Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Từ chữ nôm đến quốc ngữ châu nhuận phát đi trân châu cảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.45 KB, 27 trang )

Từ chữ Nôm đến quốc ngữ (4): Châu Nhuận Phát đi Trân Chu Cảng
Nguyên Nguyên
Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), hải cảng thuộc quần đảo Hạ Uy Di (Hawaii), đi vào lịch
sử sau cuộc dội bom của quân đội Nhật vào các tàu chiến, máy bay và cơ sở quân sự Mỹ
tại Thái Bình Dương, vào sáng ngày chủ nhật 7 Tháng Chạp 1941.
Liên hệ giữa Mỹ và Nhật đã trở nên căng thẳng nhiều tháng trước đó. Nhất là khi Nhật
thiết lập liên minh với Đức quốc xã, bắt đầu đe dọa các thuộc địa của Anh quốc tại Thái
Bình Dương, và gây sức ép với Pháp tại Đông Dương. Mỹ cấm vận xăng dầu chở đến
Nhật, hy vọng sẽ ngăn chận được bước tiến của Nhật. Nhưng từ tháng 11 Nhật đã âm
thầm gởi các lực lượng tấn công đến phía Nam biển Thái Bình Dương. Trong khi cũng
gởi một phái đoàn sứ thần đến Hoa-Thịnh-Đốn thương thuyết.
Ngày 6 tháng 12, Mỹ bắt được một tài liệu mật gồm 14 phần gửi qua toà đại sứ Nhật.
Nhưng chỉ khai thác được có 13 phần và biết chắc Nhật sẽ tấn công tại Thái Bình Dương.
Nhưng không biết khi nào tấn công. Đến 9 giờ sáng hôm sau, chủ nhật mồng 7, Mỹ mới
biết hết phần 14, và 10 giờ sáng được chỉ đạo của Nhật ra lệnh tấn công Trân Châu Cảng.
Mỹ mới phát hiện được Nhật sẽ tấn công trong chốc lát, bởi chính vào lúc đó, chỉ mới tờ
mờ sáng tại Trân Châu Cảng. Lại rủi, đường dây thép bị hư hỏng nên phải chuyển báo
động đến Pearl Harbor bằng đường dây thương mại dân sự. Đến trưa mới tới, khoảng 4
giờ sau khi Nhật đã bắt đầu dội bom.
Dưới kế hoạch của Đô Đốc Yamamoto, và quyền chỉ huy của Đô Đốc Nagumo, Nhật tấn
công Trân Châu Cảng thuộc đảo Oahu của Hạ Uy Di, bằng 2 đợt oanh tạc bằng máy bay,
xuất phát từ 6 chiếc hàng không mẫu hạm, 230 dặm phía Bắc đảo Oahu. Chuyến đầu
gồm 183 máy bay, tấn công sân bay và tàu chiến từ 7 giờ 53 đến 9 giờ 45. Và chuyến
sau, 167 máy bay oanh tạc tàu chiến và các cơ sở quân sự trên đảo. Dưới khẩu hiệu Tora!
Tora! Tora! (Hổ, Hổ, Hổ). Mỹ bị thiệt hại khủng khiếp trong một khoảng thời gian rất
ngắn, trước sau khoảng 4 tiếng đồng hồ. Tổng cộng 2335 binh sĩ thiệt mạng, 68 thường
dân, và 1178 bị thương.
Chỉ 4 ngày sau, Đức và Ý chính thức tuyên chiến với Mỹ.
Cuộc tấn công Trân Châu Cảng gây nên nỗi kinh hoàng khắp nơi, nhất là tại Mỹ. Bởi tấn
công bất ngờ đã xảy ra trong thời chiến tranh quy ước. Thanh niên chen chúc đăng ký
tòng quân nhập ngũ, và dân chúng đoàn kết sau lưng tổng thống Roosevelt. Tấn công


Trân Châu Cảng cũng kết thúc chính sách cô lập của Mỹ, và đánh thức một ngài khổng
lồ.
“Trân Châu Cảng” đọc theo quan thoại: Zhen Zhu Gang, mang nghĩa ‘Cảng có nhiều
Ngọc Trai’. Phiên âm trở lại, gần đúng, sang quốc ngữ: Tchân ChU cảng. Để ý: ‘Chu’
1


chứ không phải ‘Châu’. Nhưng quốc ngữ, đã phiên âm và đánh vần trệt sang thành
‘Châu’. Và người Việt từ lâu vẫn quen gọi: Trân Châu Cảng.
‘Châu’ và ‘Chu’, họ Châu như Châu Ân Lai, Châu Chỉ Nhược, Châu Nhuận Phát,… và
họ Chu như Chu Nguyên Chương, Chu Dung Cơ, … vẫn thường được báo chí sách vở
Việt in ấn lộn xộn lẫn lộn với nhau. Khi thì Châu, lúc lại Chu.
Trong bài này, chúng ta sẽ quan sát những lộn xộn đã do chính việc chuyển hệ từ Nôm
sang quốc ngữ gây ra. Chính những lộn xộn này cùng với những thiếu thốn trong nghiên
cứu việc ‘chuyển hệ’ cho tận nơi tận gốc, đã làm bao nhiêu thế hệ người Việt, kể cả
những học giả hàng đầu, lầm tưởng khác biệt do ở ‘phương ngữ’ gây nên.
1. Chu chỉ Nhược và Châu Nhuận Phát
Khi xem phim tập Ỷ Thiên Đồ Long Ký, có thể để ý tên nhân vật Chu Chỉ Nhược được
viết ở phần phụ đề, và phát âm Châu Chỉ Nhược. Họ Châu chứ không phải Chu. Châu
như Châu Bá Thông, Châu Ân Lai, Châu Nhuận Phát.
Nhắc đến Châu Nhuận Phát tức nhắc đến một ngôi sao sáng của điện ảnh Á Châu. Châu
Nhuận Phát sinh năm 1955, gốc người ‘bán du mục’ Hakka (Hẹ). Được ‘lăng xê’, lên
như diều nhờ ở nhà đạo diễn tài ba John Woo. Nổi tiếng nhất với các phim: Một ngày
mai tươi sáng hơn (A better tomorrow), Sát nhân (The Killer), Thành phố bốc lửa (City
on Fire), Hongkong 1941, Câu chuyện Mùa Thu (An Autumn’s tale), Hard-boiled, Đã
từng là ăn trộm (đóng chung với tài tử đoản mệnh: Leslie Cheung tức Trương Quốc
Vinh), Sát nhân thay thế (Replacement Killers), Ngọa Hổ Tàng Long (đạo diễn Lý An –
Ang Lee), Anna & Vua Xiêm (đóng chung với Jodie Foster). Đoạt giải Kim Mã của Đài
Loan 1985 & 1987. Giải Đại Hội Điện Ảnh Á Châu Thái Bình Dương năm 1985. Từ
chối vai trò Morpheus trong phim The Matrix (với Keanu Reeves, Laurence Fishburne).

Và trong năm 2004, Châu Nhuận Phát đóng một phim từng được quay đi quay lại nhiều
lần: Hoa Mộc Lan. Châu Nhuận Phát thành công trên nhiều vai trò khác nhau. Vai hiền,
vai ác, vai hài. Rất nhiều vai trò Châu thủ diễn phải … chết trước khi vãn hát! Dáng bộ
gần như chữ ký của Châu trong nhiều phim cho đạo diễn John Woo là Châu Nhuận Phát
ưa ngậm tăm xỉa răng. Và chính John Woo đã rủ rê Châu Nhuận Phát đi Hollywood đóng
phim [3].
Điểm hơi lạ: Họ Châu trong Châu Nhuận Phát luôn luôn được viết đúng ‘Châu’, y như
cách viết và phát âm của người Hoa. Áp dụng cho nhiều ngài khác lại không. Khi thì
Châu Ân Lai, lúc thì Chu Ân Lai, khi thì Đông Châu liệt quốc, rồi lúc Đông Chu liệt
quốc. Không biết đâu mà mò. Lộn xộn như vậy thường khiến người Việt tưởng hai họ là
một. Muốn đánh vần hay đọc cách nào cũng được.
Nhưng nếu tiếp tục tra cứu, bằng cách đơn giản: hỏi bất kỳ một người Hoa chính gốc nào
đó, ta sẽ thấy người Việt thường dễ nhầm những điểm căn bản sau đây:

2


(a) Họ Châu và Chu là hai họ hoàn toàn khác nhau, từ cách viết, phát âm đến ý nghĩa.
[Châu] mang nhiều nghĩa, nhưng nghĩa chính: cứu tế, hoặc: vòng, giáp đi một vòng.
Tuần lễ= Zhou, cuối tuần (weekend)= zhou mo [25]. [Chu] mang nghĩa khác, nghĩa
chính: Chu hồng, màu đỏ thắm. Thường thường ‘Chu’ đi đôi với ‘ngọc’. Họ Châu
xuất hiện ngay từ thời cổ đại, với nhà Tây Châu (1027-771 T.C.N.) rồi Đông Châu
(770-221 T.C.N.) như trong ‘Đông Châu Liệt Quốc’. Những nhân vật nồi tiếng, thật
cũng như tiểu thuyết, mang họ Châu (Zhou) gồm có: Châu Ân Lai (Tổng Lý Quốc Vụ
Viện), Châu Nhuận Phát (tài tử Chou Yun Fat [1]), Châu Bá Thông (Xạ Điêu Anh
Hùng), Châu Chỉ Nhược (Ỷ Thiên Đồ Long), v.v.
Họ Chu (Zhu) cũng rất nhiều: Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ), Chu Dung Cơ
(Tổng Lý), v.v.
(b) Người An-Nam ở Nam Hà có lẽ bởi kị húy chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), nên
tống tất cả họ Chu sang Châu. Người phía Bắc, ngược lại, thay đổi toàn bộ họ Châu

qua Chu. Mấy Thầy quốc ngữ ban đầu cũng bị lâm vào tình trạng lộn xộn bởi một số
không được tinh tường về tiếng Hoa. Hoặc họ bị sức ép của khối học trò đông đảo,
không biết chữ Nho. Họ dạy người nước Nam những sai lầm họ vướng phải về từ
nguyên:
+ Một số từ đáng lẽ phải viết và đọc CHU, họ cho là Châu: Châu báu, Trân Châu
Cảng, Bích Châu, viết và đọc thật đúng phải Chu báu, Trân Chu Cảng, Bích Chu.
‘Chu’ (chứ không phải Châu) ở đây thường mang nghĩa ‘ngọc trai’ (pearl) [15].
+ Rất nhiều từ khác đáng nhẽ phải viết CHÂU, họ lại dạy ChU: Chu Kỳ, Chu vi, Chu
toàn, Chu đáo, v.v. Thật ra: Châu kỳ, châu vi, châu toàn, châu đáo, v.v. theo đúng
tiếng Hán.
+ Nhưng cũng nên để ý: Những từ dùng Chu, như chu kỳ, chu vi, chu toàn, chu đáo,
… có vẻ những từ mới. Xuất hiện sau thời chúa Nguyễn Phúc Chu, nên việc kị huý có
lẽ không còn nữa. Nhưng cách dùng có vẻ thả cửa và lại không chính xác với từ
nguyên thủy chữ Hán. Đáng lẽ dùng Châu.
(c) Một điểm cần nhấn mạnh: “Học trò nước Nam từ bao nhiêu đời khi học tiếng Việt, chỉ
học B là B, và không bao giờ học B chính là dạng mới (quốc ngữ) của A cũ (Nôm)”,
Bởi vậy, nhầm lẫn về Châu/Chu cũng như bao nhiêu nhầm lẫn khác về V/W/By, về
TR/Ch, về X/Th, về Liu/Lưu, về Dù hay Ô, Hoa hay Quả, v.v. tiếp diễn từ đời này
sang đời kia, và qua mặt được bao nhiêu học giả hàng đầu của nước Việt Nam. Thí
dụ: Trong quyển tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh, ta thấy những từ kê khai dưới
‘Châu’ như: châu báu, châu ngọc, với từ Hán viết và đọc theo CHU (tức /Zhu/ trong
tự điển có pinyin). Và đúng ra phải viết theo CHU: chu báu, chu ngọc, Trân Chu
Cảng. Ngược lại, dưới từ mục ‘Chu’ quyển tự điển lại kê khai tất cả những từ viết
theo Hán tự và đọc ‘Châu’ (tức /Zhou/): Chu kỳ, chu toàn. Học giả Hoàng Xuân Hãn
cũng không thoát được lộn xộn giữa Chu & Châu, có lẽ cho rằng tiền nhân trước thời
quốc ngữ vẫn phát âm như vậy. Họ Hoàng đã đưa vào quyển sách classic ‘Danh từ
khoa học’ từ ‘Chu-Kỳ’, nhại theo lối phiên dịch trước đó của người Hoa cho từ khoa
học: ‘cycle’ hay ‘period’. Đúng theo tiếng Tàu, ‘cycle’ hoặc ‘period’ đáng lẽ dùng
Châu: Châu kỳ.
3



Lộn xộn giữa Chu & Châu, cũng như dễ nhầm ‘Dù’ là lối gọi cây dù (umbrella) của
người Nam bộ và ‘Ô’ là lối gọi của người phía Bắc [2], cho ta thấy những điểm đặc trưng
trong việc ‘chuyển hệ từ Nôm đến quốc ngữ’ như sau:
(a) Việc phân cực kiểu Chu & Châu không mang tính nhất quán: Phía Bắc vẫn dùng
Châu cho những sự vật không phải Họ, hoặc ngay cho tên người: Bích Châu, Hồng
Châu, châu báu, Trân Châu Cảng,… Phía Nam vẫn dùng Chu cho: chu kỳ (danh từ
khoa học), chu đáo, … (Cả hai phía đều không kiêng kị gì nữa hết sau khi Nguyễn
Huệ, rồi Nguyễn Ánh nhất thống sơn hà). Phía Bắc ưa dùng Ô cho umbrella nhưng
vẫn dùng Dù cho: lính nhảy dù. Phía Nam không dùng ‘Ô’ bởi đợt di tản chạy giặc
Mãn Thanh (1644) của người Phúc Kiến - tức những người nói ‘Ô-san’ để chỉ ‘dù che
mưa’ - tập trung rất nhiều ở Bắc Hà, trong lúc đàng Trong hãy còn đất mới. (Xem bài
2, 3 & 5)
(b) Việc lộn xộn ‘Chu & Châu’ và ‘Dù & Ô’ cho thấy những người xử dụng nó biết rất ít
hay không biết gì về chữ Hán. Tức quốc ngữ đã đến với đông đảo khối quần chúng trước khi đến với giới sĩ phu, hay được giới này chấp nhận. Cũng bởi giới sĩ phu, chữ
nghĩa cùng mình, xử dụng quốc ngữ hơi muộn, họ bị sức ép của khối đa số trước đó
mù tuồng chữ Nôm-chữ Hán. Thêm vào đó, giới thông thạo Hán-Nôm còn bị một ‘hội
chứng panic’ của người bị trễ tàu: Họ phải học thật nhanh chữ quốc ngữ và đánh mất
thói quen khắt khe so sánh ‘hư thật’: Dạng cũ của từ này là gì? Hồi trước đọc từ này
theo Nôm theo Hán ra làm sao? Họ đều không có dịp kiểm chứng. Hoặc cũng có thể,
giới sĩ phu, và trí thức chưa được làm quen với tinh thần khoa học của Tây Phương.
Và cũng có lẽ bởi họ đã khám phá ra tầm mức quan trọng của thứ chữ có thể đến với
tuyệt đại đa số quần chúng - họ đã phải học chữ quốc ngữ thật nhanh.
(c) Lộn xộn ‘Chu & Châu’ tiếp tục truyền sang đến thế kỷ 21 cũng cho thấy một thứ
‘truyền thống học hỏi’ một mặt vừa thực tiễn, một mặt thiếu tính khắt khe của khoa
học. Chung qui cũng bắt nguồn ở chỗ việc truyền bá kiến thức chịu ảnh hưởng từ
chương của Nho phong, và cũng ở việc chữ quốc ngữ được dấu triện chuẩn nhận, bất
đắc dĩ, của những nhà Nho cuối thế kỷ 19. Chuẩn nhận đó đã để trôi qua luôn câu hỏi
thiết yếu: B là B. Nhưng B thật ra dùng để thay cho từ nào trong chữ Nôm? Thí dụ:

người học quốc ngữ chỉ biết ‘Vua, Voi’ được đọc ‘Vua, Voi’ (kiểu Bắc) và ‘Byua,
Byoi’ (kiểu Nam). Nhưng thông thường, không một ai được chỉ dẫn tường tận rằng,
tiền nhân ở nước An Nam, thế kỷ 18 trở về trước, đã phát âm ‘Byua & Woi’. Thí dụ
khác: Người sinh trưởng phía Bắc khi di cư vào Nam sau năm 1954 thường lấy làm lạ
tại sao ở phía Nam người ta gọi Hoa bằng Bông, và Quả là Trái. Họ không được biết
cả Bông lẫn Trái xuất hiện từ thời Văn Lang, tại ngay đồng bằng Bắc bộ - và ngày
nay ngài Mường hãy còn dùng (xem bài số 5). Cũng giống như lộn xộn giữa ‘Mập’ và
‘Béo’, giữa ‘Cây’ và ‘Gỗ’, xuất phát từ tiếng Mã Lai [3].
2. Bổ xung hay bổ sung
Đa số người Việt đều biết: Tại một số khu vực, đặc biệt phía Bắc, người ta có khuynh
hướng lẫn lộn phát âm giữa X và S. Sự lộn xộn này rất có thể do việc tiếng Pháp thiếu
4


thốn hay ít dùng âm S phát âm như SH tiếng Anh (show, share, shine, etc). Và âm tiếng
Hoa hay tiếng Nôm, cũng có lộn xộn giữa X và S.
Dẫn chứng:
- Bởi trong tiếng Pháp S được đọc như X (Sans famille, la Seine), nên các Thầy quốc
ngữ ban đầu khi gặp phải âm S như suông sẻ, sắp sửa đi săn bắn, họ có khuynh
hướng đọc lớ thành xuông xẻ, xắp xửa đi xăn bắn, do ở thói quen bẩm sinh với tiếng
mẹ đẻ. Phát âm lớ giọng này sẽ được lớp học trò đầu tiên hấp thụ, và lan truyền đến
đời sau, đến những khu vực lân cận.
- Mặt khác, ngay như trong đánh vần tiếng Nôm: âm S và X thường hoán chuyển, vay
mượn lẫn nhau [4], tức phát âm Nôm không có phân biệt /S/ và /X/:
+ Sướng= vay mượn từ tiếng Hán: Xướng, với phát âm bắt đầu bằng X.
+ Suất= mượn từ tiếng Hán: Xuất, phát âm X.
+ Xô (đẩy)= viết theo lối vay mượn từ Sô (vải sô - tiếng Nôm, có âm S)
+ Xỉ (vả)= viết theo Sỉ, âm S
+ Xẻ (chia xẻ)= viết theo Nôm: Phân (chia) + Sĩ => âm X (xẻ) vay mượn âm S (sĩ).
- Âm S tiếng Việt vẫn chưa có tương đương rõ rệt trong tiếng Hán (quan thoại), ngay

cả sau khi tiếng Hán có pinyin ghi âm theo chữ cái Latinh:
+ xã hội => she hui (X Việt = S Hán)
+ xà (con rắn) => she
+ xa (xa hoa) => She hua
+ sắc (màu) => se (xớ) (S Việt = X Hán)
+ sở dĩ => Suo (xuo) Yi
- Việc phân biệt S và X so với phát âm Bắc Kinh có vẻ bất chợt (arbitrary) chứ không
hoàn toàn thuần lý và đồng nhất. Thêm vào đó một rắc rối khác: Tiếng Quảng Đông
không có âm S hay SH, mà chỉ có duy nhất âm X: Chan xến xáng: Trần tiên sinh. Thí
dụ khác: Sơn (núi)= Shan (quanthoại)= Xan (quảng đông)
- Tra quyển tự điển Mường-Việt, ta cũng thấy tiếng Mường hoàn toàn không có âm S
(hay SH), giống tiếng Quảng Đông. Thí dụ: soạn bài (V)= xãn bài (M); sáng kiến
(V)= xảng kiển (M); sững (V)= xẫng (M); Xấu (V)= Xẩu (M); xoa bóp (V)= Xa Póp
(M); trùm sò (V)= tlùm xó (M).
Tóm lại, việc lẫn lộn giữa X và S (bổ xung và bổ sung) là một hệ quả đương nhiên khi ta
để ý tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha, của các vị Thầy quốc ngữ ban đầu, không hề dùng S
như SH, nhưng lại phát âm S như X. Thêm vào đó việc ‘chuyển âm’ từ Hán sang Việt
cũng gặp phải lộn xộn bất chợt tương tợ giữa X và S. Trong lối ‘đánh vần’ tiếng Nôm
cũng vậy. Cũng có sự hoán chuyển, vay mượn lẫn nhau, giữa âm S và X. Và cả tiếng
Mường lẫn tiếng Quảng Đông đều chỉ có một âm X.
Việc dễ nhầm trong phát âm giữa X và S có thể dựa vào một giả thuyết khác: Trong môi
trường tiếng Nôm xưa cũ, phân biệt giữa âm X và S đã không được rõ ràng và tiếng Nôm
có lẽ chỉ có một âm, nằm đâu ở giữa X và S. Y như tiếng Quảng Đông hay tiếng Mường,
chỉ có mỗi một âm X mà thôi.

5


Phân biệt X và S trong tiếng Việt – như đa số các phân biệt đề cập trong bài này – có lẽ
được ‘điển chế’ với mục đích giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa đầy dẫy trong tiếng Nôm.

Thí dụ: Xà, con rắn, đáng lẽ phải viết Sà theo tiếng Tàu, nhưng viết Xà để phân biệt với
‘sà sà én lượn’. Xẻ, trong nghĩa ‘xé’ hoặc ‘xẻ rừng’ hay ‘chia xẻ’, viết theo X để phân
biệt với Sẻ, trong ‘chim sẻ’ - mặc dù dưới thời chữ Nôm, Xẻ đã được ‘đánh vần’ với âm
S (đọc Sẻ).
3. Tây Thi vừa tjầm mình vừa uống tchà
Nếu xem các băng nhạc video thực hiện, tại hoặc bên ngoài Việt Nam, người ta sẽ để ý
những âm bắt đầu bằng TR, như Trần Trân Trọng, đều được phát âm như TCH: Tchần
Tchân Tchọng. Phát âm này rất gần giống với phát âm người Hoa: Chen Zhen Zhong.
Nhưng rất khác phát âm theo đánh vần ngôn ngữ Tây Phương như tiếng Anh, tiếng Pháp:
‘Lost in TRanslation’ [5]; TRop tard; TRès bien.
Mặt khác, nếu tra cứu một quyển tự điển Mường [6], ta sẽ thấy tiếng Mường, tức giống
một dạng nào đó của tiếng Việt cổ, hoàn toàn không có âm đánh vần quốc ngữ bằng: TR.
Y như chữ Nôm, tiếng Mường chỉ có âm TL, chứ không có TR. Thí dụ:
tlước khây= trước khi;

tlướng xỏm= trưởng xóm

Như vậy: Khi quốc ngữ chưa đến nước Nam, có hai nhóm phụ âm bây giờ đã hoàn toàn
biến dạng:
- Nhóm thứ 1: vay mượn từ tiếng Hoa, tương đương với pinyin /ZH/ như Zhong Guo
(Trung Quốc), Zhang Zi (Trang Tử), Zhong liang (trọng lượng).
- Nhóm thứ 2: những từ thuần Nôm như BLời, Klọn, Blăng, thường có âm thứ nhì L,
biến dạng thành TR: Trời, Trọn, Trăng.
- Cả hai nhóm đều bị quốc ngữ ký âm lại thành /TR/. Phát âm phía Bắc thiên về ZH
kiểu Hoa, giữ vững lối phát âm xưa theo Nhóm 1, trong khi phát âm phía Nam
thường theo kiểu quốc tế /TR/ (trò TRung khoái cải lương), hoặc /CH/ (chò chuiện:
trò chuyện).
Dẫn chứng:
- Nhóm thứ 1: Các từ chữ Hán có phát âm ZH hoặc CH đều bị tống sang đánh vần TR
mới, nhưng nhiều nơi vẫn giữ lối đọc cũ. Thí dụ:

+ Trà: xuất phát từ tiếng Hoa: Cha. Tiếng Việt có Trà (vẫn nhiều nơi đọc Chà hay
Tchà) và Chè. Âm CH vẫn được giữ mặc dù viết bằng TR: TRà.
+ Họ Trần: quan thoại đọc Chen, Hongkong đọc Chan. TR biến từ CH tiếng Hoa.
+ Trầm: Zhầm (Hoa). Việt phía Bắc đọc Tchầm, không xa zhầm tiếng Hán, và thông
thường: Chìm – do ở Nôm hoá, vẫn giữ âm CH.
+ Truyện: Zhuan (Hoa) biến thành Chuyện, giữ âm ZH hay CH.
+ Truyền (chuyền): từ chữ Hán ‘Chuan’. Âm TR phía Bắc, trong ‘Truyền’ vẫn giữ
CH
+ Trương: Zhang (Hoa). Zhang: trang giấy, chương sách. Zhang=> Trang=>
Trương=> Chương (chương sách).
6


+ Trương Mạn Ngọc, tức tài tử Maggie Cheung của Hongkong. Trương là phiên âm
tiếng Việt của Cheung (Hongkong) hay Zhang (Trang) theo quan thoại.
+ Trọng lượng: zhong liang. Phía Bắc đọc Tchọng lượng rất gần với âm Hán. Phía
Nam cũng có nơi phát âm: Chọng lượng. Nhưng người thành thị chấp nhận kiểu Tây:
TRọng lượng, khác với lối phát âm xưa.
+ Tru (tru di tam tộc/ giết cả 3 đời)= chữ Hán: Zhu có lối viết như Zhu trong Chu
Nguyên Chương. Viết [Tru] nhưng vẫn đọc /Chu/ hay /Zhu/, theo kiểu Hoa.
-

Ở nhóm thứ 2: Lối đánh vần bắt đầu bằng /TR/, và âm TR gây ra, hoàn toàn mới.
/TR/ dùng để thay thế một số từ Nôm có âm phụ L:
+ Trái= Ba + Lại (Nôm đọc Blái). Để đồng nhất: Phía Bắc mượn phát âm Hán: Tchái.
Phía Nam, thường TRái, và đôi khi Chái.
+ Trọn (trọn vẹn)= viết theo chữ Nôm: Cự + Lòn (đọc KLọn theo Nôm). Phía Bắc:
Zhọn hay Tchọn, vin theo lối đọc các từ Hán thuộc nhóm 1.
+ Trăm (100)= Khẩu + Lâm (viết theo chữ Nôm), xưa đọc Klâm. Nay đọc Zhăm
(Tchăm) hay TRăm (chăm). Để ý thêm: âm Ă và Â vẫn lẫn lộn nhau trong chữ Nôm.

+ Trăng= Ba + Lăng (Nôm), đọc BLăng thời Nôm, và phiá Bắc đọc Zhăng/Tchăng.
[Blăng] xuất phát từ tiếng Mã lai: [Bulang].

Trong lúc quan sát biến chuyển các từ ‘thuần Nôm’ mang dạng sau cùng TR (như ‘trăn
trở’, con Trâu), ta có thể để ý tiếng Mường hiện nay vẫn chưa có âm /TR/, và còn giữ rất
nhiều phát âm xưa, theo dạng /TL/:
-

tlải tất= trái đất; tlal mãi= trai gái; tli wiễn= tri huyện; tlùm xó= trùm sò
tlãm xả= trạm xá; tlăm thuối= trăm tuổi; tlời= trời (giống tiếng Nôm: Blời => tlời)

Như vậy, trong Việt ngữ, đối với các từ bắt đầu bằng TR: Nếu Hán-Việt, như ‘TRọng
tâm’, lối đọc sẽ giữ kiểu đọc người Hán: Zhọng (hay TChọng) tâm. Nếu thuần Nôm,
thông thường biến dạng từ BL (Blời, trời), hay TL (tlàng, tràng), hoặc KL (klọn, trọn) lối đọc bắt buộc phải vay mượn kiểu đọc người Hoa, cho thuần nhất: Zhời, zhàng, và
zhọn.
Âm /TR/ hoàn toàn là một âm ‘nhập khẩu’, ít nhất trong cách đánh vần, sang tiếng của
người nước Nam. Trước thời quốc ngữ, hoàn toàn không có âm này. Và cũng như rất
nhiều trường hợp - được sắp xếp theo hệ thống của loạt bài này – phát âm mỗi phía, Bắc
hoặc Nam, chỉ đúng có phân nửa của nhóm từ. Trong trường hợp âm /TR/ phát âm phía
Bắc rất đúng với các âm của từ gốc Hán: Tchung quốc, Tchọng lượng, … Nhưng lại
không theo với đánh vần quốc tế của /TR/ như trong ‘Lost in TRanslation’.
4. Wang Txuí Kiều
Trong một bài tới chúng ta sẽ khảo sát phát âm của những từ Việt gốc Hán, để đi đến một
kết luận quan trọng: ‘Tiền nhân không hề phát âm toàn bộ các từ Việt gốc Hán theo như

7


ký âm của Hán-quốc-ngữ’. Nếu lấy một thí dụ tiêu biểu, có thể nói: Tiền nhân không hề
phát âm tên nhân vật chính trong truyện Kiều của Nguyễn Du là: Vương Thúy Kiều.

Giống như âm /TR/, âm /TH/ trong tiếng Việt là một âm ‘bán ngoại lai’. Vào thời chữ
Nôm chưa hẳn có âm TH. Chỉ có âm /T/ hợp với H-nhẹ như trong tiếng Tàu, và tiếng
Mường. Một số từ Hán-Việt, ở thời tiếng Nôm, vẫn đọc theo kiểu Tàu, như Xuí (Thúy),
Xi (Thì), Xán (Sháng/ Thượng). Biến chuyển sang quốc ngữ đã biến luôn những từ gốc
Hán như Xuí, Xi, Xán, thành ra âm bắt đầu bằng TH: Thúy, Thì, Thượng, v.v. Âm TH
cũng như âm TR hoàn toàn âm mới xuất hiện với thời kì quốc ngữ được phát triển. Trong
khi âm /TR/ tương đươngvà thay thế cho /ZH/ tiếng Hán, TH thay cho SH, TX (pinyin C),
CH hoặc Q.
Dẫn chứng:
- Trong tiếng Tàu, từ nào viết theo pinyin bắt đầu bằng T thường đọc như T hợp với âm
H-nhẹ. Sang tiếng Việt, đổi thành TH: tian qi= thiên khí= thời tiết; tu zi= thỏ; tan
ming= tham danh; ta= tháp; tuo dang= thỏa đáng.
- Tự điển Mường Việt cho thấy một số từ mang lối đánh vần ‘th’, tương đương với T
tiếng Việt. Chứng tỏ ngày trước âm /TH/ đã có sẵn nhưng không phát âm hoàn toàn
như TH ngày nay. Hoặc quốc ngữ đã bỏ đi bớt âm /h/ để giải toả bớt cảnh ‘đồng âm
khác nghĩa’: thìm hiếu (M)= tìm hiểu (V); thiểng (M)= tiếng (V); thết (M)= Tết (V);
thắc mây (M)= tóc mây (V).
- Tự điển tiếng Mường cũng cho thấy âm TH có sẵn, thường với những từ không phải
gốc Hán: thuốc= thuốc; thủng= thúng; thua tlẫn= thua trận.
- Một quyển tự điển chữ Hán sẽ cho thấy: đa số các âm bắt đầu bằng /SH/ hay TX (thật
ra pinyin viết /C/: cui= thúy), hoặc /CH/, đôi khi /JI/, thường biến ra TH, khi chuyển
sang quốc ngữ:
+ sheng= thanh
+ Shang đi= Xán Tí (theo văn bản năm 1626 của giáo sĩ Francisco Buzomi, ‘thượng
đế’ viết bằng quốc ngữ ‘Xán Tí’ gần như tiếng Hán: Sháng Đí) [7]
+ Sheng long= Thăng Long (thời quốc ngữ sơ khai: Thăng Long viết như Sheng
Long, tiếng Hán) [7].
+ shao nian= thiếu niên
+ sheng xing= thịnh hành
+ shou= thọ. Để ý trong ‘Sushi’ (cơm dồn cá cuốn rong biển) của tiếng Nhật, ‘Su’

chính là Thọ tiếng Việt, vẫn giữ âm S như Shou, tiếng Hán.
+ Cheng= thành
+ Chou= thối
+ Cui= Thúy. ‘Cui lu se’= Thúy lục sắc= màu xanh lục kiểu ngọc thạch
+ Cao= Thảo (cỏ)
+ can mou= tham mưu
+ Qing= thanh (nhà Thanh, thanh niên)
+ Xiao Jie= Tiểu Thư
- Tra một quyển tự điển chữ Nôm [5], ta sẽ thấy nhiều từ ngày nay đánh vần với TH,
trong thời tiếng Nôm được ký âm với âm X:
8


-

-

-

+ Xống (xống áo)= viết theo chữ Nôm: mượn từ Hán Việt THống
+ Xối (xối nước)= theo Nôm: Thủy + THối. X (xối) mượn âm của THối (thúi). Trong
khi Thối viết theo pinyin của quan thoại là Chou.
ĐẶC BIỆT: Quyển ‘Tiếng Việt Tuyệt Vời’ [8] ghi nhận một vài khu vực ở phía Bắc,
người ta phát âm lẫn lộn /TH/ với /S/ (hay /X/) như: ‘mưa như xế mà ra thân xì xế
nào cũng cảm mất xôi’ => ‘mưa như thế mà ra sân thì thế nào cũng cảm mất thôi’.
/Xế/ => /Thế/. /Thân/ => /sân/. Việc này chứng tỏ rất rõ: Phát âm X hay SH thường
lẫn lộn hoán chuyển với TH. Việc thay thế TH bằng X tại một số địa phương phía
Bắc cho thấy âm X (hay SH) chính là âm còn sót lại của thời tiếng Nôm xa xưa.
Chính quốc ngữ đã biến đổi một số âm X (hay SH) xa xưa đó thành ra TH.
Trong quyển ‘Hành Trình Nhật Ký’ viết vào khoảng 1924, Phạm Quỳnh [9] có dùng

chữ ‘SẤT’ thay vì ‘THất’: ‘sất phu’ thay vì ‘thất phu’. Âm /TH/ vẫn chưa hoàn toàn
thay thế âm /S/ của tiếng Nôm. Tức, đối với Phạm Quỳnh, thay thế ‘Sất’ bằng ‘Thất’
chưa thành một thói quen. Cũng có nghĩa, ở thời chữ Nôm, không có âm /TH/ mà chỉ
có một số âm liên quan mật thiết với âm /X/ hay /S/.
Để ý đến âm Hán Việt /Thanh/, dùng chỉ ‘màu Xanh’. Có hơn một sự trùng hợp cho
thấy ‘Xanh’ chính phát âm xưa của ‘Thanh’.
Thêm một điểm ngồ ngộ đáng lưu ý: Nước Myanmar, tức ngày trước thường được gọi
Miến Điện, gần đây có cải biến ngôn ngữ nước họ. Nhất là đối với nhiều từ được
phiên âm sang a-b-c bởi người Anh. Gần như những lộn xộn dễ nhầm trong tiếng Việt
đều được phản ánh qua tiếng Miến:
Rangoon (thủ đô) => đổi thành: Yangon
Pegu => Bago.
Pagan => Bagan: Âm /P/ và /B/ thường bị lẫn lộn trong môi trường tiếng Miến, không
dùng chữ cái a-b-c.
Tavoy => Dawei: Âm /T/ hoán chuyển với /D/ như trình bày trong bài 6.
Đặc biệt: Bassein => Pathein, và Salween => Thanlwin: Âm /S/ cũ được chuyển
sang /TH/ y như quốc ngữ dùng /TH/ cho một số âm Hán /S/, /X/, /SH/, /TX/ hay /C/,
v.v.

Tóm lại âm /TH/ tuy sẵn có trong tiếng Nôm, nhưng được gia tăng rất nhiều sau khi quốc
ngữ phát triển, bằng cách thay thế một số từ có âm bắt đầu bằng X (hay SH) thành ra
/TH/. Tuy nhiên ta có thể để ý X (hay SH) biến sang TH ít gây xáo trộn và đảo lộn bất
thường như BL, KL, TL và ZH chuyển sang /TR/, hay /By/ & /W/ bị tống hết vào /V/.
Do đó, Vương Thúy Kiều vào thời đại Nguyễn Du (khoảng thế kỉ 18 – sang 19) rất có thể
hãy còn được phát âm như: Uuan TxuÍ Kiều (Wang Cui Qiao, quanthoại).
5. Anh nàam gì xế?
Ở một vài khu vực phía Bắc, có khuynh hướng phát âm: ‘Anh làm gì thế?’ nghe như
‘Anh nàam gì xế?’. ‘Thế’ phát âm như ‘xế’ đã được phân tích phía trên. Bây giờ hãy xem
âm /N/ và /L/.


9


Phát âm lẫn lộn giữa những từ bắt đầu bằng N và L, tại một số khu vực phía Bắc, cũng
do ở tác động của quốc ngữ. Ở môi trường tiếng Nôm xưa, hoàn toàn không có sự phân
biệt giữa âm N và L. Giống y như tiếng Quảng Đông ngày nay.
Trong thí dụ sau, người ta thường nhầm đó phát âm địa phương:
Chim hót níu no / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. THAY VÌ:
Chim hót líu lo / Ở Hà nội người ta nói năng khéo lắm.
Cũng lại một hiện tượng biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ!
• Dẫn chứng 1: Hỏi một người Hongkong hoặc Quảng Đông làm ơn phát âm tên nước
Việt Nam? Đa số họ sẽ nói ngay: Yuệt Làm / L (Lam) thay vì N (Nam). Một số khác
cũng có thể phát âm: Yuệt Nàm. Nhưng đa số thường nói: Yuịt Làm. Tức lẫn lộn giữa
N và L đã có hỗ trợ của hàng triệu người Hoa gốc lưỡng Quảng và Hongkong.
• Dẫn chứng 2: Xin thử phát âm LAM và NAM. Ta để ý vị trí lưỡi, họng và môi trong
lúc phát âm Lam và Nam: gần như y hệt nhau! Vị trí lưỡi chạm vào họng phía trên lúc
phát âm Làm và Nàm gần như một chỗ. Đánh lưỡi cho âm N có thể sâu hơn vào trong
một tí xíu. Ta có thể suy đoán, người nói tiếng Nôm không hề biết N và L, hay toàn
bộ chữ cái a-b-c. Và họ không hề phân biệt âm nào là N hoặc âm nào phải L. Y hệt
như người Quảng Đông ngày nay, bởi tiếng Quảng ít khi được a-b-c hoá cho người
bản địa. Hay người Quảng thường học nói tiếng Quảng trực tiếp chứ không qua bước
trung gian A-B-C. Thật ra không phải chỉ người Quảng, mà người Taiwan, người
Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, cũng đều giống như vậy. Họ không bao giờ, hay rất
ít khi, học tiếng mẹ đẻ của họ qua môi trường A-B-C. Cũng thật ra phiên âm pinyin
cho tiếng quan thoại chỉ phổ thông đối với người nước ngoài. Người bản địa Trung
Hoa ít ai biết và dùng quan thoại pin-yin quan thoại. Chính pinyin dựa trên a-b-c mới
có phân biệt các nhóm âm: /t/, /d/, /n/ hay các nhóm âm: /r/, /l/, /n/. Thí dụ: Phiên âm
kiểu Wade Giles cho Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình: Mao Tse Tung & Teng
Hsiao Ping. Pinyin lại phiên âm, dùng /D/ thay /T/: Mao Ze Dong & Deng Xiao Ping.
• Dẫn chứng 3: Lộn xộn giữa các âm /t/, /d/ & /n/ hoặc nhóm /r/, /l/, /n/ hay nhóm /b/,

/p/ & /m/ vẫn thường xảy ra trong các ngôn ngữ xưa nay chỉ dùng phiên âm a-b-c như
một thứ phụ. Từ điển Mường cho thấy:
- Đác (M)= Nác (nước) (V) => /Đ/ lẫn lộn với /N/
- puối chỡ (M)= buổi chợ => /p/ với /b/
- puồng thổi (M)= buồng tối
- tền thờ (M)= đền thờ => /t/ lẫn với /đ/
- ti tải (M)= đi đái
Những thí dụ khác:
- /L/oger Moore= /R/oger Moore, bởi người Nhật, trong ‘Lost in Translation’ [11]
- Quảng Đông phát âm Yuệt Làm hay Yuệt Nàm lẫn lộn nhau và … không sao hết.
- Zhớ lị= Sự vật này, theo quan thoại. Nhưng Hải Nam đọc ‘zhớ’ nị. Mường dùng ‘NI’.
- Người: tiếng Mả Lai= Ourang. Chuyển sang tiếng dân tộc ít người: Olang hay Ulang.
Qua Phúc Kiến => Nang. N đã thay cho L (xem bài 5).
• Dẫn chứng 4: lật quyển tự điển chữ Nôm [4], ta có thể tìm thấy:
10


- Nương (nương tựa)= Thủ + Lương (âm N viết theo L)
- Lom (lom khom)= Thân + Nam (âm L viết theo N)
• Dẫn chứng 5: Phát âm giữa L và N rất khó phân biệt trong tiếng Nôm đến nỗi một vài
biến chuyển qua lại trở nên ‘bình thường’ qua cách kèm thêm chữ H:
- Nhầm lẫn => Lầm lẫn
- Lạt lẽo => Nhạt nhẽo. Nhưng: Lạnh không thể=> Nhạnh, bởi Lạnh: Hán từ, Lậng
- Nhác => Lác
- Lớn => Nhớn (người nhớn)
So chữ Nôm, trong cách đánh vần:
- Lầm= Ngộ + Nhâm (âm L dựa trên Nh) / Nhầm= Khẩu + Lâm (đọc Lầm)
- Nhạt= Thủy + Lạt (Nh dựa L) / Nhanh= âm Hán: Linh (tức đọc Lanh)
• Dẫn chứng 6: Nguyễn Thị Chân Quỳnh [26] trong một chương về tướng Nguyễn Hữu
Chỉnh (1741-1788) có ghi việc không dứt khoát giữa âm /L/ và /N/: “(Nguyễn) Huệ

chiếm được Phú Xuân dễ dàng, nhanh chóng, một phần nhờ mưu kế của Chỉnh.
Thắng trận rồi, Huệ dự tính sửa địa giới cũ ở Na-hà (có chỗ chép là La-hà, ranh giới
Nam Bắc) nhưng Chỉnh khuyên nên thừa thắng tiến ra Bắc.”
Cũng theo ghi chú [26], Thầy Cả P. Bỉnh (xem bài 1) trong ‘Sách Sổ Sang Chép các
việc’ (1822) có viết: ‘Về giáo dục thì trẻ em nên 5, nên 6 cho đi học.’
• Dẫn chứng 7: Để ý Đài Loan mặc dù vẫn dùng quan thoại, nhưng không thích dùng
pinyin của lục địa bởi pinyin xài a-b-c. Pinyin của người Taiwan có vẻ chính xác hơn:
Dùng trên dưới 30 ký âm cơ bản viết theo lối đơn giản nhất của chữ Hán. Giống như
kiểu Hiragana hay Katakana của Nhật. Chứ không dùng a-b-c. Đối với những tiếng có
phiên âm không bị lệ thuộc vào a-b-c. Hoán chuyển qua lại giữa /l/, /n/ & /d/ hoặc
các nhóm khác…là một chuyện rất bình thường, được xem như hoàn toàn không hề
xảy ra, không có vấn đề.
• Dẫn chứng 8: Tình hình tiếng Việt hoàn toàn ngược lại với tiếng các nước vẫn dùng
căn bản Hán tự: Ở tiếng Việt, căn bản Hán tự (tức chữ Nôm) hoàn toàn biến mất! Còn
lại và được xử dụng chính thức là một hệ thống pinyin (phiên âm), ít ai, nếu không
nói không một ai biết nó phiên âm từ những từ nào. Rất ít ai biết được phát âm
nguyên thủy các từ đó ra sao? Hệ thống phiên âm đó chính là quốc ngữ. Cố gắng truy
tầm khuôn khổ và cách thức phát âm nguyên thủy tiếng Việt trước thế kỷ 18, chính là
một trong những đề mục chính của loạt bài này.
Xem kỹ các dẫn chứng trên, và đặc biệt để ý trước khi có quốc ngữ, người An-Nam
không thể phân biệt L và N, bởi họ chưa biết a-b-c. Họ chỉ đưa lưỡi vào một vị trí nào đó
của họng và phát âm lên, thí dụ Nói và Lói. Sự lẫn lộn giữa L và N hoàn toàn không có
trong môi trường tiếng Nôm. Nó chỉ xuất hiện bởi các giáo sĩ, có lẽ vớI dụng ý giảI tỏa
nạn ‘đồng âm dị nghĩa’ đã đặt để một số âm và từ sang /L/, một số từ khác thành /N/. Hậu
quả: người ở vài khu vực phía Bắc vẫn bị lộn xộn bởi quốc ngữ, khi phát âm các từ ký
âm bắt đầu bằng L hay N.
Tác động này cũng có thể gây ra bởi ‘tình huống’ những lớp học thuở ban đầu. Có thể
lớp học bị gián đoạn bởi ruồng bố của quân lính triều đình ngăn cấm đạo Ki-Tô. Hoặc
một hai vị Thầy đã bị bắt bớ, hoặc vì lí do nào đó không còn tiếp tục dạy quốc ngữ cho
11



nhiều nhóm người thuộc các khu vực phụ trách. Hay bởi những vị Thầy không chú tâm
nhiều đến các phân biệt mới do quốc ngữ mang đến, hoặc đã dễ dãi để học trò duy trì các
lối phát âm xưa cũ.
Phân biệt các từ đánh vần bắt đầu bằng L hay N, do đó lại có tính cách cưỡng ép thay
đổi, theo đòi hỏi của quốc ngữ để phân biệt rất nhiều từ trong tiếng Nôm mang tính đồng
âm khác nghĩa. Hoặc để giải tỏa bớt một số rất nhiều từ mang âm giống nhau. Thí dụ: nói
năng và le lói / lên đàng và nên người / ăn năn và lăn lóc, …
Tóm tắt: Trong môi trường chữ Nôm, hoàn toàn không có phân biệt giữa âm /L/ và /N/.
6. Tôi và Tui
Xin nhắc lại: Lộn xộn giữa âm /N/ và /L/ hoàn toàn gây ra bởi tác động của quốc ngữ.
Trong một môi trường ‘thuần Nôm’ trong đó không có bóng dáng của mớ chữ cái a-b-c,
việc phát âm qua lại giữa /L/ và /N/ là một việc hết sức tự nhiên. Người Hoa tại tất cả các
khu vực hoàn toàn không có ý thức mạnh về vấn đề này. Đặc biệt người Quảng Đông,
Hải Nam, Phúc Kiến thường phát âm thả cửa, khi thì /N/ => Nị hẩu ma? (Anh có khoẻ
không), khi thì /L/ => Lị hẩu ma? Lý do chính: tiếng của họ vẫn dựa chính yếu vào từ
viết bằng chữ Hán. Và không có bộ phiên âm pinyin chính thức cho tiếng ‘phương âm’
của họ. Mỗi sách giáo khoa về tiếng Quảng Đông dành cho người nước ngoài dùng một
kiểu phiên âm khác nhau. Quan thoại lại khác, có pinyin chính thức và được phổ biến
nhiều hơn, nhất là đối với giới có học. Tiếng Việt còn khác hơn tất cả các thứ phương âm
tiếng Tàu, hay tiếng Nhật, tiếng Hàn. Bởi ở chỗ nó xuất phát từ … một thứ chữ Nôm.
Thứ chữ Nôm này:
• Thời nó còn thịnh hành: ít người biết tuồng chữ, và xử dụng thuần thục. Mỗi làng có
độ một hai vị thạo chữ Nôm. Đa số: mù chữ.
• Chính nó không được định chế đàng hoàng. Mỗi một từ có ít lắm 3 lối viết khác nhau.
• Nó cũng không phải là ngôn ngữ chính thức trong việc khoa bảng và hành chánh.
• Và rất đặc biệt: Khi quốc ngữ đến thay thế chữ Nôm, nó biến đi đâu mất tiêu!
Từ những đặc tính kể trên, có thể suy ra rất nhiều hệ luận. Nhưng quan trọng nhất, những
người thông thạo chữ Nôm ngày nay, thường thiếu thốn một dụng cụ nghiên cứu hữu

hiệu: ‘tinh thần và phương pháp khoa học của Tây phương’.
Rất nhiều ‘lộn xộn’ rất cơ bản rất đương nhiên, gây ra trong việc chuyển hệ từ một môi
trường dùng ‘nguyên tự’, như chữ Nôm / Hán tự, sang quốc ngữ, dựa trên ráp chữ a-b-c,
những nhà Nho học hay Nôm học vẫn thấy lúng túng như thường. Cách dễ nhất và thông
thường nhất là cứ cho ‘khác biệt đó do ở … phương ngữ’ gây nên.
Tiêu biểu trong những lộn xộn này: /L/ và /N/ như đã ghi ở trên.
Ngoài ra còn một lô thí dụ khác:

12


• Phân biệt /Đ/ và /N/: Mường: đác; Việt: nác (một vài nơi ở bắc Trung bộ). Nhiều nơi
khác: nước.
• Phân biệt /Đ/ và /T/: Lộn xộn trong Hoa ngữ nhiều hơn. ‘Mao Tse Tung’ trong phiên
âm Wade Giles, nhưng ‘Mao Ze Dong’ trong pinyin. Nhưng đối với người Hoa,
không thành vấn đề bởi họ vẫn dùng hệ thống ‘nguyên tự’.
• Phân biệt giữa nguyên âm /U/ và /O/. Xin vào chi tiết như sau.
Một trong những kết luận quan trọng của loạt bài này: Đa số các ‘lộn xộn’ trong tiếng
Việt đều phản ánh ‘lộn xộn’ tương tự trong tiếng Hoa. Thí dụ: Hoa cũng có lộn xộn giữa
/W/: Wân (mây, quảng đông) và /Y/: Yun (mây, nhiều nơi khác). Cũng có lộn xộn giữa
/J/: Jzuan Fen (duyên phận, Hải Nam) và /Y/: Yuan Fen (Bắc Kinh). Biến đổi theo vùng
giữa âm /IU/: Andy Liu (Triều Châu, quan thoại) và /AU/: Andy Lau (Quảng Đông). Và
có biến chuyển giữa âm /U/ và /O/: Họ ‘Tô’ quảng đông gọi ‘So’, quan thoại phát âm
‘Su’.
Âm /u/ và /o/ không có phân biệt trong môi trường Hán-Nôm. Thêm vài thí dụ:
• ‘Ông’ (Mr) xuất từ tiếng Quảng Đông: Yung, quan thoại đọc: Weng. ‘Yung’ quảng
đông bị lột /Y/ thành: Ung. Ung => Ông, do phân biệt đặt ra bởi quốc ngữ [19].
• Sông: từ ‘thuần Nôm’ xuất phát từ tiếng Mã Lai: Sunga. Âm /u/ biến sang /ô/. Những
hoán chuyển khác: tui => tôi; thối => thúi; rún => rốn; thụ => thọ (chịu) [13]; gong
(quảng đông) => cung (cây cung); mooi (mũi - quảng đông) => mỗi; kung-fu (quảng

đông) => công phu; kung => công (tác); v.v.. Đặc biệt:
• Vui= vui vẻ. Thời chữ Nôm, đọc: Byui. Nhưng /y/ bị loại bỏ ngay từ thời tự điển của
Alexandre de Rhodes (1651): [Byui] => [Bui]. [Bui] lại biến chuyển qua lại với [Bôi],
và tự điển chữ Nôm viết [Bui]= dựa theo âm và cách viết của [Bôi].
[Vui]= viết y theo [Bui]= [Khẩu] + [Bôi] (ý: miệng cười ‘bôi bẻ’ {vui vẻ}), hoặc:
[Bui]= [Tâm] + [Bôi] (ý: tâm hồn vui vẻ)
Hương Giang Thái Văn Kiểm [10] trong câu chuyện gốc tích ‘cầu Bông’, có ghi nhạc
phụ vua Minh Mạng là Hồ văn Vui – cũng có tên khác: Hồ văn Bôi. Rất rõ: Thời đó,
phát âm hãy còn theo dạng Nôm: Hồ văn Byui (hay Bui) và ‘Bui’ trong môi trường
Nôm, không phân biệt với: ‘Bôi’.
• Tra một quyển tự điển chữ Nôm [4], ta thấy gần như tất cả các âm /u/ và /ô/ ưa biến
chuyển qua lại và dựa vào nhau:
Cút = viết theo [Cốt], hoặc= [khẩu] + [cốt]
Cụt= [Nhục] + [Cốt]
Bu (mẹ)= [khẩu] + ½ [Bô] ; Bú= [Khẩu] + [Bố]
Lùng= [Tầm] + [Lộng]
Mụn= [Nhục] + [Môn]
Ngôi= [Mộc] + [Nguy]
Phui= [Khẩu] + [Phối]
Âm /o/ và /ô/ cũng vậy. Thường thường không, hoặc rất khó phân biệt dưới chế độ chữ
Nôm: [toán cọng] & [toán cộng]. Tương tự, rất khó phân biệt [Nhứt] và [Nhất], [cày bừa]
13


và [cầy bừa], [gặp nhau] và [gập nhau] trong thời chưa có quốc ngữ. Và khuynh hướng
không phân biệt có thể kéo dài sau khi quốc ngữ đã hoàn toàn thay thế chữ Nôm.
7. Anh có thích ăn món rận bay không?
Bởi tiếng Quảng Đông xưa nay không có âm R, và người Quảng Đông có món Cơm
Chiên vay mượn từ Yang Zhou (Dương Châu), họ thường bị người nước khác chế diễu,
lộn xộn giữa phát âm /L/ và /R/: Do you like Flied Lice? Thật ra thay thế cho: Do you like

Fried Rice? Anh có thích cơm chiên hay không? Fried Rice (cơm chiên) đọc méo mó
thành Flied Lice – sai với cú pháp Anh ngữ - nhưng ai cũng có thể hiểu nôm na: Con rận
bay! Đọc chế diễu thành: Anh thích ăn rận bay hay không?
Người Hongkong, hoặc những người Hoa ở Singapore, Mã Lai, đa số di dân từ Lưỡng
Quảng thường có khuynh hướng nuốt âm /R/ của tiếng Anh và tống ra âm /L/: Right &
Wrong, họ dễ đọc ra: Light & Long. Người Nhật cũng vậy. Mặc dù phiên âm romaji có
âm /R/ nhưng âm /R/ đó có dụng ý thay cho /L/: Rai nen => Lai niên => năm tới. Tức
người Nhật ưa ‘hợp tấu’ hai âm /L/ và /R/ thành một âm ở giữa.
Sở dĩ người Quảng Đông và Nhật vẫn còn lộn xộn giữa /L/ và /R/, nhất là những người
có học, bởi họ sống dưới chế độ ‘song hành’ giữa chế độ chữ viết theo kiểu Hán tự, và
phiên âm theo kiểu alphabet a-b-c. Phiên âm dùng a-b-c hoàn toàn mang tính cách phụ
thuộc, thường dành cho ngườI nước ngoài. Tình hình Việt Nam ngược lại: Người Việt
dùng quốc ngữ một ngôn ngữ chính và duy nhất. Mặc dù trên lý thuyết quốc ngữ chỉ là
một hệ thống phiên âm ngôn ngữ xưa của họ, tức chữ Nôm. Nhưng thật ra, và rất may,
chỉ trừ trên dưới vài trăm người, 80 triệu người Việt không biết gì đến ‘tuồng chữ’ và
phát âm Nôm.
Từ chỗ đó:
(a) Ít ai biết tiếng nước Nam ngày xưa không có âm /R/ - chỉ có âm gần giống /R/ như /J/
trong /jượu/ mà nhiều khu vực ở Trung Bộ vẫn phát âm /R/ như /J/. (Sẽ trở lại vấn đề
này trong bài số 6).
(b) Người Việt xử dụng âm /R/ ‘rờ răng răng rụng rờ rốn rốn ra’ rất nhuần nhuyễn, ít khi
lào nộn xộn với âm /L/ như Nhật với Hoa.
Như vậy:
Trước thời quốc ngữ đẩy chữ Nôm vào bóng tối, tiếng nước Nam chưa có âm R, hoặc TR.
Phần lớn các âm /R/ ngày nay chính là âm /L/ thời chữ Nôm. Một phần khác, âm /R/
chính là âm quốc ngữ của /J/
• Dẫn chứng thứ 1: Tiếng Quảng Đông, có chung hồ sơ lí lịch với tiếng Việt cách đây
vài ngàn năm, ngày nay vẫn chưa có âm R. Cách đây vài mươi năm, lúc Trung quốc
chưa hùng mạnh (về kinh tế!) người nói tiếng Anh ưa chế diễu khi hỏi người Tàu gốc Quảng Đông: Anh có thích ăn cơm chiên không? ‘Cơm chiên’ họ đọc, thay vì
Fried Rice, trại ra thành Fly Lice mang nghĩa con rận bay! Âm /R/ vắng bóng nên

thường bị thế bằng âm /L/. Tiếng Nhật cũng vậy. Mặc dù ngày nay có âm /R/ nhưng
14


vẫn thường nghe người Nhật ‘hợp tấu’ hai âm /L/ và /R/: rai-nen: lai niên: năm sau,
họ thường phát âm Rai như Lai.
• Dẫn chứng thứ 2: Xem qua một quyển tự điển chữ Nôm, và cách viết một số từ ngày
nay bắt đầu bằng R:
- Rừng= Sơn + Lăng (Rừng dựa vào âm L của Lăng – xưa đọc Lừng)
- Ra= La + Xuất (Ra ngày trước đọc La)
- Treo= Cụ + Liêu (xưa đọc Kleo – KLeo biến thành TReo)
- Trái= Ba + Lại= xưa đọc Blái
- Rủi (rủi ro)= Lỗi + Bất + Hạnh= xưa đọc Lủi (dựa âm L của Lỗi)
- Rượu= Khẩu + Lựu, hoặc Tửu + Lựu, xưa đọc Lựu
- Rổ= Trúc + Lỗ (Rổ xưa đọc Lỗ)
• Dẫn chứng thứ 3: Xin để ý đến từ ‘Tửu’ mang nghĩa ‘rượu’. Quan thoại đọc ‘jiu’.
Quảng đông đọc ‘jâu’. Phúc Kiến: Tjiu.
Lột bỏ âm /j/ trong phát âm Phúc Kiến: /Tjiu/ => /Tiu/ => Tửu
Lột âm đầu /T/ trong tiếng Phúc Kiến: /Tjiu/ => /Jiu/ => /Jượu/ => Rượu.
Âm /R/ được quốc ngữ mang vào thay cho /J/
• Dẫn chứng thứ 4: Xem một quyển tự điển tiếng Mường [6]:
- tri huyện= tli wiễn (M)
- trùm sò= tlùm xó (M)
- trói= tlói
- kỉnh tlẳng= kính trắng
Như thế, rất rõ rệt, ngoài việc đưa âm /R/ vào thay thế cho:
- âm /L/ trong một loạt nhị phụ âm /TL/, /KL/, /BL/, …
- âm /J/ như trong /jâu/ = râu, hay /jiu/= rịu= rượu, sẽ phân tích trong bài 6.
Âm /R/ cũng được quốc ngữ đưa vào thay thế toàn diện cho âm một số các từ bắt đầu
bằng âm /L/ trong tiếng Nôm. Thí dụ: La => Ra (đi ra), để phân biệt với La => La om

xòm, La hét.
8. Nhầm lẫn trong lúc chuyển hệ
Chuyển hệ từ Nôm sang quốc ngữ thật ra mang đầy đủ tính chất của một cuộc … cách
mạng. Điển hình nhất, chuyển hệ xảy ra thật nhanh, và đến với khối quần chúng đông
đảo, từ đầu đến cuối. Nhưng cũng bởi tính cách vội vã, nó kèm theo rất nhiều điểm sai
trật, vẫn nằm im lìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng, chúng được phản ánh qua những điểm
dễ nhầm, fallacy.
Trái với hiểu biết thông thường, chữ Nôm cho tới lúc bị khai tử bởi quốc ngữ, vẫn chưa
được phát triển cho hoàn hảo – và chưa được định chế như một ngôn ngữ chính thức cho
cả nước. Thường thường mỗi từ, trung bình có chừng 3 lối viết khác nhau. Có từ nhờ
được dùng đến nhiều, hoặc có nhiều nghĩa khác nhau, có thể khoác lên đến 10 cách viết
khác nhau. Thí dụ: ‘ngài’ chỉ ‘người’ và ‘con ngài’ tức con ‘tằm’, con ‘nhộng’. Nếu chỉ
‘người’, sẽ có bộ ‘nhân’ viết kèm phía trước. Nếu chỉ ‘con ngài’ sẽ viết chung với bộ
15


‘trùng’ chỉ ‘côn trùng’. Trong khi đó: quốc ngữ chỉ có một lối viết, dùng 4 chữ cái,
‘ngài’.
Cũng bởi chuyển hệ xảy ra quá nhanh, ở buổi ban đầu và mãi mãi về sau, không bao giờ
nước Nam lại có thể có được đến 5 ngài vừa rành chữ Nôm, vừa rành chữ quốc ngữ, vừa
rành tiếng Hoa với cách đọc của ngườI Hoa, cùng một lúc. Và dù có được những ngài
uyên bác như thế đi nữa, phép thống kê và khoa học ngày nay cho thấy cơ hội để những
ngài đó mang chuyên khoa về chuyển hệ, về kiểm soát từ lối đánh vần cho đến cách viết
chữ Nôm và chữ quốc ngữ có thể xem như một số KHÔNG. Thí du sau đây sẽ cho thấy
việc ghi lại một nguyên bản truyện Kiều, ngay cả bằng chữ Nôm, cũng mang nhiều lỗi
lầm sai trật.
Trong phần đầu của Kiều, có:
Rằng năm Gia Tỉnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng
Xin chú ý đến ‘vững vàng’ ghi trong nhiều bản chữ Nôm – thí dụ, bản của Bùi Kỷ &

Trần Trọng Kim có đăng trong báo mạng ‘Nhân Ái’: perso.wanadoo.fr/charite:
[Vững] viết theo chữ Nôm: nhại theo âm ‘Hán Việt’= /Bẵng/
[Vàng] viết chữ Nôm= /Kim/ + /Hoàng/
Bởi [Vững] được viết theo âm Hán Việt /Bẵng/ => [Vững] theo bản Kiều đó, và rất nhiều
bản Kiều khác, được phát âm theo Nôm như: /Byững/.
Trong khi [Vàng] viết bằng /Kim/ + /Hoàng/ lại nhại theo âm /Hoàng/ tức /Wang/. Có
nghĩa: [Vàng] viết và phát âm theo Nôm như /Wàng/.
‘Vững vàng’, viết theo chữ Nôm trong các bản Kiều lưu hành, sẽ được phát âm (theo
Nôm) như: /Byững wàng/ => một chuyện rất khó tin, được viết bởi Nguyễn Du. Rất dễ
đồng ý: Hoặc /byững byàng/ hoặc /wững wàng/ chứ không thể /byững wàng/ được. Bởi
đọc /byững wàng/ dễ bị… trẹo lưỡi.
Tra một quyển từ điển chữ Nôm [4], ta thấy [Vững] chỉ có vài ba cách viết, và tất cả đều
dùng âm /B/ ở đầu. Có thể giải thích: người soạn tự điển thường chỉ truy tầm [vững] từ
các văn bản chữ Nôm có sẵn. Có thể [vững] ít khi được dùng đến. Hoặc như trong trường
hợp ‘Kiều’ và rất nhiều văn bản cùng chung cảnh ngộ: Những bản Nôm này được soạn
lại cuối thế kỷ 19 hoặc sang thế kỷ 20, tức sau khi quốc ngữ đã hoàn toàn lật đổ chữ
Nôm. Hiểu biết về chữ Nôm của các nhà Nho nhà Nôm đáng kính đã bị ‘vẩn đục’ bởi
quốc ngữ. Bởi họ học tiếng Nôm qua môi trường quốc ngữ.
[Vàng] có chừng 10 cách viết khác nhau, trong đó có chừng 4 cách bắt đầu bằng âm /B/,
nhưng đa số dùng âm /W/. Y như trong tiếng Mường ngày nay:
wàng dá= vàng giả; wàng để= hoàng đế; wàng pac= vàng bạc; wàng= màu vàng,…
Vậy âm cũ của [vàng] trong ‘vững vàng’ thiên về [wàng].

16


Thế còn [vững] thì sao? Tự điển Mường [6] cho biết cách phát âm người Mường: /Vững/
thiên về /W/.
Và tiếng Hán ra sao? Quan thoại: /Wen/; Quảng Đông: /Wan/; Hải Nam: /Uong/; Chiết
Giang: /Ung/; Triều Châu: /Un/

Tức [Vững] ngày trước phải được phát âm [Wững], chứ khó có thể /Byững/ như trong
bản chữ Nôm của ‘Kiều’ thường ghi:
Bốn phương phẳng lặng hai kinh wững wàng.
Và những bản Nôm của Kiều đã ghi chép nhầm ở đâu đó, đã nhiều năm rồi, không ai hay
biết.
9. I-ngắn và Y-dài
Vấn đề I-ngắn / Y-dài trông đơn giản nhưng đã từng làm tốn bao nhiêu giấy mực của
những nhà văn, nhà báo, nhà ngôn ngữ học, Nôm-na học, v.v.
Và qua loạt bài này chúng ta sẽ thấy, ‘vấn đề i-ngắn / y-dài’ có thể được xem như một
hội chứng nhỏ hoá to, đã che khuất được những vấn đề trầm trọng nằm ở nền tảng và lý
thuyết cơ bản của ‘việc thay thế chữ Nôm bởi quốc ngữ.’
Phân tích về i-ngắn / y-dài có thể tìm thấy trong ‘Tiếng Việt tuyệt vời’ [8]. Về một giải
pháp hoàn toàn thay thế hết các Y-dài bằng i-ngắn, xem [12] hoặc các bài về ngôn ngữ
học tại báo mạng “talawas.org”.
Xin tóm tắt ghi chú [12]: Muốn thay thế toàn diện y-dài bằng i-ngắn, ta đánh dấu trên
chữ I, thường nằm cuối từ:
Thùy => thuì

Thủy => thuỉ

Thấy => thâÍ

Hoặc thay Y-dài bằng hai chữ I viết kế tiếp nhau: thay thế => thaii thế
(Giải pháp dùng 2-i cho 1-y vẫn có thể tìm thấy trong tiếng Mỹ: Hawaii => Hạ Uy Di)
Tại Việt Nam hiện nay, có khuynh hướng đánh dấu trên Y. Điều này không cần thiết, bởi
Y-dài được dùng đến, như chi tiết phía sau, trên nguyên thủy và theo thiển ý, là để luật
đánh dấu vẫn được giữ nguyên: ‘Thủy’, ‘Thùy’ đánh dấu trên U chứ không trên Y. Trên
Y không cần thiết. Bởi đánh dấu trên âm U đi trước được dựa trên tác động của Y-dài.
Nếu đánh trên Y, lập tức có thể thay Y bằng I. Đánh dấu ngay trên i-ngắn hay y-dài
thường cho ra âm gần gần giống nhau. Trở lại cái vòng lẩn quẩn: giữ Y hay không?

Vấn đề y-dài trong âm /yờ/ với phiên âm quốc tế /j/ chính là vấn đề quan trọng của ký âm
quốc ngữ, sẽ được bàn đến trong khuôn khổ âm /Yờ/ trong bài số 6.
Trong bài này, chúng ta thử đặt một giả thuyết cho y-dài như sau:
17


Cũng như V, rồi N & L, và R & TR, âm Y-dài trong ‘Thủy’ hoàn toàn chưa ‘rõ nét’
trong thời chữ Nôm. Chính quốc ngữ đã giới thiệu chữ và âm Y-dài để phân biệt một số
từ đồng âm nhưng dị nghĩa với nhau.
Dẫn chứng 1:
Xem qua tiếng Mường:
thiền chài (M)= thuyền chài (V) [14]
chiền (M)= truyền (V)= chuyền (Ví dụ: chiền bả= truyền bá; pỏng chiền= bóng chuyền)
Tức ở thời chữ Nôm, rất có thể tiền nhân phát âm /truyền/ như /chiền/, không cần âm /y/.
Và đầy dẫy trong pinyin của quanthoại:
cui lu se (txúi lú xớ)= thúY lục sắc: màu xanh lục cẩm thạch
xun lian= huấn luYện (quan thoại không cần Y-dài)
bian chui= biên thùy
feng shui= phong thủy
cheng lei= thành lủy
Dẫn chứng 2:
Tra một quyển tự điển chữ Nôm [18]:
xiềng = xuYên + Kim, xiềng âm /I/ viết dựa theo xuYên, âm /Y/, theo quốc ngữ.
Ở mặt ‘ngôn ngữ’, Y-dài có thể hành sự như một phụ âm: Yêu, yên chí, yêm bác. Nhưng
phát âm cổ của phụ âm này – như sẽ thấy phiá dưới – không hoàn toàn giống như phụ âm
/Y/ của quan thoại, tiếng Nhật, hay của tiếng Anh. Quan thoại: Yao qiu (yêu cầu), yuan
bo (yêm bác, tức: uyên bác), Yang Gui Fei (Dương Quí Phi), yin & yang (âm dương),…
Nhật ngữ: Yamamoto, Yamaha. Anh ngữ: Yesterday, you, yell.
Và cũng như một nguyên âm: Mỹ miều, trưởng ty, … không khác mấy với nguyên âm
/i/: trồng cây si, lông mi, … Anh ngữ: my book, probably,…

Nhưng khi /y/ vẫn một nguyên âm, nhưng lại âm thứ nhì của một nhị âm (dipthong): tay
trắng tay, thay thế, mấp máy, tác dụng của /Y/ giống như hai lần âm /i/, tức /ii/. Nó kéo
dài âm cuối /i/ hơn ra và ‘trói’ âm trước lại: /Thủy/ khác với /thủi/. /Thúy/ dài hơi /i/ hơn:
/Thúi/. Và như vậy nếu thaii thế Y-dài trong nhị âm bằng i-ngắn, ta chỉ thay thế được khi
từ đó mang dấu và dấu được đánh trên i-ngắn, đọc nhanh:
ThuÍ, ThuÌ Mị, TuÌ nghi, …
Bởi thật ra ‘i-ngắn có dấu’ ở phía trên, lại mang một âm /i/ dài hơn ‘/i/-không-dấu’. /Ì/ dài
hơi /i/ hơn /I/.
Y-dài dùng như một phụ âm đứng đầu từ: Như sẽ thấy trong bài số 6, và nếu tạm xem
phụ âm /Y/ như kéo dài tương đương với hai âm /i/ (tức /ii/), âm /Y/ dùng như phụ âm bị
ảnh hưởng của phát âm Phúc Kiến, mang tác động như một đơn vị của nguyên âm /i/,
hay nhiều nhất một rưởi (1.5) âm /i/. Tức /y/ mang phát âm /I/ như trong: Iêu, Iếm thế,
Iên phận, … khi viết như: Yêu, yếm thế, yên phận,…
18


Thí dụ: âm Phúc Kiến của ‘dõng’ (dũng) là => /‘iong/ như trong nhiều sách giáo khoa,
chứ không phải /yong/. /’i/ chứ không phải /y/. Phúc kiến ghi phiên âm của [yau kìu] là
/Iau kìu/. Nhấn mạnh: /Iau/ chứ không phải /yau/. [Iau kìu] là lối phát âm Phúc Kiến
tương đương với [yêu cầu] trong tiếng Việt. Việt đọc /Iêu cầu/, với âm đầu /i/-ngắn, y
như kiểu Phúc Kiến. (Xem [16] [17] & [18]).
Đặc biệt một phát hiện tình cờ nhưng rất quan trọng của loạt bài này: Phát âm Quảng
Đông ở đầu thế kỷ 20 hãy còn rất giống kiểu Phúc Kiến và An Nam. Nhất là khi tiếng
Việt dùng /y/ như phụ âm đứng ở đầu từ. Chi tiết về biến đổi phát âm Quảng Đông sẽ
được trình bày trong các bài sau.
Tiếng quan thoại cũng vậy. Trước thời pinyin (tức phiên âm dùng a-b-c) ra đời, quan
thoại dùng phiên âm theo kiểu Taiwan hay hiragana của Nhật. Tức phiên âm toàn bộ chữ
Hán bằng cách ráp vần trên dưới 30 nét chữ thật đơn giản tương đương với a-b-c và các
âm kép như /SH/, /CH/, v.v. Đến lúc pinyin ra đời pinyin đặc biệt nhấn mạnh dùng /Y/
thay cho các phiên âm xưa bắt đầu bằng /ie/, thí dụ: /ye/ (dạ= ban đêm) thay cho /ie/. Và

/w/ được khuyến cáo thay cho /uo/: Wo (ốc= đất có nước), thay thế pinyin cho: /uo/ [24].
10. Một vấn đề hết sức phức tạp
Nhưng thật ra vần đề y-dài & i-ngắn từ lâu vẫn che đậy những vấn đề thật sự hết sức
phức tạp và khó khăn của quốc ngữ. Lướt qua và loại bỏ âm /y/ nho nhỏ của rất nhiều
cách phát âm trong thời chữ Nôm. Chi tiết của biến chuyển này sẽ được trình bày chi tiết
hơn trong bài thứ 6: ‘Khứ niên kim nhật thử môn trung’.
Chỉ xin tóm tắt ở đây:
(A)

Ya Krum là miền quê hương cát trắng…

Ya Krum chính là tên gọi nguyên thủy của thành phố Nha Trang. Ya Krum có nghĩa
‘sông Lau’ hay ‘sông Tre’ [10]. Ya = sông hay suối & Krum= cây Tre hay Lau. Ya =>
Nha. Krum => Trang.
Để ý quốc ngữ ưa cho /Y/ => /NH/. Ya => Nha.
Rất có thể âm địa phương thời xưa có lẽ /Ny/ chứ không đơn thuần /Y/. Nya => Nha.
‘Nya’ dễ tiến đến ‘Nha’ hơn. Màu nâu (brown) xuất phát từ tiếng Miến Điện: [Nyou], lại
bị lột /y/ thành /Nou/ hay /Nâu/.
Thông thường đối với tiếng Hán (xem bài 6), khi cả hai âm quan thoại và quảng đông
đều bắt đầu bằng /Y/, tiếng Việt tương đương sẽ bắt đầu bằng /D/:
Yang Guo (qt) => Yeung Kwa (qđ) => Dương Qua
Ye (qt) => Yê (qđ) => Dạ (V): đêm
19


You (qt) => Yàu (qđ) => dầu (V): oil
Yi (qt) => Yik (qđ) => Dịch (V): dịch thuật, phiên dịch
Nhưng nếu một trong hai âm, quan thoại hoặc quảng đông, không dùng /Y/ lập tức âm
Việt cũng sẽ không dùng /D/:
Ya (qt) => Ngạp (qđ) => Áp (V): con vịt {Phúc Kiến cũng lột âm /Y/: Ak} [20].

Ya (qt) => Nga (qđ) => Nha (V): răng –> nha sĩ
He (qt) => Yâm (qđ) => Nhẩm (V): uống => nhẩm chà
Ren (qt) => Yâhn (qđ) => Nhân (V): ngườI
Rou (qt) => Yuk (qđ) => Nhục (V): thịt
Ruan (qt) => Yuen (qđ) => Wãn (phúc kiến) => Nguyễn (V): họ Nguyễn
Thỉnh thoảng vẫn có ngoại lệ, do ảnh hưởng phát âm Phúc Kiến:
Yin (qt) => Yâm (qđ) => Âm (V): âm dương (Khuynh hướng Phúc Kiến: lột /y/)
You (qt) => Yau (qđ) => Âu (V): âu lo (Phúc Kiến: lột âm /y/)
Yuan (qt) => Yuen (qđ) => viên (V): công viên } Phúc Kiến dùng âm /W/
Yue (qt) => Yuet (qđ) => vượt (V): vượt qua } “ “
Yuan (qt) => Yuen (qđ) => nguyên (V): gốc, yuan-ben: nguyên bản
Như vậy dùng âm /Y/ của quan thoại làm cái mốc để qui định âm tương đương trong
tiếng Việt, nhất là các âm /D/ hoặc /NH/, sẽ không đơn giản như 1 với 1 là 2. Nói một
cách khác, âm /Y/ của quan thoại (hay quảng đông) chuyển sang tiếng Việt bằng nhiều
ngã. Thông thường nhất là /D/ (Yang => Dương). Nhưng cũng có thể:
-

Chuyển sang nguyên âm, lột /Y/: Yin => Âm (Yin Yang: Âm Dương)
Chuyển sang âm /NG/: Yuan => Nguyên
Chuyển sang /NH/: Yuk (qđ) => Nhục: thịt
Chuyển sang /V/, tức /W/ theo kiểu Phúc Kiến: Yue => Việt
….
(B) Quốc ngữ có khuynh hướng cắt bớt âm /y/

Quốc ngữ đã loại bỏ /y/ trong rất nhiều âm đi theo 1 phụ âm khác:
• /By/ => ông byua. Âm /y/ bị loại bỏ sớm nhất. Tự điển Alexandre de Rhodes (1651)
ghi [Bua] chính từ ngày nay ta đọc và viết [Vua]. Người sau tiếp nối và bỏ đi /y/ trong
‘Bưu Điện’ khiến không ai ngờ chúng xuất phát từ /Byiu dian/ của tiếng Phúc Kiến:
Phúc kiến có âm /y/.
• /My/ => /M/ hoặc /D/. Thật ra phải /My/. Thí dụ Mặt <= xuất phát từ [Mian] quan

thoại, hay [Miện] hải nam. Đọc đúng [Myan] hay [Myiện]. Quốc ngữ bỏ /y/ thành:
Miện => Mặt. Hoặc bỏ /M/ thành ra /Yiện/ hay [Diện]. Thí dụ khác: Nước Myanmar
(tức Burma cũ) ngày trước gọi ‘Miến Điện’ hay ‘Diến Điện’: Gộp Miến và Diến với
nhau: Mdiến Điện => Myanmar. Thí dụ nữa: Mình => tiếng Mường: Miềnh. /Miềnh/
dài hơn /Mình/ và có âm /y/ nho nhỏ.

20


• /Ny/ => hoặc lột /y/, hoặc lột /N/. Thí dụ: màu nâu, xuất phát từ tiếng Miến Điện:
Nyou => lột /y/ => Nou => nâu. Nyor, tiếng Mã Lai= Dừa, coconut. Người Hải Nam
có khuynh hướng thay âm /Y/ quan thoại thành /Jz/: Yuan fen: Duyên phận => Jzuan
fen, nhưng vẫn giữ vững âm /Y/ cho coconut: /Ye/
• /Dy/ => /Dy/ đọc nhanh sẽ tiến về /Dj/ thường hiểu và viết /Dz/. Nhưng quốc ngữ chỉ
cho biết có chữ cái /D/ mà thôi. Tức nhiều từ đáng lẽ phát âm /Dj/ hay /Dz/ (như con
Djê) chỉ được viết như /D/: con Dê.
• /Ty/: Tương tự tiếng Nôm và Mường ưa có khuynh hướng thêm /y/ vào /T/ cho ra
/Ty/, rồi /Tj/ nếu đọc nhanh. Thí dụ: Tjiu, chính âm tiếng Hán nguyên thủy ở An
Nam, chỉ ‘rượu’. Lột /T/ ta có /Jiu/ => /riu/ => /rượu/ và nhớ /J/ chính là âm cũ của
/R/ như nhiều nơi Trung Bộ còn giữ. Nhưng nếu lột /j/ trong ‘Tjiu’ => ta sẽ có /Tiu/
=> Tửu. ‘Rượu’ và ‘Tửu’ đều là từ …gốc Hán.
• Để ý biến hoán chuyển qua lại giữa âm /T/ và /D/ như tiếng Tàu, phiên âm: Teng
Hsiao Ping = Deng Xiao Ping, /D/ thay /T/ nhưng thật ra phát âm người Hoa, nằm
giữa /T/ và /D/. ‘Đường’ (sugar) người Hoa đọc /Tãng/. Nếu thêm /y/ sau /T/ =>
/Tyãng/ => /tiãng/ => rất dễ tiến đến âm /tường/ => /đường/.
Thế dụng ý của các Thầy đối với âm /D/ và phụ âm /Y/ ra sao? Cũng một đường lối dung
hoà các âm hỗn tạp trên toàn cõi nước Nam:
(a) Trước hết âm /D/ như trong Dương Quí Phi, Hoàng Dung, dinh dưỡng, v.v. dùng như
phụ âm /Y/ quốc tế: trái yừa, Yang Quí Phi,…
(b) Âm /D/ chính thức được dùng thay cho phụ âm /Dj/ tức /Dz/ cho hai nhóm từ:

• Nhóm thứ nhất chính nhóm từ bản địa của khối ngôn ngữ Nam Á: Djakarta (tên cũ
của Jakarta - thủ đô In-đô-nê –xia), Djiring (thời 1960’s được đổi thành Di-Linh), Tje
(tiếng Miến Điện: ngôi sao), và rất nhiều từ … thuần Nôm như: Djĩa cơm gà Hải Nam
(bài 2), và rất nhiều từ lưng khừng giữa /Đ/ và /D/. Thí dụ: Mường: đéo => Việt: dẻo
=> quốc ngữ: djẻo hay dzẻo. Đoc (M) => dọc (V) => phát âm /Djọc/. Địp (M)= Dịp
(V) => Djịp.
• Nhóm thứ hai: Một nhóm các từ ngày trước thường theo kiểu phát âm Hoa lục địa tức
dùng phụ âm /Y/. Nhưng, biến chuyển chính trị 1644 lúc Mãn Thanh lật đổ nhà Minh,
chiếm Trung quốc, đã gây ra hàng chục ngàn người từ lục địa tràn sang xin tỵ nạn ở
nước An-Nam. Quan trọng nhất và khá đông đảo trong nhóm này chính là người Hải
Nam. Người Hải Nam có khuynh hướng phát âm các âm bắt đầu bằng /Y/ của quan
thoại, quảng đông, v.v. thành âm /Jz/. Thí dụ:
Do Thái= You tai (qt) => Jziu Hai. Duyên phận= Yuan fen (qt) => Jzuan fen
Dư luận= Yu lun (qt) => Jzi Lun. Dưỡng dục= Yang yu (qt) => Jiang jấp.
Việc hội nhập của cộng đồng Hải Nam trên toàn cõi nước Nam đã gây nên việc
truyền
bá âm /Jz/ tức âm /Dj/ hay /Dz/ của tiếng Việt. Ảnh hưởng phát âm /Jz/ của ngườI Hải
Nam, do đó sẽ khiến số người dung /Dj/ hay /Dz/ gia tăng mãnh liệt ở Bắc Hà.
(c) Nhưng điểm quan trọng của bất cứ ngôn ngữ nào đối với cộng đồng hay khu vực là
tính nhất quán của nó. Tính thuần nhất. Tức người xử dụng khi gặp phải một thứ chữ,
21


một thứ đánh vần sẽ luôn luôn giữ 1 cách phát âm cho chữ đó. Nói một cách khác: Dù
các Thầy có dụng ý /D/ phát âm khi thì /Y/ khi thì /Dj/, nhưng người xử dụng chỉ
chọn được 1 trong hai. Phía Bắc chọn /Dj/ mặc dù tiền nhân có thể phát âm hai cách.
Và phía Nam đã chọn /Y/. Cũng như /V/ phía Bắc đọc /V/, trong khi phía Nam đọc
/By/. Và tiền nhân không đọc /V/ và chỉ phát âm: khi /W/: con Woi, khi /By/: ông
Byua.
(d) Bằng chứng cho cách phát âm /Dj/ vẫn có thể tìm thấy ở phía Nam:

• Thị xã Djiring ở cao nguyên Trung phần, thời thập niên 60’s được đổi thành Di-Linh.
Rõ ràng Djiring mang âm /Dj/.
• Huỳnh Ái Tông [7] có trích dẫn một đoạn ngắn trong báo ‘Thông Loại Khóa Trình’
xuất bản năm 1888 tại Sàigòn. Báo có đóng góp thường xuyên của Trương Vĩnh Ký
và Trương Minh Ký. Đoạn về dạy tiếng Phangsa tức tiếng ‘Tây’:
Bonjour Monsieur (Bongdur mơxơ)= chào ông
Bonjour Madame (Bongdur madăm)= chào bà
Bonjour Mademoiselle (Bongdur madơmoaxel)= chào cô
Où allez-vous? (u alê vú)= anh đi đâu?
Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê)= tôi đi dạo.

Chỉ chừng 5 dòng ngắn ngủi ở trên của tờ ‘Thông Loại Khóa Trình’ (1888) chúng ta
có thể thấy những gì?
Chúng ta có thể thấy những điểm khá quan trọng cho việc giải lý về phân cực phát
âm:
(i)
(ii)

(iii)

(iv)

Người xử dụng vẫn chưa quen thuộc âm /R/: ‘Francais’ được phiên âm:
Phangsa, chứ không phải ‘PhRang-sa’.
Chữ /d/ quốc ngữ dùng rất ‘thoải mái’: Thay thế cho /đ/: ‘anh đi đâu’,
trong phiên âm tiếng ‘Tây’: madăm và madơmoaxel. Và… cũng phiên
âm cho /J/ trong [Je vais me promener] => [Dờ ve mơ promơnê] => Je=
Dờ. Và [Bonjour]= /Bongdur/. Tức chính Trương Vĩnh ký (hay Trương
Minh Ký) cũng phát âm kiểu … ‘Tonkin’ (‘Bắc Kỳ’) cho /D/, y hệt như
/Dj/ ngày nay. Tức rất có thể âm /Dj/ chính là một âm nguyên thủy

Nôm, Nôm bản địa vùng Nam Á, Nôm… chay!
Chữ /V/ cũng được dùng thoải mái: Âm /V/ của chữ Tây, chứ không
phải /By/ tiếng Việt. Tức giống như giả thuyết ở đây: Thuở ban đầu âm
/V/ đưa ra thay thế một lượt cho hai âm /W/ (con Woi) và /By/ (ông
Byua). Nhưng dần dà bị sức ép của luật nhất quán, bắt buộc người xử
dụng phải chọn một trong hai: Phía nam chọn /By/ luôn và phía Bắc
chọn /V/. Trường hợp /D/ thay thế cho /Y/ và /Dj/ (tức /Dz/) cũng y hệt
như vậy.
Chữ [V] ở đây dùng phiên âm cho [V]-tây: ‘Dờ ve = Je vais’ cho thấy
[V] có thể dùng như một âm trung hoà, chính giữa [B] (ông Bua) và [V]
(con voi). Phát âm nằm ở giữa. Y hệt như /D/ nằm giữa /Y/ và /Dj/.
22


(v)

Tuy nhiên ta để ý có một nhóm chứng nhân quan trọng: Nhóm người
Mường ở phía Bắc.
Người Mường có lẽ giữ vững phát âm xưa cũ, bởi tiếng nói của họ chưa
hoàn toàn được alfabê-hoá (ký âm theo a-b-c), tức ký âm theo kiểu tiếng
Việt:
- Đối với âm quốc ngữ /V/: Họ chưa wàn toàn dùng hết chữ /V/.
- Một số từ họ vẫn phát âm với /W/: con Way (voi), wẽ chiễn (vẽ
chuyện), wần ương câl (vườn ươm cây), win cở (vin cớ),…
- Một số từ khác họ vẫn duy trì âm /By/ như xưa, mặc dù hiện đang biến
từ từ sang /V/: bà Byợ, byong (vong), ảo byóc= áo vóc, byô= vô, mặc
bừa= mặc vừa,…
- Đối với âm quốc ngữ /D/, đa số họ phát âm /Dj/ như phía Bắc. Một
phần có thể bị ảnh hưởng phát âm /Jz/ của dân Hải nam bắt đầu vào
cuối thế kỷ 17. Nhưng chắc chắn họ không hoàn toàn loại bỏ âm /Y/,

như ‘trái dừa’ => âm /yừa/.
- Đối với các loại phát âm phân cực (/By/ và /V/ & /D/ và /Dj/), người
Mường chia xẻ với phát âm phía Bắc lẫn phía Nam.
(vi) Trở lại 5 dòng ngắn ngủi từ báo ‘Thông Loại Khóa Trình’ (1888), và để
ý các chi tiết sau từ các quyển sách sử Việt: 1/. Với hoà ước Nhâm Tuất
(1862) nước Nam nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông: Biên Hoà, Gia
Định và Định Tường. 2/. Năm 1863 thiếu tướng De la Grandière sang
thay tướng Bonard. Việc đầu tiên của De La Grandière là xếp đặt cách
cai trị, định thuế má, và mở lớp dạy tiếng Pháp và chữ quốc ngữ [22].
3/. Năm 1865, tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ra đời, mang tên Gia
Định báo. 4/. Năm 1867 Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ:
Vĩnh Long, An giang và Hà tiên. 5/. Hoà ước Patenôtre ký kết năm
Giáp Thân (1884) chính thức đưa toàn cõi nước Đại Nam vào vòng đô
hộ của Pháp, mặc dù trên giấy tờ mang danh nghĩa thuộc địa (Nam kỳ)
và bảo hộ (Trung kỳ và Bắc Kỳ).
(vii) Cũng xin để ý: tờ báo ‘Thông Loại Khóa Trình’ xuất bản năm 1888, tức
4 năm sau khi nước Nam rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Nhưng tờ báo
đó cho thấy: /D/ có thể dùng để phiên âm cho /J/ tức rất, rất có thể
Trương Vĩnh Ký hay Trương Minh Ký và toàn thể dân phiá Nam hoặc
phía Bắc biết rất rõ chữ [D] có thể phiên âm cho /J/ tiếng Tây. Hay [D]
có phát âm /Dj/ (tức /Dz/). Tức người phía Nam trong cuối thế kỷ 19 có
thể phát âm những từ bắt đầu bằng [D]: [dân tộc], [dũng mãnh], [duyên
dáng] bằng /djân tộc/, /djũng mãnh/, /djuyên djáng/ y hệt như người
phía Bắc hiện nay. Và cũng rất có thể, người Nam Bộ, tiêu biểu qua
Trương Vĩnh Ký (hay Trương Minh Ký), tác giả mấy câu dạy ‘Phangsa’
ở trên, cũng phát âm /V/ đứng chính giữa /Vy/ (tức /Vờyờ/) và /By/ (tức
/Bờyờ/).
(viii) Nói một cách khác, nếu đưa 5 dòng tiếng Tây đó cho một người sinh
trưởng và học tiếng Pháp ở phía Bắc ngày nay, và nhờ họ ghi ký âm
bằng tiếng Việt, chúng ta sẽ thấy rất có thể ký âm họ sẽ không khác với

23


(ix)

lối ký âm của Trương Vĩnh Ký (hay Trương Minh Ký) bao nhiêu (thí
dụ: Bonjour => Bongdur).
Như vậy câu hỏi còn lại sẽ là: Vì đâu chỉ trong khoảng 30-40 năm ngắn
ngủi, tức đến khoảng năm 1930, người phía Bắc hoàn toàn thay lối phát
âm cho [D] bằng /Dj/ (hay /Dz/), và người phía Nam đọc /Y/ cho tất cả
âm quốc ngữ bắt đầu bằng [D]? Có phải chăng đã có một tác động nào
đó của giới cầm quyền người Pháp? Lại rơi vào cái vòng thuyết ‘mưu
toán’ – conspiracy theory - mất rồi.

11. Quốc ngữ với người mù chữ
Một trong những kết luận căn bản thường tìm thấy ở các sách giáo khoa về ‘Ngôn ngữ
học’ là: Việc thu nhận một ngôn ngữ đối với trẻ thơ hoàn toàn không dựa trên trí thông
minh. Tức, không có sự khác biệt trong việc hấp thụ ngôn ngữ, giữa một thiên tài và một
người thiếu thông minh hay khôn ngoan, sau này [23]. Nói một cách khác, một thiên tài
như nhà bác học Einstein lúc còn nhỏ đã học, và tiếp nhận tiếng Đức y hệt như một đứa
bé sau này lớn lên làm người quét dọn trường học, hay một người phu khuân vác ở bến
tàu. Hoặc không có sự liên hệ giữa trí thông minh và tính phức tạp ngôn ngữ mẹ đẻ:
người Tàu hoặc người Nhật có ngôn ngữ khó hơn tiếng Anh dùng tại Canada, không nhất
thiết được thông minh và giỏi hơn người Canada. Tiếng Nga, như tiếng Đức, phân chia
động từ và ngôi thứ phức tạp hơn tiếng Anh tiếng Pháp rất nhiều – cũng không có nghĩa
người Nga đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế về khoa học hay nghệ thuật, âm nhạc, hơn
người Anh, người Pháp.
Tình hình truyền bá chữ quốc ngữ tại nước An Nam trong thế kỷ đầu cũng giống như dạy
tiếng mẹ đẻ cho trẻ thơ. Thầy dạy sao, học trò hấp thụ như vậy. Bởi từ trong tiềm thức
sâu xa, những người học trò đó lần đầu được giới thiệu với cách ký âm của tiếng nói. Lần

đầu cho cả dân tộc, họ được biết đến a-b-c và cách ráp vần. Như vậy, được dạy dỗ ra sao,
họ sẽ tuân chỉ thi hành như vậy. Cộng vào đó một truyền thống có từ ngàn đời: Quân sư
phụ, ngôi thứ rất phân minh. Và một nền giáo dục nổi tiếng chuyên khoa về …từ chương.
Như vậy, không thế nào tránh được lối hiểu biết “B chỉ là B, không cần biết dạng cũ của
B là cái quái gì.” dễ được truyền tụng từ đời này sang đời khác.
Qua phân tích ở phía trên, chúng ta cũng thấy được:
(i)

(ii)

Lộn xộn Chu & Châu thành ra Châu & Chu là một lộn xộn bắt nguồn từ hội
chứng ‘kị huý’ cộng với việc thiếu so sánh với cách phát âm Hán ngữ của
chính người Hoa. Điểm đáng nhớ các tiền nhân đầu thế kỷ 20 đã học tiếng
Hán, qua môi trường quốc ngữ. Lúc đó chưa có pinyin của quan thoại. Và chỉ
mới bắt đầu có hệ thống phiên âm Wade-Giles.
Nhầm lẫn kiểu: bổ xung hay bổ sung chỉ là điểm thiếu hoàn bị của quốc ngữ.
Bằng hai lẽ: Thứ nhất, dân bản địa trước đó không phân biệt âm X và S. Tiếng
Tây cũng không phân biệt X và S. Tiếng Tàu, đặc biệt Quảng Đông, cũng vậy.
24


-

-

-

Thứ hai, muốn dễ phân biệt đáng lẽ dùng /SH/ như tiếng Anh: [shall]. [share],
hay /SH/ như quan thoạI: [Shou= Thọ], [She= xà, rắn]. Nhưng các Thầy có vẻ
bị yị ứng với âm /SH/ hay bất cứ âm gì giống tiếng Ăng-Lê: /Y/, /J/, /W/, /Z/.

(iii) Nhầm lẫn: Anh nàam gì xế? chỉ là nhầm lẫn vì Thầy bị bệnh hay lớp học bị
hủy bỏ, hoặc gián đoạn sao đó. Để phần thực tập hay thực hành các âm này
không được thực hiện đến nơi đến chốn trong thời buổi ban đầu ở một vài khu
vực.
(iv) Biến chuyển Tôi/ Tui, rồi Cộng/ Cọng, Nhất/ Nhứt là những biến chuyển tất
yếu, chứ không phải phương ngữ, khi chuyển hệ từ dạng ‘nguyên tự’ kiểu chữ
Nôm-Hán, sang dạng a-b-c. Trong môi trường chỉ xài nguyên tự như tiếng Hán
hay tiếng Nhật, biến chuyển phát âm - kiểu Tôi & Tui - là một việc rất bình
thường.
(v)
Biến chuyển gây ra bởi âm /Y/, hay thiếu thốn âm /Y/, mới thật gay go. Nó
chính là điểm nóng trong suốt loạt bài này. Thí dụ:
Âm cũ: /W/ (woi) và By (byua) => bị quốc ngữ biến thành /V/: voi và vua. Phiá Nam
đọc cả hai với âm /By/: Byoi và Byua. Phía Bắc đọc cả hai như: Vua và voi. Người
Mường giữ kiểu xưa: Way và Bua. Phức tạp ở chỗ: Ngay từ đầu quốc ngữ đã lột /y/:
ông Bua. RồI cho âm /B/ triệt tiêu luôn => Vua.
Nhiều âm ghi sai bằng /B/: Thí dụ. Bưu Điện (post) => Bưu bỏ mất âm /y/ thiết yếu
của chữ Hán: Byou dian.
Âm cũ: /Y/ (Yiang Quí Phi) và /Dj/ (Djĩa cơm) => âm mới: /D/ và /Dj/. Phía Nam
chọn /Y/ cho /D/ và /Dj/, do tác động quốc ngữ chứ không phải trước đó họ không
biết đến /Dj/. Phía Bắc chọn /Dj/ cho cả hai thứ. Người Mường có vẻ vẫn giữ hai thứ
nhưng khó phân biệt và đang chuyển hết sang /Dj/.
Một số từ hiện nay bắt đầu bằng /M/ ngày xưa có kèm theo /y/: Myềng (tiếng
Mường)= Mình (V). Quốc ngữ bỏ /y/
Tương tự với âm /N/: tiếng Miến Điện và có thể âm Việt xưa: /Nyou/ => bỏ /y/ =>
Nou => Nâu (màu nâu).

Bởi tầm quan trọng, vấn đề âm /Y/ sẽ được trở lại trong một bài khác.
Tóm lại, mặc dù tiền nhân chỉ học được ‘B là B, không cần biết dạng cũ của B là gì’.
Nhưng nếu để ý:

(i)
Chữ Nôm và phát âm Nôm chứa rất nhiều cảnh ‘đồng âm dị nghĩa’
(ii)
Các từ gốc Hán lâm vào tình trạng hỗn độn bởi có nhiều di dân từ Trung quốc
qua nhiều thời đại khác nhau (như sẽ thấy trong bài 2, 3 & 5, 6), xuất phát từ
nhiều tỉnh khác nhau bên Tàu. Mỗi nơi phát âm một kiểu.
(iii) Lẫn lộn vào đó, những từ xuất phát từ bên Tàu thông thường thuộc các nhóm
Hoa Nam, đặc biệt Phúc Kiến, Quảng Đông và Hải Nam. Những nhóm này
thật ra cũng lại cùng gốc ‘Bách Việt’ với nước Nam. Từ vựng, nhất là Phúc
Kiến - Triều Châu, rất giống những từ ‘thuần Nôm’ (bài số 6).
(iv) Phát âm quan thoại thuộc Hán tộc chính gốc, lại khác với phát âm của nhiều
nhóm Hoa Nam, tức Bách Việt cũ.

25


×