thường căn
cứ vào chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hóa, qui mô và đặc
điểm hình thành HTX.
- HTX dịch vụ: bao gồm 3 loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ
tổng hợp đa chức năng và HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX dịch vụ
“chuyên ngành”.
+ HTX dịch vụ từng khâu còn gọi là HTX chuyên khâu có nội dung
hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng
khâu công việc trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất.
+ HTX dịch vụ tổng hợp- đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng,
gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản
phẩm (đầu ra), dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu,v.v…


+ Hợp tác xã dịch vụ “ đơn mục đích” hay hợp tác xã dịch vụ “chuyên
ngành”. Hợp tác xã loại này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên
cùng sản xuất – kinh doanh một loại hàng hóa tập trung hoặc cùng làm một
nghề giống nhau (HTX trồng rừng, HTX trồng mía, HTX trồng chè.v.v…).
Hợp tác xã thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung
ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản
phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với cơ sở chế biến, ngân hàng.v.v…
- Hợp tác xã sản xuất kết hợp dịch vụ.
Hợp tác xã loại này có đặc điểm: nội dung hoạt động sản xuất là chủ
yếu, dịch vụ là kết hợp.
- Hợp tác xã sản xuất-kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện.
Đặc điểm cơ bản của mô hình hợp tác xã lọai này là: cơ cấu tổ chức,
nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán, kiểm kê, kiểm soát,
phân phối theo nguyên tắc của Hợp tác xã kiểu mới và tương tự một “ doanh
nghiệp” tập thể.
+ Sở hữu tài sản trong hợp tác xã gồm hai phần: sở hữu tập thể và sở

hữu cổ phần. Xã viên hợp tác xã tham gia lao động trong hợp tác xã được
hưởng thu nhập theo nguyên tắc phân phối theo lao động và hưởng lãi cổ
phần (ngoài phúc lợi tập thể của HTX).
+ Hợp tác xã hoạt động sản xuất- kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận
nhằm phát triển kinh tế hợp tác xã và đem lại lợi ích cho xã viên.
+ Hợp tác xã lọai này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp xây
dựng, khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, nuôi trồng thủy sản, nghề làm
muối, đánh cá [4, tr. 24, 30].
1.1.1.2. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp. Các lọai hình hợp tác xã
nông nghiệp
* Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp
Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân và những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã


viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho
kinh tế hộ gia đình các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các ngành-nghề
khác; cải thiện đời sống xã viên; góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Ngoài những đặc điểm chung của HTX như:
Xã viên liên kết với nhau vì ít nhất một lợi ích chung và theo đuổi mục
tiêu cải thiện điều kiện kinh tế- xã hội của mình. Xã viên có cùng sở hữu và
mục đích của HTX là sử dụng có hiệu quả vốn quỹ, phục vụ hoạt động kinh tế
của xã viên. Lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX.
HTX nông nghiệp còn có những đặc điểm:
Là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân, những người
thường thiếu vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ dân trí thấp. Mặt khác,
đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi cho nên quá trình
hoạt động không những HTX nông nghiệp bị chi phối bởi các quy luật kinh tế

mà lại còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên.
Đây là những đặc điểm có ảnh hưởng nhất định đến kết quả hoạt động
của HTX nông nghiệp mà cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm để có biện
pháp giúp đỡ,hổ trợ HTX nông nghiệp phát triển.
* Các loại hình HTX nông nghiệp:
Theo cách phân loại đã nêu trên, có thể chia HTX nông nghiệp thành 3
loại hình:
- Hợp tác xã nông nghiệp chuyên ngành.
- Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ đơn thuần.
- Hợp tác xã nông nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ tổng hợp.
1.1.2. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp tác
xã năm 2003
1.1.2.1. Đặc trưng của mô hình hợp tác xã nông nghiệp mới
HTX nông nghiệp kiểu mới đăng ký hoạt động theo Luật HTX có sự
đổi mới về chất so với HTX kiểu cũ được thành lập trong cơ chế kế hoạch hoá


tập trung. Về chi tiết mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới có nhiều điểm
khác biệt so với HTX kiểu cũ. Dưới đây chỉ nêu lên những khác biệt cơ bản
nhất đó là:
- Về cách thức thành lập: HTX kiểu cũ được thành lập theo kiểu áp đặt
từ trên xuống. HTX nông nghiệp kiểu mới được thành lập do các thể nhân và
pháp nhân tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra.
- Về tính chất của tổ chức: HTX kiểu cũ vừa là tổ chức kinh tế, vừa là
tổ chức xã hội ở địa phương. HTX nông nghiệp kiểu mới, trước hết là tổ chức
kinh tế, vì sự phát triển của kinh tế hộ xã viên HTX.
Vì nhiều lý do khác nhau, các HTX nông nghiệp trước đây phải gánh
vác các nghĩa vụ xã hội rất nặng. HTX nông nghiệp kiểu mới đăng ký hoạt
động theo Luật HTX tuy vẫn có chức năng xã hội, nhưng trước hết là một tổ
chức kinh tế, HTX chỉ thực hiện các nghĩa vụ xã hội trên cơ sở hoạt động

kinh tế có hiệu quả và những chăm lo về mặt xã hội trước hết cũng dành cho
xã viên HTX. Đây cũng là đặc điểm mới mà chính quyền các cấp cần phải lưu
ý trong khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với HTX.
- Về cơ chế hoạt động của HTX: HTX nông nghiệp kiểu cũ hoạt động
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh
cũng như hoạch toán lỗ lãi, phân phối, giá cả … đều theo kế hoạch nhà nước.
Hoạt động mang tính hành chính, độc quyền. HTX nông nghiệp kiểu mới hoạt
động theo quan hệ kinh tế. HTX là một đơn vi kinh doanh độc lập trong cơ chế
thị trường, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng như phân chia lỗ lãi, đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà
nước và trách nhiệm đối với xã viên. Do vậy, HTX nông nghiệp kiểu mới đòi
hỏi đội ngũ cán bộ quản lý cũng như xã viên phải có tính chủ động cao, trình độ
kinh doanh giỏi, năng động, sáng tạo hơn so với HTX trong cơ chế cũ.
- HTX kiểu cũ nói chung và HTX nông nghiệp cũ nói riêng, một mặt
nhằm mục đích tập hợp lại để đẩy mạnh sản xuất, từng bước xoá bỏ kinh tế cá
thể, do đó hình thức HTX chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất. Phương hướng


phát triển chủ yếu của HTX cũ là từ HTX bậc thấp lên HTX bậc cao để khi có
điều kiện sẽ chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. HTX kiểu mới đa dạng hơn
về mặt tổ chức và định hướng hoạt động; bên cạnh những HTX tổ chức sản
xuất tập trung trong lĩnh vực công nghiệp sẽ khuyến khích phát triển các HTX
để làm dịch vụ hỗ trợ cho các hộ cá thể kinh doanh được tốt hơn. Loại hình
HTX dịch vụ được định hướng phát triển trong tất cả các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp, thương mại, giao thông
vận tải … Do hình thức tổ chức thay đổi cho nên vấn đề sở hữu của các HTX
kiểu mới cũng có nhiều thay đổi. Như trên đã đề cập, trong HTX kiểu cũ, tư
liệu sản xuất là của tập thể (tập thể hoá tư liệu sản xuất); chính điều này đã
làm nảy sinh tình trạng vô chủ và sự thiếu trách nhiệm của xã viên đối với tài
sản HTX. HTX kiểu mới làm cho xã viên thực sự là chủ nhân của HTX thông

qua quy định góp vốn, góp sức xây dựng HTX; quyền lợi trách nhiệm của xã
viên gắn liền với kết quả hoạt động kinh doanh của HTX.
- Về nội dung hoạt động: HTX nông nghiệp kiểu cũ trực tiếp tổ chức
sản xuất, lao động tập trung, thủ tiêu sự độc lập của kinh tế hộ. HTX nông
nghiệp kiểu mới có nội dung hoạt động đa dạng, có thể làm dịch vụ hoặc vừa
làm dịch vụ, vừa sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, song đều hướng vào hỗ
trợ kinh tế hộ tự chủ phát triển.
- Nguyên tắc hoạt động của HTX kiểu mới thực sự là một đơn vị tự
chủ, một điều kiện hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghịêp khác
trong cơ chế thị trường. Tuy các HTX cũ cũng được quy định tổ chức theo
các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi nhưng trong thực tế các
nguyên tắc này nhiều khi đã bị vi phạm, chính quyền các cấp nhiều khi can
thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của HTX. Trong HTX kiểu mới, các
nguyên tắc HTX được tôn trọng.
- Về phân phối: trong HTX nông nghiệp cũ, phân phối bình quân, bao
cấp. HTX nông nghiệp kiểu mới phân phối theo vốn, lao động và mức độ sử
dụng dịch vụ của HTX.


- Phạm vi hoạt động: HTX nông nghiệp kiểu cũ thường bị giới hạn trong
địa giới hành chính xã, phường. HTX kiểu mới không bị giới hạn bởi địa giới
hành chính. Vì vậy, hoàn toàn có thể tổ chức một HTX để tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp trong phạm vi một huyện hoặc một số xã tuỳ theo yêu cầu thực tế.
- Về tổ chức bộ máy quản lý HTX: HTX nông nghiệp kiểu cũ, chức
năng quản lý và điều hành trong HTX được lồng ghép. Bộ máy quản lý của
HTX bao gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng Ban quản trị kiêm chủ
nhiệm HTX. Công tác cán bộ HTX được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng uỷ và chính quyền địa phương, các chức danh chủ chốt của HTX do
Đảng uỷ chỉ định và nhất thiết phải do đảng viên và người trong nội bộ HTX
nắm giữ. Đối với HTX nông nghiệp kiểu mới chức năng quản lý và điều hành

được tách biệt rõ ràng. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm Ban quản trị, Ban
kiểm soát, Ban chủ nhiệm, Chủ nhiệm HTX có thể do Trưởng Ban quản trị
kiêm nhiệm hoặc là người do HTX thuê. HTX được quyền tự chủ trong công
tác cán bộ của mình, các chức danh chủ chốt không nhất thiết do đảng viên
hay người trong nội bộ HTX nắm giữ.
- HTX kiểu mới cũng khác với công ty cổ phần. HTX do các thành viên
tự nguyện tập hợp, liên kết lại để cùng kinh doanh hoặc hỗ trợ nhau kinh
doanh. Mỗi thành viên tham gia dù ít hay nhiều vốn đều bình đẳng với nhau
trong quyết định các vấn đề chung của HTX, với nguyên tắc cơ bản “mỗi
người một lá phiếu”. (nguyên tắc “đối nhân”); trong khi đó, công ty cổ phần
do các nhà đầu tư đứng ra thành lập, tổ chức hoạt động lấy mục tiêu là lợi
nhuận, thành viên tham gia (các cổ đông) chỉ có quyền tham gia quyết định
các vấn đề của công ty theo mức độ góp vốn (nguyên tắc “đối vốn”). Công ty
cổ phần phân phối theo tỷ lệ vốn góp; còn HTX phân phối theo tỷ lệ vốn góp,
theo lao động và mức độ tham gia các dịch vụ.
1.1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng hợp tác xã nông
nghiệp kiểu mới
HTX nông nghiệp tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau:


- Tự nguyện gia nhập và ra HTX; tất cả nông dân và người lao động có
điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX nông nghiệp
đều có thể trở thành xã viên HTX nông nghiệp; xã viên có quyền ra HTX theo
quy định của Điều lệ từng HTX nông nghiệp.
- Quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên HTX nông nghiệp
có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của HTX và có
quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương hướng sản
xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong
Điều lệ HTX nông nghiệp.
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu

trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân
phối thu nhập, bảo đảm HTX và xã viên cùng có lợi.
Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của
HTX; lãi được trích một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn
góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo
mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh
thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội;
HTX giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
Kinh tế hợp tác trong lịch sử được phát triển nhiều hình thức từ thấp
đến cao: từ tổ vần công, đổi công đến tổ đoàn kết sản xuất, chuyển sang các
hình thức HTX dịch vụ, các HTX sản xuất hoặc các HTX vừa sản xuất vừa
làm dịch vụ. Kinh tế hợp tác, HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng
có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội.
HTX nông nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. HTX nông
nghiệp làm được những việc mà từng người, từng hộ không làm được hoặc
làm không có hiệu quả. HTX nông nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế hộ phát


triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại liên kết, hợp tác, thành lập
HTX. HTX nông nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm
được nhiều khoản chi phí trong đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; huy động
được nhiều vốn, nhiều nhân lực, chế ngự được thiên tai địch hoạ, đáp ứng kịp
thời yêu cầu sản xuất, kinh doanh; cung cấp sản phẩm cho xã hội, góp phần
tăng trưởng kinh tế, góp phần vào ngân sách nhà nước. HTX nông nghiệp
khai thác đựơc tiềm năng trong dân cư để mở mang ngành nghề, phát triển
sản xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế- xã hội.
HTX nông nghiệp hỗ trợ người nghèo, giúp đỡ họ cùng phát triển. Bởi

lẽ HTX nông nghiệp không chỉ gắn bó các thành viên về kinh tế mà còn được
hình thành và phát triển trên cơ sở tình làng nghiã xóm, góp phần thực hiện
các chính sách xã hội trên địa bàn như cung ứng các mặt hàng chính sách cho
vùng miền núi, dân tộc, vùng thiên tai bão lụt, tham gia xoá đói, giảm nghèo,
khắc phục bần cùng hoá; phòng chống các tệ nạn xã hội. Kinh tế hợp tác và
HTX nông nghiệp còn tạo điều kiện cho những người lao động, những người
sản xuất nhỏ phát triển marketing, nhờ đó những khả năng mở rộng được thị
trường trong và ngoài nước đảm bảo sự cân bằng và chẳng những có thể trụ
vững trong thị trường cạnh tranh, mà còn không ngừng phát triển, không bị
phá sản trở thành gánh nặng lao động thất nghiệp cho xã hội.
HTX nông nghiệp là mô hình tổ chức sản xuất có tính xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, đó là các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vệ tinh của các
doanh nghiệp nhà nước; là đơn vị liên doanh, liên kết với các thành phần kinh
tế khác và có thể là đơn vị xuất nhập khẩu. Tính xã hội của hợp tác xã nông
nghiệp được thể hiện ở chỗ là một tổ chức kinh tế của những người lao động,
tập hợp được đông đảo mọi người tham gia nhằm giúp đỡ lẫn nhau, tăng thêm
sức mạnh trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm
và thu nhập chính đáng và ở việc HTX hỗ trợ người nghèo. Trong mọi hoạt
động của mình, HTX còn có nghĩa vụ giáo dục tinh thần hợp tác cho xã viên,


khuyến khích sự hợp tác không chỉ trong nội bộ xã viên của HTX mà còn
giữa các HTX. Ngoài chăm lo về mặt kinh tế, HTX còn chăm lo cả về mặt
tinh thần cho xã viên thông qua các hoạt động chung của HTX. Tuy nhiên tất
cả những hoạt động xã hội phải được tiến hành trên cơ sở hoạt động kinh tế
có hiệu quả. Những hoạt động này sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí của
cộng đồng, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm
an ninh quốc phòng.
Ngoài ra, HTX nông nghiệp còn có vai trò tạo điều kiện thuận lợi đưa
tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, công nghệ mới vào sản xuất. Tiến hành

chuyên môn hoá, tập trung hoá, phát triển hợp lý các ngành sản xuất, dịch vụ
và thâm canh khoa học. Khai thác tiềm năng về vốn, lao động và công nghệ,
đảm bảo môi trường sinh thái, có khả năng đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền
kinh tế thị trường.
1.1.4. Những yếu tố tác động đến sự phát triển của hợp tác xã nông
nghiệp kiểu mới ở nước ta
1.1.4.1. Trình độ phát triển nông nghiệp hàng hoá
Lý luận và thực tiễn chứng tỏ là khi nền kinh tế còn mang nặng tính
chất tự cấp, tự túc, mục tiêu của người nông dân là tối đa hoá lợi ích, chứ
không phải tối đa hoá lợi nhuận nên nhu cầu hợp tác của họ chủ yếu ở khâu
đầu vào, với qui mô rất nhỏ bé. Do đó các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác
thường rất đơn giản. Khi sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, mục tiêu của
người dân là tối đa hoá thu nhập, nên nhu cầu hợp tác của họ ở đầu ra nảy
sinh và ngày càng bức xúc trên qui mô lớn.
Điều đó cho thấy:
Sự phát triển có hiệu quả các hình thức kinh tế hợp tác sẽ tạo
điều kiện thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá phát triển. Như vậy
các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác không thể tách rời giải pháp
phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong đó bao gồm cả biện pháp


phát triển kinh tế nông hộ và trang trại sản xuất hàng hoá. Bởi vì
phát triển kinh tế nông hộ, trang trại, gia đình vừa là mục tiêu, vừa
là giải pháp để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới
trong nông nghiệp [4, tr.195].
1.1.4.2. Nhu cầu và mức sống của nông dân
Với quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, mức độ cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường sẽ gay gắt hơn; mức sống của nông dân có liên quan đến sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Nông dân có xu hướng liên kết, hợp tác với

nhau để tồn tại và phát triển. Do đó nhu cầu phát triển HTX nông nghiệp kiểu
mới càng trở nên bức xúc, cấp thiết đối với những hộ kinh doanh cá thể, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.4.3. Chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp
Đây là yếu tố tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển
kinh tế hợp tác và HTX, trong đó có HTX nông nghiệp. Và là yếu tố quan
trọng cho quá trình chuyển đổi, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
trong cơ chế thị trường.
Lịch sử quá trình hình thành, phát triển kinh tế hợp tác, HTX nói
chung, HTX nông nghiệp nói riêng đã chứng minh điều đó.
Những quan điểm cơ bản về hợp tác hoá nông nghiệp lần đầu tiên được
nêu lên khá toàn diện và đầy đủ là Nghị quyết Trung ương lần thứ 16 khoá II
với 20 điểm lớn, qui định từ mục đích yêu cầu, đường lối giai cấp trong vận
động hợp tác hoá đến phương châm, nguyên tắc, bước đi, qui mô tổ chức,
chính sách … trong quá trình hợp tác hoá nông nghiệp. Và ngày càng được
khẳng định trong các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Tuy vậy, mô hình HTX này đã bộc lộ nhiều nhược điểm đã kìm hãm
sản xuất. Cho đến khi Chỉ thị số 100/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư
Trung ương ra đời – là một quyết định mang tính đột phá mở đầu công cuộc
đổi mới kinh tế hợp tác, mà trước hết là HTX nông nghiệp. Và đây chính là


điểm mở đầu cho việc ra đời Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI
(4/1988), đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình HTX
kiểu cũ, cũng chính là bước chuẩn bị quan trọng cho sự ra đời của Luật HTX
(năm 1996) và sau đó là Luật HTX (năm 2003) tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản
để HTX hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra.
1.1.4.4. Bối cảnh kinh tế - xã hội
“Sự phát triển các lĩnh vực hợp tác, các hình thức hợp tác và quy mô
hợp tác ở những mức độ khác nhau là xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất

nhất thiết phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất” [30, tr. 24].
Mặt khác, nó còn chịu sự tác động của môi trường, điều kiện
đặc thù của từng địa phương, đó là trình độ dân trí, văn hóa, truyền
thống, tâm lý, tính cộng đồng, sự hiểu biết, tính năng động sáng tạo
trong hoạt động sản xuất-kinh doanh dưới tác động của nền kinh tế
thị trường đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế
giới.v.v… [4, tr. 98].
1.1.4.5. Thị trường đầu vào, đầu ra cho nông nghiệp
Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật, cho nên cần phải
theo dõi, chăm sóc tỉ mỉ, thường xuyên để đáp ứng đúng kỹ thuật, kịp thời các
yêu cầu sinh học của cây trồng, vật nuôi. Điều đó quyết định năng suất, chất
lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Chỉ có hình thái kinh tế gia đình
với cơ chế “tự thuê mướn sức lao động của chính mình”, “tự bóc lột mình” và
lấy công làm lãi, nhờ gắn trực tiếp lợi ích của mỗi người và cả cộng đồng gia
đình vào kết quả cuối cùng của sản xuất nông nghiệp, đã tạo ra khả năng lớn
hơn các loại hình doanh nghiệp khác trong việc vượt qua tình huống rủi ro do
thiên nhiên hay do thị trường gây ra.
Mặt khác, kinh tế nông hộ không thể tự thân trở thành một đơn vị kinh
tế hàng hóa phát triển trong nền kinh tế thị trường trước sự cạnh tranh ngày


càng khốc liệt của các doanh nghiệp lớn, trước hết trong dịch vụ “đầu vào”,
“đầu ra” của kinh tế nông hộ. Do vậy, tất yếu các nông hộ phải liên kết lại với
nhau trong các tổ chức kinh tế hợp tác của mình, tạo ra sức mạnh mới cạnh
tranh trong thị trường, tự bảo đảm hoạt động dịch vụ “đầu vào”,” đầu ra” cho
kinh tế hộ đạt kết quả cao hơn. Vì thế HTX nông nghiệp trở thành
chỗ dựa vũng chắc để kinh tế hộ trở thành đơn vị sản xuất hàng hóa tự chủ có
khả năng cạnh tranh đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường.
1.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI

1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của
hợp tác xã nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: thực hiện
nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế HTX dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở
hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức
kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Kinh tế hợp tác với các hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt.
Các HTX nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng, dựa trên sở hữu của hộ xã
viên và sở hữu tập thể (các quỹ sử dụng chung trong HTX), liên kết rộng rãi
những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển HTX kinh doanh
tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành trong một vài lĩnh vực để kinh doanh


dịch vụ về sản xuất, chế biến tiêu thụ và tín dụng, nhân rộng mô hình HTX
liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ
nông nghiệp. Nhà nước giúp HTX đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản
xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, giải quyết nợ nần tồn đọng, Khuyến
khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong HTX. Phát huy
quyền tự chủ kinh doanh của mỗi nông hộ: kinh tế tập thể không thay thế kinh
tế hộ mà trái lại coi việc phát triển kinh tế hộ làm mục tiêu hoạt động và là cơ

sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của mình.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX khẳng định:
Cần củng cố những tổ hợp tác, HTX hiện có, tiếp tục phát triển
kinh tế hợp tác với nhiều hình thức, qui mô, trình độ khác nhau
trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn có điều kiện. Kinh tế tập thể với
hình thức phổ biến là các tổ hợp tác và HTX; trong lĩnh vực nông
nghiệp, trước hết tập trung làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên, từng bước mở
rộng ngành nghề sản xuất, kinh doanh tổng hợp; trong lĩnh vực phi
nông nghiệp, vừa tổ chức sản xuất vừa kinh doanh dịch vụ. Mở rộng
các hình thức liên doanh, liên kết giữa tổ hợp tác, HTX với các doanh
nghiệp thuộc mỗi thành phần kinh tế, nhất là với doanh nghiệp nhà
nước. Khi HTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các
doanh nghiệp của HTX, các liên hiệp HTX [12, tr.29].
Mục tiêu từ nay đến năm 2010 là: “đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những
yếu kém hiện nay. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới tỷ trọng
ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế” [12, tr. 29].
1.2.2. Chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển hợp tác xã
nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của HTX trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương khuyến khích và


tạo điều kiện phát triển HTX trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh
tế quốc dân, đặc biệt là các HTX nông nghiệp, để cùng với kinh tế nhà nước
dần trở thành nền tảng kinh tế, đó cũng là nền tảng chính trị - xã hội của đất
nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Điều 3 Luật HTX (năm 2003) đã khẳng định chính sách của Nhà nước
đối với HTX theo hướng:

- Ban hành và thực hiện các chính sách khuyến khích hợp tác xã phát triển.
- Bảo đảm quyền bình đẳng của HTX trong nền kinh tế nhiều thành phần.
- Bảo hộ quyền lợi hợp pháp của HTX.
- Tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ hợp tác xã.
- Đối với HTX nông nghiệp, Chính Phủ quy định cụ thể chính sách ưu
đãi phù hợp với đặc thù và trình độ phát triển trong từng thời kỳ.
Ngoài ra, các HTX còn được hưởng những chính sách chung khuyến
khích hỗ trợ doanh nghiệp quy định ở Luật khuyến khích đầu tư hoặc các văn
bản pháp quy khác.
Mục tiêu của các chính sách Nhà nước đối với HTX chủ yếu thu hút
ngày càng nhiều các lực lượng lao động, nhất là những hộ nông dân, những
người thợ thủ công tham gia vào HTX; khuyến khích hỗ trợ và tạo những điều
kiện thuận lợi để HTX được củng cố và phát triển theo định hướng quy
họach, kế họach chung của cả nước cũng như từng vùng, ngành cụ thể, để làm
cho HTX ngày càng có khả năng tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, giúp đỡ xã viên với hiệu quả cao nhất, góp phần phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách đó không nhằm tạo
chỗ dựa để HTX ỷ lại Nhà nước, làm yếu đi tính năng động sáng tạo,tính tự
chủ của HTX, mà ngược lại nhằm tạo môi trường thuận lợi và nền móng để
HTX - tổ chức kinh tế của những người lao động -có mặt bằng bình đẳng
trong thị trường cạnh tranh.


1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
KIỂU MỚI Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC

1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Thuận
Bình Thuận là tỉnh nằm trong vùng kinh tế miền Đông Nam bộ và nằm
trong khu vực ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Diện tích
tự nhiên 785.462 ha. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001-2003 là 11,17%.

Ngành nông nghiệp tăng 7,16%. Năm 2000 GDP bình quân đầu người
253.USD. Đến tháng 6 năm 2001, toàn tỉnh có 91 HTX nông nghiệp, trong đó
có 03 HTX thành lập mới. Qua phân loại năm 2002 có 19 HTX khá, chiếm
20%; 26 HTX trung bình, chiếm 28,6%; 46 HTX vốn yếu, chiếm 50,5% so
tổng số HTX nông nghiệp. Vốn hoạt động của HTX không lớn, năm 2002
bình quân 443,2 triệu đồng/ HTX, trong đó vốn lưu đọng bình quân 219,
4triệu đồng /HTX. Doanh thu bình quân 450,5 triệu đồng, tổng lãi sau thuế
bình quân 24,9 triệu đồng/HTX. Tỷ lệ lãi trên vốn hoạt động bình quân đạt
5,62%/năm. HTX nông nghiệp tại Bình Thuận hoạt động kinh doanh, dịch vụ
gồm 4 loại chủ yếu là: thuỷ nông, vật tư nông nghiệp, tín dụng, giống [28].
Quá trình hình thành, củng cố,đổi mới và phát triển HTX nông nghiệp
ở tỉnh Bình Thuận, đã từng bước đáp ứng yêu cầu của ngưòi lao động, kinh tế
hộ, khai thác được một số nguồn nhân lực mới trong các ngành, các lĩnh vực,
góp phần vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hoạt động của các HTX đã tạo lập
và phát huy các mối quan hệ lành mạnh trong cộng đồng, góp phần chăm lo
đến các mặt đời sống xã hội của dân cư trên địa bàn. Đáng chú ý là đã xoá
được các quan hệ từng cản trở tốc độ phát triển trong HTX kiểu cũ, hạn chế
nạn cho vay nặng lãi, ép giá ép cấp của tư thương. Nhiều HTX là cầu nối
trong việc triển khai và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước đến các hộ sản xuất. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX
nông nghiệp được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, tạo điều kiện tiếp tục
củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả trong thời gian tới. Tạo lập được môi
trường thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển. Nhận thức của cán bộ, đảng


viên và nhân dân về kinh tế hợp tác và HTX có chuyển biến tích cực, rõ nét
hơn, xoá bỏ dần mặc cảm hoài nghi do mô hình HTX cũ để lại.
Tuy nhiên, các HTX nông nghiệp tỉnh Bình Thuận còn nhiều khó khăn,
yếu kém như: quy mô hoạt động của HTX nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp,
thường chỉ phục vụ trong nội bộ một thôn hay một xã, thậm chí trong một

nhóm xã viên; chưa đa dạng sản phẩm và ngành nghề. Hiệu quả kinh doanh
dịch vụ thấp, số HTX hoạt động có lãi từ 8% / năm trở lên chỉ chiếm 39,6%
tổng số HTX nông nghiệp. HTX chỉ thực hiện kinh doanh dịch vụ đầu vào,
chưa quan tâm dịch vụ đầu ra. HTX thiếu vốn để hoạt động. Phần lớn các
HTX không vay được vốn tín dụng do không có tài sản thế chấp hoặc không
có phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi; do mức độ tín nhiệm
không cao nên không thể vay tín chấp. Một số HTX không dám vay vốn vì
sau khi vay mua vật tư ứng trước cho xã viên nhưng khó thu hồi. Quản lý Nhà
nước đối với HTX còn hạn chế. Nhiều chính sách khuyến khích phát triển
HTX chưa được triển khai thực hiện.
Nguyên nhân của những tồn tại yếu kém là:
Nhận thức về vị trí của HTX và kinh tế hợp tác trong một số cán bộ
lãnh đạo ở các ngành các cấp chưa thật đầy đủ. Việc quán triệt chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, Luật HTX và các nghị định của Chính phủ thiếu chiều sâu,
một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa thật sự tin tưởng vào hiệu quả của kinh
tế HTX kiểu mới. Nhà nước thiếu quan tâm giúp HTX công tác tổ chức và
đào tạo đội ngũ cán bộ. Trong một thời gian dài, công tác hợp tác hoá bị buôn
lỏng, HTX rơi vào tình trạng sa sút, để lại nhiều tồn đọng, cán bộ thuyên
chuyển, giảm nhiệt tình.
Tỉnh cũng đã định hướng phát triển HTX nông nghiệp trong thời
gian đến là:
- Phát triển đa dạng các HTX nông nghiệp, đưa HTX nông nghiệp trở
thành cầu nối hiệu quả giữa hộ nông dân và các đối tượng khác.


- Nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội của HTX nông nghiệp là nhiệm vụ
trọng tâm trong phát triển nông nghiệp và nông thôn thời gian tới.
- HTX phát triển trên cơ sở kinh tế hộ, kinh tế trang trại và kinh tế thị trường.
Đến năm 2010, tỉnh phấn đấu đạt các mục tiêu sau:
- Đưa kinh tế tập thể thoát khỏi tình trạng yếu kém.

- Tốc độ tăng trưởng HTX nông nghiệp bình quân 20%, chiếm 5%
GDP của tỉnh.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống xã viên,tăng tích luỹ và góp phần ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh quốc phòng, trật tự xã hội ở địa phương.
Ba giải pháp chính để đạt mục tiêu trên là:
- Tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường hoạt động hiệu quả cho HTX
nông nghiệp.
- Thiết lập hệ thống chính sách khuyến khích và hỗ trợ HTX nông nghiệp.
- Tăng cường chỉ đạo của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh đối với phát triển
HTX nông nghiệp.
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai
Đến tháng 9 năm 2003 toàn tỉnh có 41 HTX nông nghiệp, trong đó có
40 HTX thành lập mới, 01 HTX chuyển đổi từ năm 2002. Trong 41 HTX có
29 HTX đã đi vào hạot động, 11 HTX mới thành lập đang ổn định tổ chức,
chưa đi vào hoạt động và 01 HTX ngưng hoạt động. Kết quả sản xuất kinh
doanh của 29 HTX được phân loại như sau: 10 HTX khá, chiếm 34,48%; 10
HTX trung bình, chiếm 34,48%; 9 HTX yếu, chiếm 31,03% so tổng số HTX
nông nghiệp đang hoạt động [29].
Nhìn chung, các HTX nông nghiệp đã được thành lập trên cơ sở tự
nguyện của nông dân, không có sự gò ép của chính quyền địa phương. HTX
thành lập và hoạt động đã giúp cho nông dân giải quyết được một phần nhu
cầu đầu vào cho sản xuất như vốn, công nghệ, giống, phân bón… nên bước


×