Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Tăng cường hiệu quả giáo dục trẻ vùng sâu vùng xa xã tênh phông thông qua kênh giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.04 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÙI THỊ NIỀM

TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TRẺ VÙNG SÂU VÙNG XA
XÃ TÊNH PHÔNG THÔNG QUA KÊNH GIAO TIẾP GIỮA
GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH TRONG GIỜ ĐÓN, TRẢ TRẺ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÙI THỊ NIỀM

TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TRẺ VÙNG SÂU VÙNG XA
XÃ TÊNH PHÔNG THÔNG QUA KÊNH GIAO TIẾP GIỮA
GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH TRONG GIỜ ĐÓN, TRẢ TRẺ

Chuyên ngành: Giao tiếp sƣ phạm

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Đặng Thị Sợi

Sơn La, năm 2015



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô
giáo, Thạc sĩ Đặng Thị Sợi - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận
tình cho em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong Ban
giám hiệu, phòng Đào Tạo, Ban chủ nhiệm Khoa Tiểu học - Mầm non, Thư viện
trường Đại học Tây Bắc và tập thể lớp K52A ĐHGD Mầm non.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các cô giáo
trường Mầm non Tênh Phông - xã Tênh Phông - huyện Tuần Giáo - tỉnh Điện Biên
đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Khóa luận của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót, hạn chế, em kính mong
nhận được sự quan tâm, góp ý của quý thầy, cô và các bạn để khóa luận của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, Tháng 05 năm 2015
Người thực hiện
Bùi Thị Niềm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 4
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 4
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4
6. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 5
7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 5
8. Những đóng góp của khóa luận ........................................................................ 5

9. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................. 6
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 7
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG ...................................... 7
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................ 7
1.1.1. Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học nước ngoài ............................................ 7
1.1.2. Vấn đề giao tiếp ở Việt Nam ....................................................................... 8
1.2. Một số vấn đề về giao tiếp ............................................................................. 9
1.2.1. Khái niệm giao tiếp ..................................................................................... 9
1.2.1.1. Hướng tiếp cận thứ nhất .......................................................................... 9
1.2.1.2. Hướng tiếp cận thứ hai. .......................................................................... 10
1.2.2. Vai trò của giao tiếp .................................................................................. 17
1.3. Giao tiếp sư phạm ........................................................................................ 19
1.3.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm .................................................................... 19
1.3.2. Những nguyên tắc của giao tiếp sư phạm ................................................. 20
1.3.3. Các kĩ năng giao tiếp sư phạm .................................................................. 22
1.3.3.1. Khái niệm kĩ năng giao tiếp sư phạm .................................................... 22
1.3.3.2. Các nhóm kĩ năng giao tiếp sư phạm ..................................................... 23
1.4. Vai trò, ý nghĩa của giờ đón, trả trẻ ............................................................. 29
1.5. Đặc điểm tâm lí chung của một số phụ huynh dân tộc Mông xã Tênh Phông
............................................................................................................................. 30


Tiểu kết chương 1................................................................................................ 32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIAO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ PHỤ
HUYNH XÃ TÊNH PHÔNG TRONG GIỜ ĐÓN, TRẢ TRẺ ..................... 33
2.1. Điều tra thực trạng........................................................................................ 33
2.1.1. Mục đích điều tra....................................................................................... 33
2.1.2. Đối tượng điều tra ..................................................................................... 33
2.1.3. Địa điểm điều tra ....................................................................................... 33
2.1.4. Nội dung điều tra ....................................................................................... 34

2.1.5. Thời gian điều tra ...................................................................................... 34
2.2. Kết quả điều tra ............................................................................................ 34
2.2.1. Thực trạng giáo dục trẻ ............................................................................. 34
2.2.2. Mức độ nhận thức của giáo viên và phụ huynh về tầm quan trọng của giao
tiếp trong giờ đón, trả trẻ ..................................................................................... 35
2.2.2.1. Mức độ nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của giao tiếp trong
giờ đón, trả trẻ ..................................................................................................... 35
2.2.2.2. Mức độ nhận thức của phụ huynh về tầm quan trọng của giao tiếp trong
giờ đón, trả trẻ ..................................................................................................... 36
2.2.3. Mức độ giao tiếp của giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ ........ 36
2.2.3.1. Mức độ giao tiếp của giáo viên với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ ... 36
2.2.3.2. Mức độ giao tiếp của phụ huynh với giáo viên trong giờ đón, trả trẻ ... 37
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 39
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC TRẺ VÙNG SÂU VÙNG XA XÃ TÊNH PHÔNG THÔNG QUA
KÊNH GIAO TIẾP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH TRONG GIỜ
ĐÓN, TRẢ TRẺ ................................................................................................ 40
3.1. Khái niệm biện pháp .................................................................................... 40
3.2. Một số biện pháp tăng cường hiệu quả giáo dục trẻ vùng sâu vùng xa xã
Tênh Phong.......................................................................................................... 40
3.2.1. Giáo viên luôn luôn nở nụ cười trên môi trong giờ đón, trả trẻ ................ 41
3.2.2. Luôn luôn có thái độ thân thiện, hợp tác, hòa đồng, gần gũi với phụ huynh .. 42


3.2.3. Chú ý quan tâm, chia sẻ với những phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn ... 43
3.2.4. Tạo niềm tin, sự gắn kết giữa phụ huynh và giáo viên ............................. 44
3.2.5. Giáo viên chủ động học tiếng dân tộc, tìm hiểu phong tục tập quán của địa
phương ................................................................................................................. 46
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 48
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 49

1. Kết luận ........................................................................................................... 49
2. Kiến nghị ......................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến con người. Theo
Người “con người là vốn quý nhất”. Đảng và nhà nước ta cũng khẳng định:
“Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế – xã hội”. Trong
thời đại công nghệ thông tin, kinh tế thị trường, “Sự phát triển con người là yếu
tố quyết định mọi sự phát triển”. Đất nước ta đã và đang tiến hành công nghiệp
hóa hiện đại hóa trong thời kì mở cửa, với sự thay đổi cơ cấu xã hội, để tiếp thu
một nền văn minh phát triển cao đòi hỏi con người phải giao lưu trong phạm vi
mở rộng, mở rộng các mối quan hệ, mở rộng khả năng giao tiếp để bảo tồn bản
sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội về mọi mặt.
Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó
không những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển
tâm lý, ý thức, nhân cách mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất
lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Hiện nay trên thế giới giao tiếp đã trở thành một nền khoa học độc lập,
một ngành tâm lí học chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với con
người. Ở Việt Nam, ngành tâm lí nghiên cứu về giao tiếp đang hình thành và
phát triển ngày càng khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của giao tiếp trong
đời sống tâm lí của cá nhân và xã hội. Giao tiếp có ý nghĩa cực kì quan trọng
đối với mỗi người. Con người luôn sống trong xã hội, nên giao tiếp giữa con
người với con người là nhu cầu tất yếu, nếu không có giao tiếp thì sẽ không có
sự tồn tại và phát triển của xã hội, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại

và phát triển ấy.
Cùng với hoạt động, giao tiếp đang là yếu tố quyết định sự hình thành và
phát triển của loài người cũng như của từng cá nhân. Nhờ tham gia vào hoạt
động giao tiếp mà các đặc trưng xã hội của con người được hình thành, cá nhân
lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử xã hội, chuyển hóa thành kinh nghiệm
riêng của cá nhân, thành phẩm chất và năng lực của chính mình để tham gia vào
1


đời sống xã hội. Có như vậy cá nhân mới tồn tại, thích nghi và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Mọi kinh nghiệm xã hội đều chứa đựng trong thế giới đối tượng và trong
thế giới con người. Muốn chiếm lĩnh được nó con người phải được tiếp xúc,
giao tiếp với đối tượng, đặc biệt phải giao tiếp với những người xung quanh –
những người lớn hơn, có nhiều kinh nghiệm hơn. Nhờ có sự hướng dẫn chỉ bảo
của người khác thông qua giao tiếp mà cá nhân lĩnh hội được những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội loài người chứa đựng trong đối tượng đó một cách nhanh
nhất, nhân cách được phát triển phù hợp với yêu cầu xã hội. Thực tế đã chứng
minh: Giao tiếp trong môi trường nhà trường, môi trường giáo dục giữa thầy trò,
giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, giữa người được giáo dục với nhau
giúp cho cá nhân lĩnh hội được những tri thức cần thiết bằng những con đường
nhanh nhất và đỡ tốn kém nhất, tạo điều kiện tối ưu cho sự hình thành và phát
triển nhân cách. Giao tiếp còn là điều kiện tồn tại của con người, là nhu cầu cơ
bản cần được thỏa mãn, không có giao tiếp với người khác con người cảm thấy
cô đơn dễ trở thành bệnh hoạn.
Mặt khác giao tiếp có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển
nhân cách nghề. Sự thành công của mỗi người trong công việc mà mình đang
thực hiện không chỉ phụ thuộc vào kiến thức chuyên môn mà còn phụ thuộc vào
khả năng giao tiếp, ứng xử khéo léo với mọi người và trong mọi hoàn cảnh. Vì
lẽ đó, giao tiếp cần được xem xét, nghiên cứu với tư cách như một phẩm chất

của nhân cách.
Đặc biệt là trong hoạt động sư phạm, thì giao tiếp không thể thiếu được.
Bởi vì quá trình dạy học và giáo dục là quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học
sinh. Hiệu quả của quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một trong những
yếu tố góp phần quan trọng vào sự thành công của hoạt động sư phạm, đó chính
là năng lực giao tiếp của giáo viên. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
người giáo viên tương lai không chỉ tích cực rèn luyện chuyên môn sâu, mà còn
phải tích cực rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để có khả năng giao tiếp tốt khi bước
vào nghề.
2


1.2. Cơ sở thực tiễn
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn một cách sơ bộ ở nhà trường vùng sâu, vùng
xa chúng tôi nhận thấy công tác giáo dục nói chung và giáo dục thói quen hành
vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ em ở các vùng còn nhiều bất cập chưa được chú ý
đúng mức. Do trình độ dân trí còn thấp, sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa còn
hạn chế, đời sống lạc hậu, kinh tế khó khăn, ngôn ngữ bất đồng, sự nhận thức về
giao tiếp có văn hóa của một số phụ huynh chưa tốt, bản thân cha mẹ và những
người thân trong gia đình chưa gương mẫu. Phương pháp giảng dạy của giáo
viên trong việc lồng ghép giáo dục chưa thường xuyên, việc giao tiếp với phụ
huynh học sinh chưa được chú trọng.
Đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của giao tiếp trong giờ
đón trả trẻ. Việc giao tiếp trong giờ đón, trả trẻ đã được tiến hành nhưng chưa
được thường xuyên, liên tục, việc xác định mục đích của giao tiếp còn chưa
được đầy đủ và đúng đắn. Hơn nữa, do bất đồng về ngôn ngữ nên giáo viên chưa
ý thức, quyết tâm và chưa tìm ra biện pháp để giao tiếp với phụ huynh một cách
hiệu quả. Còn về phụ huynh, 100% phụ huynh là người dân tộc đời sống khó
khăn, trình dộ dân trí thấp, ngôn ngữ bất đồng nên họ chưa nhận thức được tầm
quan trọng của giao tiếp trong giờ đón, trả trẻ. Việc giao tiếp với giáo viên chỉ

mang tính chào hỏi, chưa nắm được mục đích của việc giao tiếp. Ngoài ra đa số
giáo viên, phụ huynh còn chưa nhận thức hết được mục đích của giao tiếp trong
giờ đón, trả trẻ dẫn đến những thiếu sót trong việc phối hợp giữa gia đình và nhà
trường. Đây là một thiếu sót cần được khắc phục kịp thời.
Giao tiếp là hoạt động sống của con người và chính là phương thức sống
để tồn tại và phát triển xã hội loài người. Trường mầm non chính là cái nôi đầu
tiên giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách, là nơi đặt nền móng đầu tiên
trong sự nghiệp trồng người. Các nhà giáo dục đã đưa ra nhiệm vụ quan trọng để
định hướng cho việc chăm sóc giáo dục trẻ một cách đúng đắn, trong đó việc
giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ có vai trò hết sức
quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay giáo viên chưa biết được những
hiệu quả giáo dục thông qua việc giao tiếp với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ
3


và đa số các bậc phụ huynh chưa hiểu được vai trò của việc giáo dục đối với sự
phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi chọn đề tài “Tăng cƣờng hiệu
quả giáo dục trẻ vùng sâu vùng xa xã Tênh Phông thông qua kênh giao tiếp
giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ”.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Kênh giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm hướng tới đề xuất một số biện pháp để tăng cường hiệu quả
giáo dục thông qua kênh giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón,
trả trẻ. Từ đó giúp giáo viên và phụ huynh biết cách giáo dục trẻ để giúp trẻ phát
triển một cách toàn diện.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống hoá một số vấn đề lí luận chung liên quan đến đề tài.
4.2. Tìm hiểu nhận thức của giáo viên và phụ huynh về tầm quan trọng

của giao tiếp trong giờ đón, trả trẻ. Mức độ giao tiếp của giáo viên và phụ
huynh trong giờ đón, trả trẻ.
4.3. Đề xuất một số biện pháp tăng cường hiệu quả giáo dục trẻ vùng
sâu vùng xa xã Tênh Phông thông qua kênh giao tiếp giữa giáo viên và phụ
huynh trong giờ đón, trả trẻ.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu
- 20 giáo viên trường Mầm non Tênh Phông – xã Tênh Phông – huyện
Tuần Giáo – tỉnh Điện Biên.
- 20 phụ huynh trên địa bàn xã Tênh Phông – huyện Tuần Giáo – tỉnh
Điện Biên.
5.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu vai trò của giao tiếp giữa giáo viên và phụ
huynh trong giờ đón, trả trẻ; Thực trạng nhận thức của giáo viên và phụ huynh
về tầm quan trọng của giao tiếp trong giờ đón, trả trẻ. Từ đó, chúng tôi đề xuất
4


một số biện pháp để tăng cường hiệu quả giáo dục thông qua kênh giao tiếp giữa
giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ.
6. Giả thuyết khoa học
6.1. Thực tế giáo viên và phụ huynh xã Tênh Phông chưa nhận thức được ý
nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của giao tiếp trong giờ đón, trả trẻ đối với việc
giáo dục trẻ.
6.2. Nếu khóa luận đề xuất được những biện pháp phù hợp thì cuộc giao
tiếp giữa giáo viên và phụ huynh sẽ được diễn ra một cách thuận lợi hơn từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng những nhóm phương pháp
nghiên cứu sau đây:

7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu sách, tài liệu liên quan đến vấn đề giao tiếp.
Đọc và hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến giao tiếp, vai trò của
giao tiếp, vai trò ý nghĩa của việc đón, trả trẻ.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng phương pháp quan sát: Quan sát các nghiệm thể để nghiên cứu
nhận thức của giáo viên và phụ huynh về vai trò của giao tiếp trong giờ đón, trả
trẻ đối với việc giáo dục trẻ.
Sử dụng phiếu điều tra: Điều tra giáo viên và phụ huynh. Sử dụng phiếu
điều tra để đánh giá thực trạng giao tiếp giáo viên và phụ huynh trong giờ đón,
trả trẻ và thực trạng kết quả giáo dục trẻ.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Thống kê các số liệu thu được sau khảo sát để có nhận định, đánh giá thực
trạng một cách khoa học, chính xác. Để định lượng kết quả nghiên cứu, khái
quát hóa và rút ra kết luận về đề tài nghiên cứu.
8. Những đóng góp của khóa luận
Hệ thống hóa những vấn đề lí luận và thực tế liên quan đến việc giao tiếp
giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ.
5


Phát hiện thực trạng giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón,
trả trẻ.
Bổ sung một số phương pháp giáo dục trẻ, góp phần giúp giáo viên và
phụ huynh nắm được vai trò của giao tiếp trong giờ đón, trả trẻ.
Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Tiểu học – Mầm non, giáo
viên mầm non, các bậc phụ huynh nói chung và các bạn sinh viên quan tâm tới
vấn đề này.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài chúng tôi gồm:

Chương I: Một số vấn đề lý luận chung.
Chương II: Thực trạng giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh xã Tênh
Phông trong giờ đón, trả trẻ.
Chương III: Một số biện pháp tăng cường hiệu quả giáo dục trẻ vùng sâu
vùng xa xã Tênh Phông thông qua kênh giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh
trong giờ đón, trả trẻ.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề giao tiếp trong tâm lý học nước ngoài
Từ xa xưa giao tiếp đã là một vấn đề được nhiều khoa học quan tâm
nghiên cứu. Tất cả các nhà tâm lý học trên thế giới đều gặp nhau tại một điểm
trong phạm trù giao tiếp – khẳng định vai trò quyết định của giao tiếp đối với
cuộc sống xã hội và sự hình thành nhân cách của con người. A.A.Bôdaliop khi
khai mạc Hội nghị khoa học “Giao tiếp với tư cách là đối tượng của các công
trình nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn” đã nói: “Trong hoạt động giao tiếp có
thể tìm thấy sự thể hiện tổng hợp của tất cả các đặc trưng cơ bản của con người
như là một thành viên của xã hội, như là một chủ thể của hoạt động nhận thức và
sáng tạo”. Vì vậy giao tiếp thực sự trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học
tâm lý. Cho đến nay trên thế giới việc nghiên cứu giao tiếp trở thành một hệ
thống, một ngành riêng: Tâm lý học giao tiếp.
Trong lịch sử của ngành tâm lý học giao tiếp, việc nghiên cứu giao tiếp
được tiến hành trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, thu hút tất cả các nhà
khoa học có tên tuổi trên thế giới. Thời cổ đại như Xôcơrat, Platon, Arixtot…
sau này đến các nhà tâm lý học hiện đại như: Anna Freud, E.E.Acquyt;
M.Again;


A.N.Leonchiev;

M.I.Lixina;

B.D.Econhin;

V.X.Mukhina;

B.F.Lomov; L.X.Vwgotxki. Các công trình lí luận có thể kể tới là: Thời cổ
đại các triết gia Xoocrate, Platon đã đề cập tới giao tiếp và cho rằng: “Đối
thoại như là giao tiếp trí tuệ như là sự phản ánh trí tuệ, phản ánh mối quan hệ
giữa con người với con người”.
Mac – Ăngghen: Xem giao tiếp với người khác như là một trong các yếu
tố cơ bản quyết định sự hình thành phát triển tâm lý, ý thức của con người.
Năm 1956 ba tác giả người Mỹ: Johnson, Lgrrison, M.Schlekamp đã viết
cuốn sách về “giao tiếp”, đề cập mối quan hệ giữa kỹ năng giao tiếp với sự tiến
bộ trong trường đại học của sinh viên, cách biểu lộ tình cảm, phát triển kĩ năng
bình luận.
7


Năm 1960 Bavelas (Pháp) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc
giao tiếp, đưa ra khái niệm “khoảng cách” được xác định như là một mắt xích
giao tiếp cần thiết để một thông điệp tới được người khác bằng con đường ngắn
nhất. Đầu năm 1970 ở Liên xô cũ một số bài báo về giao tiếp được giới thiệu
trong các hội nghị “Tâm lý học về giao tiếp” được tổ chức vào tháng 3/1970;
tháng 3/1973; tháng 5/1973. Các hội nghị này đề cập đến hàng loạt vấn đề;
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu giao tiếp; cơ chế giao tiếp; ảnh
hưởng của những đặc điểm tâm lý cá nhân đối với quá trình giao tiếp; giao tiếp

và lãnh đạo, giao tiếp trong quần chúng; mô hình hóa quá trình giao tiếp, sự
chệch hướng và vi phạm loại hình giao tiếp… và nhiều công trình nghiên cứu lí
luận khác.
Bên cạnh các công trình công bố trong 3 hội nghị trên còn có hàng loạt
các công trình với các mức độ khác nhau được nghiên cứu ở Liên xô và các
nước Đông Âu. Các nước Tây Âu, vấn đề giao tiếp cũng được một số học giả
quan tâm.
1.1.2. Vấn đề giao tiếp ở Việt Nam
Tại Việt Nam, tâm lý học là khoa học còn non trẻ. Vấn đề giao tiếp được
đi sâu nghiên cứu từ năm 1970 – 1980. Việc nghiên cứu giao tiếp phát triển
mạnh mẽ và đi theo xu hướng khác nhau, thể hiện các công trình nghiên cứu lí
luận và thực tiễn. Có thể khái quát một số hướng nghiên cứu về giao tiếp và hoạt
động giao tiếp trong lĩnh vực sư phạm như sau:
Nghiên cứu lí luận về giao tiếp: Khái niệm, bản chất, vai trò, quan hệ giữa
giao tiếp và hoạt động. Có thể kể ra một số công trình sau: Đỗ Long: “Cacmac
và phạm trù giao tiếp” (1963); Bùi Văn Huệ: “Bàn về phạm trù giao tiếp”
(1981); Trần Trọng Thủy: “Giao tiếp tâm lý, nhân cách” (1981), “Giao tiếp và
sự phát triển nhân cách trẻ” (1981); Ngô Công Hoàn: “giao tiếp sư phạm”
(1987) và “Một số vấn đề về giao tiếp sư phạm”; Nguyễn Văn Lê: “vấn đề giao
tiếp” (1992). Trong đó có nhóm các công trình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp
sư phạm có thể kể tới là: Hoàng Anh – “kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh
viên”; Nguyễn Thạc – Hoàng Anh với cuốn “luyện giao tiếp sư phạm”8


ĐHSPHN – 1997; Ngô Công Hoàn – Hoàng Anh: “giao tiếp sư phạm”; Trần
Duy Hưng đã bàn tới kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên; Ứng xử sư phạm
(Trịnh Trúc Lâm).
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp của sinh
viên ở một số trường Đại học và Cao Đẳng như: “Đặc điểm giao tiếp của sinh
viên trường Cao Đẳng sư phạm Quảng trị”- Nguyễn thị Diễm; “Khả năng giao

tiếp của sinh viên sư phạm tỉnh Sơn La” – Lò Thị Mai Thoan; “Ảnh hưởng của
nhu cầu giao tiếp đến việc thiết lập các mối quan hệ giao tiếp sư phạm của sinh
viên trường cao đẳng sư phạm Quảng Trị”…
Nhìn chung những công trình này đi sâu vào phân tích đặc điểm chung về
giao tiếp của sinh viên các trường sư phạm và nghiên cứu khả năng giao tiếp sư
phạm của sinh viên. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng ngày nay chưa có công
trình nào nghiên cứu riêng biệt về giao tiếp dành cho lĩnh vực giáo dục mầm
non, đặc biệt là giao tiếp giữa giáo viên và phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ.
1.2. Một số vấn đề về giao tiếp
1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một vấn đề quan trọng và phức tạp, nó đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ở những góc khác nhau. Nhìn chung khi định nghĩa về giao
tiếp các tác giả xuất phát từ hai hướng tiếp cận sau.
1.2.1.1. Hướng tiếp cận thứ nhất : xuất phát từ các chuyên ngành tâm lý học
ứng dụng
Từ các ngành tâm lý học ứng dụng, các liên ngành tâm lý học du lịch, tâm
lý học kinh doanh, tâm lý học trị liệu, tâm lý học tuyên truyền, tâm lý học y
học… Hầu hết các nhà tâm lý học ứng dụng khi nhìn nhận khái niệm giao tiếp
đều đề cập tới hai vấn đề sau:
- Nhấn mạnh đến vấn đề thông tin, thông báo trong giao tiếp.
- Tính đến hiệu quả mang tính đặc thù trong lĩnh vực riêng biệt đó.
Tâm lý học kinh doanh xem giao tiếp là một quá trình, một kích thích
dưới dạng một thông điệp được một bộ phát truyền đi nhằm tác động và gây hậu
quả khi đi tới bộ thu.
9


Tâm lý học ứng dụng coi giao tiếp là một tập hợp quá trình truyền đạt và
tri giác các thái độ, niềm tin và ý định, dựa vào bộ máy sinh học, tâm lý chung
của loài người làm sao cho đôi bên đối thoại hiểu được nhau và đạt được mục

tiêu giao tiếp.
Tâm lý học y học: xem xét giao tiếp là quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh
nhân; thầy thuốc và thầy thuốc; bệnh nhân – bệnh nhân trong bệnh viện nhằm
tạo sự tin tưởng ở khả năng chữa trị cho bệnh nhân.
1.2.1.2. Hướng tiếp cận thứ hai: xem xét các xu hướng cơ bản trong tâm lý học
giao tiếp.
Khi tìm hiểu, khám phá bản chất giao tiếp, các nhà tâm lý học thế giới đã
đi theo 3 xu hướng rõ rệt.
- Hướng thứ nhất: xác định bản chất giao tiếp qua việc xác định nội hàm
của khái niệm (thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp).
- Hướng thứ hai: xem xét bản chất giao tiếp qua việc xác định vị trí của
giao tiếp trong hệ thống các khái niệm phạm trù tâm lý.
- Hướng thứ ba: xác định chính xác hóa khái niệm giao tiếp bằng việc
phân biệt “giao tiếp” với các thuật ngữ, khái niệm liên quan như “thông tin”,
“ứng xử” hoặc “quan hệ xã hội”.
* Hướng thứ nhất: “Thu hẹp hoặc mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp”.
+ Xu hướng thu hẹp khái niệm giao tiếp: chỉ nhấn mạnh một khía cạnh
nhất định nào đó trong giao tiếp.
- Nhấn mạnh đến khía cạnh thông tin trong giao tiếp giữa người với
người, gồm các tác giả với những quan niệm sau.
Theo E.E.Acquyt và M.A.Acgain quan niệm: “Giao tiếp là sự tác động, sự
truyền và tiếp nhận thông báo, sự trao đổi thông tin của con người”.
K.K.Platonop: “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa con người với nhau,
sự trao đổi thông tin này gọi là tiếp xúc”.
Fischer: “Sơ đồ giao tiếp nằm trong một quá trình truyền thông tin, bao
gồm 4 yếu tố khác nhau: Một điểm phát – biến đổi thông tin thành mã, một kênh
thông tin, một điểm thu nhận thông tin, một danh mục tín hiệu”.
10



- Nhấn mạnh đến khía cạnh cảm xúc của sự giao tiếp như tác giả
L.Stecxon (pháp): Coi giao tiếp là sự trao đổi ý nghĩ, tình cảm và cảm xúc giữa
con người với nhau.
- Nhấn mạnh khía cạnh hành động, hành vi của giao tiếp T.Chuccon (Mỹ)
và ba nhà tâm lý hoc Pháp P.Oathanit; G.Bivanh; D.Giăcson: Coi giao tiếp là
một tổ hợp hành vi, quá trình này tích hợp nhiều loại hành vi gồm: ngôn ngữ,
hành vi điệu bộ, hành vi cử chỉ.
Xu hướng thu hẹp này đã xác định được chính xác từng mặt trong nội
hàm khái niệm giao tiếp, nhưng chưa đủ vì giao tiếp với tư cách là một hiện
tượng tâm lý con người phải bao gồm cả ba mặt: Nhận thức (thông tin), xúc cảm
và hành động. Mặt khác xu hướng này chỉ dừng lại ở việc mô tả bề ngoài của
quá trình giao tiếp, chưa nêu rõ bản chất bên trong của quá trình này.
- Xu hướng mở rộng nội hàm khái niệm giao tiếp đến mức đồng nhất giao
tiếp với giao lưu chung cho cả ở người và động vật.
- Như B.V.Xocolop cho rằng: Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau và giữa
những động vật tâm lí với nhau. Nếu thu hẹp hơn thì có thể hiểu “giao tiếp là
mối quan hệ giữa con người với những động vật nuôi trong nhà”.
Ngoài ra một số nhà khoa học khác đã dùng thuật ngữ: “Giao tiếp thính
giác chim” “giao tiếp ở khỉ” để mô tả khía cạnh thông báo giữa các động vật.
Như vậy có thể thấy, xu hướng mở rộng khái niệm giao tiếp đã làm mất đi
bản chất xã hội của giao tiếp; không thấy được sự khác biệt về bản chất giữa
giao tiếp người và thông báo ở động vật. Về phương tiện giao tiếp ở người mang
tính chất truyền đạt một khối lượng thông tin lớn phức tạp gồm cả tính chất cụ
thể và tính chất trừu tượng, còn động vật chỉ mang tính chất cụ thể (thông báo về
tình huống cụ thể bên ngoài hoặc trạng thái của con vật).
* Hướng thứ hai: Nhìn nhận bản chất giao tiếp trong việc xác định vị trí
của nó trong hệ thống các khái niệm phạm trù tâm lý học. Đại diện là hai nhà
tâm lý học A.A.Leeonchiep và B.Ph.Lomop khi bàn về giao tiếp và hoạt động.
A.A.Leonchiep nghiên cứu trên cơ sở hệ thống hoạt động. Theo ông, giao
tiếp là một dạng đặc biệt của phạm trù hoạt động, nhưng không phải lúc nào nó

11


cũng là hoạt động hoàn chỉnh ở bậc cao và độc lập. Giao tiếp có thể tham gia
vào một hoạt động không giao tiếp khác, với chức năng như hoạt động lý thuyết
tham gia vào hoạt động thực hành. Và trong trường hợp này giao tiếp cũng
không khác gì so với các dạng khác của hoạt động.
Tại sao giao tiếp có thể là một dạng của hoạt động?
Thứ nhất là mối quan hệ giữa chủ thể với môi trường xung quanh do hoạt
động tạo nên đã bao hàm cả giao tiếp. Nghĩa là, mối quan hệ chủ thể - khách thể
hay đúng hơn là chủ thể - hoạt động – đối tượng không phải là mối quan hệ của
một chủ thể cá thể với một đối tượng riêng biệt, mà là mối quan hệ có tính xã
hội trong cả ba thành phần của nó.
Thứ hai là đối tượng có tính xã hội vì nó không phải là một vật thờ ơ, tồn
tại ngoài xã hội loài người, mà là một vật mà những tính khách quan của nó
được phản ánh trong quá trình hoạt động và cấu tạo nên hình ảnh của vật trong ý
thức của con người, có ý thức xã hội nhất định. Như vậy đối tượng của hoạt
động không phải chỉ là những gì tồn tại ở dạng vật chất mà cả tinh thần nữa.
Thứ ba là bản thân quá trình hoạt động cũng mang tính xã hội, kể cả khi
nó là hoạt động của cá thể, vì trong trường hợp này nó là hoạt động của một cá
thể, chứ không phải là hoạt động mang tính cá thể. Cuối cùng, chủ thể của hoạt
động cũng có tính xã hội. Chính tính xã hội của toàn bộ mối quan hệ chủ thể khách thể và của từng thành phần của nó đã dẫn A.A.Leonchiep đến kết luận
rằng mối quan hệ chủ thể - hoạt động và đối tượng bao hàm cả mối quan hệ chủ
thể - chủ thể, tức phạm trù hoạt động bao hàm cả phạm trù giao tiếp.
Mặt khác, nếu xét theo định nghĩa hoạt động của A.A.Leonchiep thì trong
giao tiếp cũng vậy có đầy đủ các thành phần của chủ thể hoạt động của hoạt
động giao tiếp. Và theo ông thì chủ thể hoạt động của hoạt động giao tiếp là một
nhóm người đồng nhất hay một nhóm người giao tiếp. Còn đối tượng của giao
tiếp là sự tác động lẫn nhau đó cũng là động cơ của giao tiếp. Giao tiếp được
quyết định bởi mối quan hệ lẫn nhau, cũng như hoạt động được quyết định bởi

động cơ của mình, giao tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích và
động cơ đảm bảo sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt động
12


tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các quan hệ tâm lí và sử
dụng các phương tiện đặc thù, mà trước hết là ngôn ngữ.
Từ tất cả những vấn đề đã nêu trên, A.A.Leonchiep cho rằng, không nên
đưa “giao tiếp” thành một phạm trù tâm lí học.
Khác với A.A.Leonchiep, B.Ph.Lomop cho rằng giao tiếp không phải là
một dạng đặc biệt của hoạt động, mà là một phạm trù độc lập vì:
+ Sự khác nhau cơ bản để phân chia hoạt động và giao tiếp là trong hoạt
động thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể, còn trong giao tiếp thể hiện mối
quan hệ chủ thể - chủ thể; “hoạt động” – đây là sự tác động cá thể lên đối tượng;
còn “giao tiếp” là một quá trình. Mặt khác nếu coi giao tiếp là một dạng của hoạt
động thì gặp những khó khăn sau:
- Thứ nhất không tìm thấy được vị trí của giao tiếp trong hệ thống các
dạng hoạt động như đã được phân loại trước đây.
- Thứ hai khó xác định động cơ giao tiếp vì mỗi thành viên của giao tiếp
có động cơ riêng của mình. Trong quá trình giao tiếp chúng có thể xích lại gần
nhau, vì vậy không thể dùng phương pháp nghiên cứu của hoạt động để áp dụng
vào nghiên cứu giao tiếp.
- Thứ ba khó xác định được đối tượng giao tiếp.
Nếu kết quả của hoạt động thực tiễn ở dạng hoạt động vật chất thì kết quả
của giao tiếp là sự thay đổi ý thức, hành vi và tính chất của các thành viên. Vì
vậy giao tiếp gần với hoạt động trí tuệ hơn, nhưng khác với hoạt động này ở chỗ
là giao tiếp không chỉ thay đổi hình ảnh tư tưởng về đối tượng mà còn thay đổi
về chức năng tâm lí và thuộc tính của các thành viên.
Đồng thời Lomop cho rằng, không nên tuyệt đối hóa một phạm trù nào
đó, dù phạm trù đó mạnh đến đâu đi chăng nữa thì nó cũng chỉ thể hiện một mặt

nhất định nào đó của cuộc sống con người, hoạt động và giao tiếp – hai mặt của
sự tồn tại xã hội loài người của lối sống. Hai mặt này luôn gắn liền với nhau
trong một lối sống thống nhất. Hơn nữa giữa chúng luôn tồn tại sự chuyển biến
từ cái này sang cái kia.

13


Tóm lại, B.Ph.Lomop cho rằng hoạt động và giao tiếp là hai mặt của sự
tồn tại xã hội loài người. Hai mặt này luôn gắn liền với nhau trong một lối sống
thống nhất, giữa chúng luôn có sự chuyển hóa lẫn nhau và nhiều khi giao tiếp để
hoạt động và hoạt động để giao tiếp, giao tiếp được thực hiện bằng phương thức
của hoạt động, hoạt động được tiến hành bằng phương thức của giao tiếp, giữa
chúng luôn có sự chuyển hóa giữa cái này sang cái kia.
Đứng trước những quan điểm này đa số các nhà tâm lí học như
K.K.Platomop; A.A.Bodaliop; D.B.Econhin; G.M.Andreeva cho rằng: Cả hai
nhà tâm lí trên đều có điểm hợp lí và điểm chưa hợp lí. Như A.A.Leonchiep thì
chưa giải thích thỏa đáng về đối tượng động cơ, chủ thể của hoạt động này.
B.Ph.Lomop quá nhấn mạnh phạm trù giao tiếp nên khó giải thích khi giao tiếp
có cơ chế như là một hoạt động và khi giao tiếp tham gia vào hoạt động có đối
tượng như là điều kiện thiết yếu của hoạt động. Các nhà tâm lí học đã khẳng
định: “Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lí học”.
Giao tiếp là hoạt động phản ánh mối quan hệ chủ thể - chủ thể. Còn hoạt
động có đối tượng phản ánh mối quan hệ chủ thể - khách thể. Hai khái niệm này
có quan hệ ngang bằng và có quan hệ gắn bó khăng khít với nhau trong phạm trù
hoạt động, là hai mặt thống nhất của con người, của sự phát triển tâm lí.
Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Hoạt động có đối tượng
Hoạt động
Hoạt động giao tiếp

* Hướng thứ ba: Để hiểu được bản chất giao tiếp trong tâm lí học giao
tiếp, các nhà tâm lí học còn phân biệt khái niệm giao tiếp với khái niệm liên
quan như “thông tin”, “quan hệ xã hội”, “ứng xử” như các tác giả E.Đ.Giarcopva;
A.K.Uledova; B.D.Parughin; V.N.Xocopnin.
- Giao tiếp và thông tin: Hai khái niệm này khác nhau ở 3 điểm sau:

14


Một là: Khái niệm “giao tiếp” rộng hơn “thông tin” giao tiếp là sự tiếp
xúc tâm lí có biểu hiện ở thông tin hay thông báo. Hay nói cách khác thông tin
thông báo là một mặt cơ bản không thể thiếu được của giao tiếp.
Hai là: Căn cứ vào tính chất của mối liên hệ cơ bản tham gia vào hệ thống
tác động qua lại. Thông tin là mối liên hệ thông báo của chủ thể đối với các đối
tượng khác nhau: con người, động vật, máy móc.
Còn giao tiếp chỉ quan hệ chủ thể - chủ thể trong đó có sự tác động lẫn
nhau và điều khiển nhau.
Ba là: “Thông tin” chỉ các số lượng quá trình thông báo, sự chuyển giao
thông báo này hay thông báo khác, còn “giao tiếp” có nội dung, tính chất thực
tiễn, vật chất và cả tính chất tinh thần, thông báo.
Theo B.D.Parughin giao tiếp “là quá trình phức tạp và nhiều mặt, nó đồng
thời cũng có thể bộc lộ vừa như là một quá trình tác động của các cá nhân, vừa
như là một quá trình thông tin, như là những quan hệ của con người với nhau,
như là quá trình ảnh hưởng qua lại của người này đến người kia của họ”
Như vậy là trong giao tiếp có chứa đựng một nội dung thông tin còn thông
tin là một mặt của giao tiếp, một nội dung.
- Giao tiếp và quan hệ xã hội: Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Quan hệ xã hội là quan hệ khách quan, phi nhân cách, bản chất của nó
không phải là quan hệ giữa các cá nhân cụ thể. Nó không phải là quan hệ giữa
người với người một cách thuần túy mà đại diện cho các nhóm người quan hệ

với nhau. Quan hệ xã hội gồm có:
 Quan hệ sản xuất
 Quan hệ vật chất
 Quan hệ xã hội giữa các nhóm
 Quan hệ chính trị
 Quan hệ tư tưởng
Còn giao tiếp là sự tiếp xúc giữa các nhân cách cụ thể là sự hiện thực hóa
quan hệ xã hội. Giao tiếp diễn ra trong môi trường xã hội, trong các mối quan hệ
xã hội. Giao tiếp là biểu hiện của các mối quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội xã hội
15


chỉ được biểu biện qua các quá trình giao tiếp. Hai khái niệm này có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
V.N.Miaxsep cho rằng: “Quan hệ qua lại là cơ sở nhân cách bên trong của
sự tác động qua lại, cái sau (tức là sự tác động qua lại) là sự hiện thực hóa hay là
hậu quả và biểu hiện của cái đầu (tức là quan hệ qua lại)”.
- Giao tiếp và ứng xử là hai thuật ngữ khác nhau “ứng xử” là phản ứng
của cơ thể đối với các tác động bên ngoài thể hiện thái độ hành động theo một
cách nào đó đối với người khác trong hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Theo M.Reuchlin: “ứng xử là toàn bộ những hành động (đáp ứng theo
nghĩa của thuyết hành vi) được đặc trưng bằng tổ chức đặt ra cho chúng, mục
đích cuối cùng mà cuối cùng có thể theo đuổi hữu thức hoặc vô thức, duy lí
hoặc phi lí”.
Như vậy, giao tiếp và ứng xử có những điểm chung được thực hiện bởi
các cá nhân khác nhau thực hiện trong các quan hệ xã hội, chịu sự chế ước bởi
các chuẩn mực xã hội. Bên cạnh đó chúng còn có những điểm khác biệt như:
Một là: Khái niệm giao tiếp rộng hơn khái niệm ứng xử, giao tiếp là một
quá trình, còn ứng xử mang tính chất tình huống nằm trong quá trình giao tiếp.
Hai là: Trong giao tiếp người ta chú ý đến nội dung và mục đích của công

việc. Thước đo của giao tiếp là hiệu quả công việc. Còn ứng xử chú ý đến nội
dung tâm lí biểu hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ. Thước đo của ứng xử là thái
độ của cá nhân và những “thuật” biểu hiện qua thái độ hành vi giao tiếp.
Ba là: Trong giao tiếp chú ý đến cái “ý thức” còn trong ứng xử vừa có cái
“ý thức” vừa có cái “vô thức”.
Tóm lại qua phân tích ở trên cho thấy rằng: Khái niệm giao tiếp đến nay
chưa có sự thống nhất hoàn toàn. Dựa trên những quan điểm của các tác giả,
chúng ta có thể hiểu một cách khái quát khái niệm về giao tiếp như sau:
Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với
con người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở các quá
trình trao đổi thông tin, nhận biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại
lẫn nhau. [9, tr 16]
16


Sự tiếp xúc tâm lí ở đây bắt đầu từ việc tri giác lẫn nhau: mỗi chủ thể lắng
nghe tiếng nói của nhau, quan sát hành vi, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ trang phục
của người đối diện. Cùng với kinh nghiệm của bản thân về đối tượng giao tiếp,
mỗi chủ thể nhanh chóng xử lí thông tin mà mình đã tiếp nhận, đưa ra phản ứng
đáp lại những hành vi, cử chỉ, thái độ của chủ thể giao tiếp khác một cách nhanh
chóng và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Trong quá trình đó mỗi chủ thể giao tiếp thể hiện thái độ của mình đối
với người kia, hoặc hài lòng, vui vẻ, dễ chịu, tin tưởng; hoặc không hài lòng
khó chịu.
Như vậy có thể thấy những thông tin mà chủ thể tiếp nhận trong quá trình
giao tiếp không chỉ là những thông báo về các vấn đề trong công việc, cuộc sống
mà bao hàm cả thái độ cảm xúc. Trên cơ sở đó, mỗi người sẽ tích lũy và làm
phong phú thêm kinh nghiệm của bản thân. Như vậy tâm lí người được bộc lộ
trong quá trình tiếp xúc với nhau.
1.2.2. Vai trò của giao tiếp

Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng trong
khoa học và cuộc sống.
Người ta không thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị độc lập,
không phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh vì: “Bản chất con người
không phải là trừu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của tất cả những mối quan hệ xã
hội” (Mác – Anghen “Tuyển tập” – Nhà xuất bản sự thật Hà Nội, 1971)
Cơ sở của quan hệ phụ thuộc lẫn nhau là những nhu cầu của con người
biểu thị mối liên hệ của con người với những người khác cũng như với những
đối tượng và những hoàn cảnh có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với họ và quy
định vị trí cá nhân trong môi trường xã hội. Nói cho thật đúng thì tất cả những
nhu cầu của một người riêng lẻ đều chỉ có thể thoả mãn khi tính đến những nhu
cầu của những người xung quanh. Đồng thời cơ cấu nhu cầu càng phức tạp thì
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa người này với người khác càng tăng. Chẳng

17


hạn chúng ta khó mà tưởng tượng là nhu cầu muốn được người khác tôn trọng
lại có thể thoả mãn ngoài mối liên hệ với những người xung quanh.
Giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành bản thân con
người như là con người xã hội, đồng thời là điều kiện tất yếu của sự tồn tại con
người. Chính vì vậy mà nhiều nhà bác học thuộc lĩnh vực tâm lý học cũng quan
tâm đến vấn đề giao tiếp. Chẳng hạn nhà bác học Đức R.Noibe đã nói: “Con
người là nhu cầu quan trọng của con người, con người sẽ bị mất mát nhiều nếu
họ không thể so sánh được mình với người khác, không thể trao đổi được với
người khác về các ý nghĩ, không thể định hướng được vào người khác. Căm thù
người khác còn tốt hơn là phải sống cô đơn”. Hơn nữa, trong quá trình giao tiếp
với nhau, người ta trao đổi quan niệm với nhau. Trong quan niệm của họ thể
hiện thái độ đánh giá về mặt trí tuệ của họ đối với những mặt khác nhau của đời

sống thực tế, của đời sống vật chất và tinh thần. Những quan niệm này có thể
giống nhau và như thế thì củng cố lẫn nhau và trở thành cơ sở cho hoạt động
chung và cho cách xử sự (giống nhau) của những người ấy. Những quan niệm
giống nhau sẽ củng cố thái độ đạo đức nảy sinh một cách tự phát. Còn trong
trường hợp có những quan niệm khác nhau thì sẽ nảy ra sự đấu tranh quan niệm
dẫn đến việc hình thành quan điểm chung.
Trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi kiến thức cho nhau và
chính như thế là nâng cao trình độ văn hoá chung của tập thể cũng như của mỗi
thành viên trong đó. Điều quan trọng không phải là bản thân các kiến thức được
truyền đạt lại mà là thái độ tích cực đối với các kiến thức đó. Điều đó giải thích
tại sao lại có sự lựa chọn thiên lệch đối với một số nghề nghiệp, sách báo phổ
biến, khoa học, tác phẩm nghệ thuật nào đó. Do ảnh hưởng của chúng mà hình
thành một cái mà ta có thể gọi là “mốt” trong nhận thức thẩm mỹ. Và trong quá
trình giao tiếp người ta cũng trao đổi cho nhau các kinh nghiệm riêng về cuộc
sống và lao động, tác động vào ý chí và tình cảm của nhau nhằm mục đích tạo
nên sự thống nhất rộng lớn để giải quyết các vấn đề xã hội một cách có kết quả.
Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là một
nhân cách qua quá trình giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và thể lực
18


của mình trong sự thống nhất với người khác. Từ đó, có được tình đồng chí, bè
bạn và sự giúp đỡ lẫn nhau, lòng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu sự cô lập. Đặc
biệt qua quá trình giao tiếp, con người có được ấn tượng mới và thông tin mới,
truyền thụ cho nhau những kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm sống, tạo nên sự
phong phú thực sự về mặt tinh thần của mỗi cá nhân.
1.3. Giao tiếp sƣ phạm
1.3.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm
Giao tiếp sư phạm được hiểu là quá trình thiết lập nên các mối quan hệ hai
chiều lẫn nhau về tâm lý giữa người giáo dục với người được giáo dục nhằm

truyền đạt và lĩnh hội tri thức khoa học, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo hoạt động.
Để từ đó tiến hành xây dựng nên những mối quan hệ sư phạm, thực hiện những
tác động nhằm làm phát triển toàn diện, hài hoà những phẩm chất nhân cách cho
học sinh. Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp khi nhà sư phạm đã
thiết lập được các mối quan hệ cần thiết đối với học sinh, có thể tạo ra được
những điều kiện tâm lý thuận lợi để thực thi các tác động giáo dục - đào tạo
trong nhà trường.
Trong dạy học cũng như khi thực thi các loại hoạt động giáo dục, hoạt
động công ích - xã hội và các hoạt động ngoài giờ lên lớp khác, ở giáo viên sẽ biểu
hiện ra những phong cách giao tiếp sư phạm muôn màu, muôn vẻ mà cụ thể như:
- Phong cách giao tiếp sư phạm mang tính chất dân chủ được thể hiện ở
chỗ nhà sư phạm sẽ luôn luôn biết tỏ ra tôn trọng nhân cách học sinh, biết lắng
nghe nguyện vọng ý kiến cá nhân, biết gần gũi thân mật, biết giải quyết kịp thời
các khó khăn được nảy sinh ra trong học tập cho các em.
- Phong cách giao tiếp sư phạm mang tính chất độc đoán thì trong quá
trình sư phạm, chủ thể luôn luôn chỉ biết chú trọng đến nội dung công việc, mà
lại rất xem nhẹ những đặc điểm riêng tư trong từng nhân cách cử học sinh.
- Phong cách sư phạm mang tính cách tự do thường được linh hoạt, tính
cơ động, sự mềm dẻo khéo léo trong pháp xử thế, do đó phong cách này sẽ rất
phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp với đặc điểm cá nhân của học
sinh khi tiến hành các tác động giáo dục - đào tạo trong nhà trường.
19


×