Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Báo cáo chủ đề cải cách thủ tục hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.46 KB, 10 trang )

Thành viên nhóm 3

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

Họ tên

MSSV

Huỳnh Thông Thái
Nguyễn Văn Kiệt
Nguyễn Văn Lượng
Danh Kiên
Dương Chú Ly
Trần Thị Phò La
Phạm Trúc Đào
Trịnh Văn Linh
Nguyễn Thành Phát

B1500100
B1510405
B1510409
B1500096
B1500099


B1500097
B1510438
B1510407
B1510418

1


Mục lục

2


LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986,
tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi
mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành
chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng
khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong
việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Việt Nam đang là nước xuất khẩu gạo đứng
hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới, công nghiệp và dịch vụ phát triển, đầu tư nước
ngoài xu hướng chung là tăng, nhiều vấn đề xã hội đang được giải quyết tốt. . .Tuy
nhiên, Ở Việt Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và
mới nảy sinh cần phải được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối
cảnh toàn cầu hoá đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi
hỏi phải có những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình cải cách
hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Vì
vậy, cải cách thủ tục hành chính là vấn đề cần giải quyết hiện nay.

I.


Đặt vấn đề
1. Thực trạng của việc cải cách hành chính hiện nay

Cải cách nền hà nh chính nhà nước đã tiến hành được nhiều năm, tuy nhiên,
vẫn còn mang nặng dấu ấn, “tàn dư” của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao
cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi phải có cơ chế quản lý thích hợp
thực tiễn, công cuộ c đổi mới toàn diện, dân chủ hoá các mặt của đời số ng xã hội,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đ iều kiệm hội
nhập sâu, rộ ng kinh tế nước ta với nền kinh tế toàn cầu; yêu cầu phát triển m ột
nền hành chính lấy mục đích phục vụ nhân dân, vì dân, cũng như hiệu lực, hiệu
quả quản lý hành chính chưa cao.
* Về thể chế hành chính
Mặc dù hệ thống thể chế hành chính đã được các cấp, các ngành tích cực ban
hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý hành
chính và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống thể chế hành chính vẫn
còn nhiều điểm chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành
chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương chưa nghiêm.
Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiêu khê, đò i hỏi quá nhiều giấy tờ, phải
qua nhiều cửa, nhiều dấu, nhiều tầng nấc trung gian, đồng thời thiếu thống nhất,
tuỳ tiện thay đổi và thiếu cô ng khai đã gây phiền hà cho nhân dân, nhất là những
người ít hiểu biết về thủ tục hành chính. Hệ thống các thủ tục hành chính đ ã cản
trở, gây phiền hà cho nhân dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình,
3


gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác quốc tế, gây ra tệ cửa quyền, tệ giấy tờ
trong guồng máy hành chính và là ''miếng đất'' thuận lợi cho nạn tham nhũng, lãng
phí, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền. ý thức chấp hành pháp luật
hành chính của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, quen giải quyết công việc

theo ''lệ'' chứ chưa theo luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa được đảm bảo.
*Về tổ chức, bộ máy hành chính.
- Bộ máy hành chính nhà nước cò n cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cửa,
nhiều dấu, chức năng của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa rõ ràng, nhiều khi
cản trở lẫn nhau, hạn chế hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính. Có lĩnh vực thì
ôm đồm, bao biện, có lĩnh vực và có nơi thì buông lỏng quản lý, dẫn đến một số cá
nhân lợi dụng để trục lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân.
Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ m áy hành chính trong nền kinh tế
thị trường định hướng x ã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ, sự phân công,
phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch, triệt để, cụ thể và phù
hợp. Tình trạng chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan cùng cấp, cấp trên và cấp
dưới còn chồng chéo, nhiều khi hạn chế lẫn nhau, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản
lý thấp.
- Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân,
không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lú ng túng, bịđộng khi
xử lý các tình huố ng phức tạp.
- Phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán,
chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt
động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công;
* Về đội ngũ cán bộ, công chức
Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách
nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi
mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng
trong mộ t bộ phận cán bộ, công chức. Nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; ý
thức nghề nghiệp chưa cao, tôn trọng kỷ luật lao động còn yếu; đạo đức lối sống
của một bộ phận cán bộ công chức bị suy thoái; thái độ phục vụ nhân dân còn
thấp, một bộ phận cán b ộ công chức tồn tại thái độ thờ ơ, ''lãnh cảm'' với dân, đặt
mình ở vị thế b an phát quyền lợi cho dân. Những vấn đề đó đó làm chính quyền
ngày càng xa dân, giảm lòng tin của dân đối với chính quyền... Về số lượng thì có

nơi, có lĩnh vực thừa và ngược lại, có nơi, có lĩnh vực thì thiếu; thiếu đội ngũ cỏn
bộ cô ng chức có chất lượng cao, tận tụy với nghề, vừa hồng vừa chuyên;tình trạng
cán bộ nhiều nhưng chất lượng hoạt động chẳng bao nhiêu, chưa có trình độ ngang
tầm nhiệm vụ, bố trí chưa đúng người đúng việc, bằng cấp và năng lực chưa tương
ứng với chức danh v.v... 2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém. Thực trạng hạn chế,
yếu kém cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan gây ra.
4


- Một là, nhận thức của cán bộ, công chức về vai trò và chức năng quản lý của
Nhà nước, về xây dựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà
nước trong tình hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa thống nhất, còn
nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa đ ược làm sáng tỏ, còn nhiều chủ trương,
chính sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp
chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế.
- Hai là, việc triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính chưa được tiến
hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng
lãnh đạo, cải cách hành chính chưa gắn bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động lập
pháp và cải cách tư pháp.
- Ba là, cải cách hành chính gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích cục bộ
của nhiều cơ quan hành chính, nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ở
trung ương và địa phương; ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp còn
đè nặng lên nếp nghĩ, cách làm của không ít cán bộ, công chức; cuộc cải cách chưa
được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng.
- Bốn là, các chế độ , chính sách về tổ chức và cán bộ, về tiền lương còn nhiều
điều chưa phù hợp, chưa tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc cải cách.
- Năm là, những thiếu sót trong cô ng tác chỉđạo của Chính phủ, các Bộ, ngành
trung ương và ủy ban nhân dân các địa phương trong việc tiến hành cải cách hành
chính; sự chỉ đạo thực hiện các chủ trương đã đề ra thiếu kiên quyết và chưa thố ng

nhất.
- Sáu là, cải cách hành chính diễn ra chậm, thiếu sự kiểm tra, đánh giá sát sao;
nhiều hiện tượng tiêu cực phát sinh từđội ngũ cán bộ, công chức từ cấp cao đến
cấp cơ sở chậm được phát hiện xử lý nghiêm minh, kịp thời. Hiện tượng phát sinh
tiêu cực cả một tập thể, ngay từ chính những cán bộ chủ chốt cả ở hệ thống bộ
máy Đảng và chính quyền có nơi, có địa phương xả ra trầm trọng, gây bất bình
trong dư luận, giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ.
2. Sự cần thiết phải cải cách thủ tục hành chính

Thủ tục hành chính là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải
quyết công việc của nhân dân, các cơ quan nhà nước và các tổ chức theo pháp luật
nhằm đảm bảo quyền và lợi ít hợp pháp của công dân , cơ quan có công việc cần
giải quyết. Tuy nhiên, thủ tục hành chính của nước ta hiện nay còn nhiều nhược
điểm được nêu ra ở phần thực trạng.
Hệ quả chung khi áp dụng hệ thống thủ tục hành chính là việc gây phiền hà,
kém hiệu quả trong quá trình thực hiện công việc chung của cơ quan; gây trở ngại
trong việc giao lưu hợp tác giữa nước ta với nước ngoài; gây ra tuệ cửa quền, bệnh
giấy tờ trong guồng máy hành chính, dễ phát sinh tệ tham nhũng làm giảm lòng tin
của nhân dân vào cơ quan nhà nước.

5


Do vậy, cải cách thủ tục hành chính đang là yêu cầu bức xúc của nhân dân,
của các tổ chức và các cơ quan đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của quá trình
cải cách hành chính nhà nước.
II.

Tác động của cải cách thủ tục hành chính hiện nay
1. Ý nghĩa


– Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính là một nội dung của cải cách hành
chính, nhưng là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân, đồng thời là nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp,
cũng như có nhiều yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế.
– Thứ hai, trong điều kiện nguồn lực còn nhiều khó khăn nên chưa thể cùng
một lúc thực hiện được nhiều nội dung cải cách như: cải cách tài chính công, cải
cách tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy… thì việc lựa chọn khâu cải cách thủ tục
hành chính sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhất.
– Thứ ba, thông qua cải cách thủ tục hành chính, chúng ta có thể xác định căn
bản các công việc của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp; qua đó
chúng ta có thể xây dựng bộ máy phù hợp và từ đó có thể lựa chọn đội ngũ cán bộ,
công chức hợp lý, đáp ứng được yêu cầu công việc.
– Thứ tư, cải cách thủ tục hành chính là tiền đề để thực hiện các nội dung cải
cách khác như: nâng cao chất lượng thể chế; nâng cao trình độ, thay đổi thói quen,
cách làm, nếp nghĩ của cán bộ, công chức; phân công, phân cấp thực hiện nhiệm
vụ giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp của bộ máy hành chính; thực
hiện chính phủ điện tử, …
– Thứ năm, cải cách thủ tục hành chính có tác động to lớn đối với việc thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Thông qua việc cải cách thủ tục hành chính sẽ gỡ
bỏ những rào cản về thủ tục hành chính đối với môi trường kinh doanh và đời
sống của người dân, giúp cắt giảm chi phí và rủi ro của người dân và doanh nghiệp
trong việc thực hiện thủ tục hành chính.
– Thứ sáu, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ góp phần nâng cao hình ảnh
của Việt Nam nói chung và các bộ, ngành, địa phương nói riêng trước cộng đồng
trong nước và quốc tế, nâng cao vị trí xếp hạng của Việt Nam cũng như của các
địa phương về tính minh bạch, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đây
là những giá trị vô hình nhưng có tác động to lớn đến việc phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước cụ thể là có ảnh hưởng tích cực đến việc đầu tư trong và ngoài
nước, xuất nhập khẩu, việc làm, an sinh xã hội…

2. Hạn chế
Thứ nhất, thủ tục hành chính phiền hà vẫn là khó khăn lớn mà nhiều DN hiện
nay phải đối mặt. Trong số gần 7.000 ý kiến phản ánh trong khảo sát chỉ số PCI
của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2014, có tới gần 860 ý kiến
(12%) cho rằng, đây là khó khăn mà các DN đang gặp phải. Trong số 8.093 DN trả
lời khảo sát, có tới 23% cho biết họ phải dành hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu
6


và thực hiện các quy định pháp luật của Nhà nước. Gần 30% DN cho biết họ vẫn
phải đi lại nhiều lần để lấy dấu và chữ ký, và vẫn có khoảng 38% DN không đồng
ý với nhận định rằng, thủ tục giấy tờ đã đơn giản hơn. Cũng gần 30% DN trả lời
khảo sát cho biết, họ không nhận thấy bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong cải
cách hành chính hiện nay. Về công tác cán bộ, trong khi vẫn có gần 1/4 các DN
cho rằng, cán bộ Nhà nước giải quyết công việc chưa hiệu quả, thì cũng có tới gần
1/3 DN cho rằng cán bộ nhà nước không thân thiện khi giải quyết thủ tục cho DN.
Những lĩnh vực mà DN đang gặp nhiều khó khăn khi thực hiện thủ tục hành chính
bao gồm: Đất đai (21%), thuế (17%), bảo hiểm xã hội (13%), xây dựng (9%), bảo
vệ môi trường (6,5%) và đăng ký DN, đăng ký đầu tư (6%) (VCCI, 2014).
Thứ hai, nhận thức về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng
như giới hạn can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế tuy đã có những thay đổi cơ
bản nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định. Những vấn đề như “Nhà nước can
thiệp hành chính tới đâu vào thị trường là hợp lý?”, “Các DN Nhà nước nên giới
hạn hoạt động kinh doanh ở những lĩnh vực nào, với quy mô như thế nào là phù
hợp?”, “Phân định như thế nào giữa quy luật cung cầu và vai trò điều tiết thị
trường của Nhà nước?”… vẫn là những câu hỏi lớn chưa có câu trả lời hoàn chỉnh.
Thứ ba, tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật và việc ban
hành văn bản pháp luật có chất lượng chưa cao, phải sửa đổi nhiều lần. Các thủ tục
hành chính không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên, nhiều thủ
tục hành chính ban hành chưa coi trọng ý kiến các tổ chức cá nhân, chủ yếu là tạo

điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước…
Thứ tư, các quy tắc và quy định thường được các cơ quan, chính quyền địa
phương diễn giải và áp dụng khác nhau gây ra sự thiếu rõ ràng và không nhất
quán. Chưa kể, tình trạng thiếu hệ thống hóa các quy trình và sự phối hợp thiếu
hiệu quả giữa các cơ quan quản lý làm buông lỏng việc thực thi pháp luật, suy
giảm niềm tin của các nhà đầu tư. (EuroCham, 2014).
Thứ năm, tổ chức thực hiện thể chế vẫn còn nhiều yếu kém, chậm được khắc
phục. Nhiều thể chế không được tổng kết, sửa đổi, bổ sung kịp thời trong quá trình
kiểm tra, thực hiện. Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức viên
chức của một số bộ, ngành, địa phương chất lượng còn kém, ít tính sáng tạo và
chưa sát với thực tiễn công tác cải cách hành chính.
Thứ sáu, chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức trong các cơ quan hành
chính và chưa thực hiện tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm, cơ chế quy định trách
nhiệm người đứng đầu. Công tác chống tham nhũng, sách nhiễu DN vẫn còn hạn
chế; sự tham gia, đóng góp ý kiến của người dân, tổ chức, DN và công chúng vào
quá trình cải cách hành chính còn chưa được coi trọng, hoặc chưa được tiếp thu và
điều chỉnh kịp thời.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do cải cách hành chính là một công việc
khó khăn, phức tạp, nhiều lực cản. Công tác truyền thông về các chương trình tổng
thể còn chưa tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính
7


trị và sự đồng thuận trong nhân dân. Việc đánh giá công tác cải cách thủ tục hành
chính tại cấp trung ương và cả cấp địa phương chưa được triển khai theo hướng
tăng cường sự tham gia của người dân, DN vốn là những đối tượng sử dụng dịch
vụ công này. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành và địa phương chưa đẩy mạnh triển
khai có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2011-2020 trên phạm vi toàn quốc. Đặc biệt, tính công khai, minh bạch của nền
hành chính còn nhiều thách thức, một bộ phận cán bộ, công chức suy giảm lý

tưởng, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp gây bất bình
trong nhân dân...

III.

Mục tiêu và yêu cầu của việc cải cách thủ tục hành chính hiện nay
1. Mục tiêu

- Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về
tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính. Tiếp tục đổi mới quy trình xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc
chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá
trình xây dựng thể chế; phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng
cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
- Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây
phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới
theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
- Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ
không cần thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận.
- Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội
bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện. Bộ máy của các Bộ
được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt
động của các bộ phận tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông
suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả;

- Thủ tục hành chính được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và
doanh nghiệp về thủ tục hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020;
- Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp
lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước; 100% các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu
cán bộ, công chức theo vị trí việc làm;
8


- Chính sách tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ
bản; thực hiện thang, bảng lương và các chế độ phụ cấp mới; đến năm 2020 đạt
được mục tiêu quy định tại Điểm h Khoản 4 Điều 3 Nghị quyết này;
- Sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp
trên các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020; sự hài lòng của
người dân và doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà
nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;
- Đến năm 2020, việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước đạt được mục tiêu quy định tại Điểm a
Khoản 6 Điều 3 Nghị quyết số 30c/NQ-CP
2. Yêu cầu

Những yêu cầu của quá trình cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn hiện
nay của nước ta là:
- Phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính
- Bảo đảm sự chặt chẽ của hệ thống thủ tục hành chính
- Bảo đảm tính hợp lý của thủ tục hành chính
- Bảo đảm tính khoa học của quy trình thực hiện các thủ tục hành chính đã ban
hành.
- Bảo đảm tính rõ ràng và công khai của các thủ tục hành chính
- Dễ hiểu, dễ tiếp cận

- Có tính khả thi.
- Bảo đảm tính ổn định cần thiết của quy trình thủ tục hành chính.
IV.

Đề xuất giải pháp
Thứ nhất, tiếp tục coi trọng công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cải cách
hành chính đối với các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân.
Thứ hai, bảo đảm sự nhất quán, kiên trì liên tục trong triển khai cải cách hành
chính từ xây dựng chương trình, kế hoạch cải cách hành chính; tổ chức triển khai;
kiểm tra thực hiện; đánh giá kiểm điểm kết quả cải cách hành chính phải dựa vào
đánh giá những mục tiêu đề ra cũng như tác động (tích cực và tiêu cực nếu có) tới
xã hội của hoạt động cải cách hành chính.
Thứ ba, coi trọng công tác thí điểm, mạnh dạn làm thử trong triển khai cải cách
hành chính. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ
chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; đặc biệt, là
triển khai nhân rộng cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại cấp huyện...
Thứ tư, cần tạo dựng sự thay đổi triệt để trong nhận thức về điều hành kinh tế,
và có nhận thức đúng về vai trò điều tiết, quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

9


Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh triển khai có hiệu quả Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 trên phạm vi toàn quốc; các bộ
khẩn trương xây dựng và triển khai các đề án, dự án được phân công tại Nghị
quyết số 30c/ NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ và Nghị quyết số 76/NQ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP.
Thứ sáu, tiếp tục rà soát, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy cơ

quan hành chính Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương; sớm hoàn
thành việc ban hành Nghị định thay thế, sửa đổi các Nghị định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các bộ, ngành theo quy định.
Thứ bảy, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Đẩy mạnh cải cách
chế độ công vụ, công chức trong đó có trọng tâm là xây dựng cơ cấu công chức
theo vị trí việc làm và đổi mới công tác đánh giá công chức trên cơ sở kết quả
công việc; khẩn trương xác định danh mục vị trí việc làm và cơ cấu công chức
theo ngạch trong các cơ quan, tổ chức. Đặc biệt, nhân rộng việc áp dụng phần
mềm trong các kỳ thi tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức.
Thứ tám, tiếp tục xác định, công bố, đánh giá Chỉ số cải cách hành chính hàng
năm của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; đồng thời, triển khai xác định Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục
vụ của cơ quan hành chính Nhà nước hàng năm.
Thứ chín, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đi vào thực chất, nhất là
các thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
người dân, DN. Quán triệt sâu rộng và triển khai nghiêm túc thực hiện Nghị quyết
19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
cải thiện môi trường kinh doanh; nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong đó
trọng tâm là xây dựng; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật, các cơ chế
chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho mọi tổ chức,
DN, người dân phát triển sản xuất kinh doanh...
Thứ mười, cần chuyển giao các dịch vụ công liên quan đến các hoạt động hỗ
trợ phát triển DN và xúc tiến thương mại, đầu tư cho các Hiệp hội DN để tập trung
nỗ lực của các cơ quan Chính phủ vào việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước;
tinh giản bộ máy hành chính, đảm bảo tính chuyên nghiệp; đồng thời, giúp tạo
nguồn thu hỗ trợ các hiệp hội, ngành hàng trong quá trình hoạt động.
Cuối cùng, cần tạo dựng một khuôn khổ thể chế hoạt động thông suốt là điều
kiện tiên quyết để thực hiện thành công các dự án đối tác công-tư. Đẩy mạnh công
tác kiểm tra cải cách hành chính, thực hiện phương án đơn giản hóa thủ tục hành
chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước theo các nghị quyết của Đảng và Chính

phủ; xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn cho người dân và DN
của cán bộ, công chức, viên chức được giao nhiệm vụ giải quyết thủ tục hành
chính.

10



×