Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Lý thuyết hệ thống và vận dụng tư duy hệ thống trong đổi mới quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.36 KB, 15 trang )

LÝ THUYẾT HỆ THỐNG VÀ VẬN DỤNG TƯ DUY HỆ THỐNG
TRONG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Lê Thanh Huyền
Trường Đại học Giáo dục - ĐHQG Hà Nội

Mở đầu
Lịch sử phát triển khoa học - công nghệ thế giới đã và đang có những bước phát triển mới về
nhận thức và tư duy khoa học. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá
vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới
(Mechanistic Approach) là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách
tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các
hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”,
v.v…
Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các
đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; Xây dựng các mô
hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống…
Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng quan điểm, phương pháp hệ thống; là cơ
sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống.
Tiếp cận hệ thống xem xét các đối tượng, các hiện tượng thuộc thế giới như là những hệ
thống nhất định, được cấu tạo từ các yếu tố liên kết với nhau theo các chức năng tương ứng. Tiếp
cận hệ thống được áp dụng đa dạng, phong phú trong các hướng, các lĩnh vực nghiên cứu, trong
đó có các nghiên cứu về giáo dục và quản lý giáo dục.
Trong bài viết này, tác giả chọn cách tiếp cận hệ thống trong việc giải quyết các vấn đề đổi
mới quản lý giáo dục. Đặc biệt xem xét các vấn đề đó dưới góc nhìn tư duy hệ thống.
1. Khái quát về lý thuyết hệ thống và các đặc trưng của tư duy hệ thống
1.1. Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống ra đời từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và đã nhanh chóng trở thành
một công cụ quý giá cho các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý. Theo GS. TS Đỗ Hoàng Toàn:
“Lý thuyết hệ thống là tập hợp các bộ môn khoa học (tâm lý, logic, toán học, sử học, sinh học, lý
thuyết tự động hóa, tin học,v.v….) nhằm nghiên cứu, giải quyết vấn đề trên quan điểm toàn thể”
[9, tr.12].


Lý thuyết hệ thống được xây dựng từ rất nhiều các khái niệm cơ bản. Dưới đây là một số khái
niệm cơ bản trong lý thuyết hệ thống:
- Phần tử (element): là các thành phần hay tế bảo nhỏ nhất tạo nên hệ thống, nó có tính chất
riêng và có tính độc lập tương đối.
- Hệ thống (System): là tập hợp các phần tử có mối liên hệ theo một trật tự hay cấu trúc nào
đó và có mối quan hệ với nhau có tác động chi phối lên nhau theo các quy luật nào đó để trở
thành một chỉnh thể, nhờ đó nó sẽ xuất hiện những thuộc tính mới gọi là “tính trồi” (emergence)
1


của hệ thống mà từng phần riêng lẻ không có hoặc có nhưng không đáng kể. Tính trồi của hệ
thống ở đây không phải là tổng số những tác động của các bộ phận mà là sản phẩm của những
tương tác của các bộ phận trong một chỉnh thể. “Tính trồi” của hệ thống chứa đựng bản chất tổ
chức, quản lý. Không có nhân tố này thì không có cái gọi là hệ thống, các phần tử sẽ đứng rời
rạc, ô hợp thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Bên cạnh đó, “tính trồi” cần được quản lý thông qua
những tác động qua lại, sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau của các bộ phận chứ không phải những tác
động riêng rẽ, một chiều. Tuy nhiên, khi quản lý quá trình “sản sinh” ra “tính trồi” của hệ thống
cần lưu ý tới tính tương hợp giữa các bộ phận; chú ý các tương tác khiến cho các bộ phận sẽ cộng
hưởng để tạo nên cường độ lớn hơn hay triệt tiêu nhau.
- Môi trường của hệ thống: là tập hợp tất cả các phần tử, các hệ thống khác không thuộc hệ
thống đang xét, nhưng bị hệ thống tác động hoặc tác động lên hệ thống đang xét. Các mối quan
hệ tương tác này có cả khía cạnh tích cực và có cả khía cạnh tiêu cực. Nghiên cứu các mối quan
hệ này có thể giúp chúng ta có những dự báo, biện pháp tổ chức, quản lý và vận hành hệ thống
giáo dục sao cho “tính trồi” đạt hiệu quả cao nhất.
- Đầu vào (input) và đầu ra (output) của hệ thống:
Đầu vào của hệ thống là các yếu tố hoặc đối tượng cần tác động, biến đổi hoặc là các tác
động có thể có từ môi trường lên hệ thống.
Đầu ra của hệ thống là kết quả hay sản phẩm của một quá trình, là các phản ứng trở lại của hệ
thống đối với môi trường.
Hiệu quả hoạt động của hệ thống có liên quan chặt chẽ tới đầu vào và đầu ra của hệ thống

được thể hiện ở các việc: 1) Việc xác định đầu vào và đầu ra phù hợp với điều kiện cụ thể của hệ
thống; 2) Khả năng biến đổi các yếu tố đầu vào thành yếu tố đầu ra cả về lượng và chất; 3) Các
hình thức biến đối những yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra.
- Hành vi (behaviour) của hệ thống: là tập hợp biểu hiện hoặc thể hiện của hệ thống, các đầu ra
có thể có của hệ thống trong một khoảng thời gian xác định. Về thực chất, hành vi của hệ thống
chính là cách ứng xử tất yếu mà trong mỗi giai đoạn phát triển của hệ thống sẽ chọn để thực hiện.
- Trạng thái của hệ thống: Là những biểu hiện đặc trưng của hệ thống tại một thời điểm nhất
định (Tĩnh-động; Mở-đóng; Tốt-xấu; Tiến bộ-lạc hậu).. và là.khả năng kết hợp giữa các điểm đầu
vào, đầu ra của hệ thống xét ở một thời điểm nhất định nào đó. Trạng thái của giáo dục còn được
gọi là thực trạng giáo dục. Khi xem xét thực trạng giáo dục cần phải gắn nó vào từng thời kỳ cụ thể.
- Mục tiêu của hệ thống: là trạng thái mong đợi, là cái đích cần hướng đến của hệ thống sau
một khoảng thời gian nhất định hay tại một thời điểm dự kiến nào đó. Có nhiều loại mục tiêu,
trong đó có mục tiêu chung của hệ thống, định hướng cho cả hệ thống và mục tiêu riêng của từng
phần tử cấu thành hệ thống. Trong giáo dục, cần đặt ra sự thống nhất giữa các mục tiêu cụ thể với
mục tiêu chung. Bên cạnh đó còn có mục tiêu ngoài và mục tiêu trong. Mục tiêu bên ngoài của
hệ thống là các yếu tố đầu ra cần có, còn mục tiêu bên trong của hệ thống là chất lượng, các điều
kiện đầu vào có thể sử dụng. Có ba cách thể hiện mục tiêu: định lượng, định tính và định lượng
kết hợp định tính. Tuy nhiên, theo quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng, dù ở cấp nào mục tiêu
giáo dục cũng cần được kết hợp hai cách thể hiện một cách hợp lý chừng mực có thể.
2


- Cơ cấu (structure) của hệ thống:
Đây là khái niệm có ý nghĩa quan trọng nhất của lý thuyết hệ thống và cũng có nhiều quan
điểm chưa thống nhất về khái niệm này. Hiểu biết cơ cấu của hệ thống tức là hiểu biết cấu trúc,
kết cấu, sự sắp đặt và quy luật sinh ra các phần tử của hệ thống cùng các mối quan hệ giữa chúng
xét trong không gian và thời gian nhất định.
Theo Tác giả Đỗ Hoàng Toàn: “Cơ cấu của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ
thống, bao gồm sự sắp xếp trật tự các bộ phận, các phần tử và các quan hệ giữa chúng theo cùng
một dấu hiệu nào đấy”. [9, tr.20].

Cơ cấu của hệ thống có 4 tính chất đặc trưng, cơ bản:
+ Thứ nhất: cơ cấu của hệ thống cần được hiểu như một bất biến tương đối của hệ thống.
Trong phạm vi bất biến này, các phần tử sẽ tạo ra một trật tự bên trong - một chỉnh thể thống
nhất, tạo ra “thế năng” (trạng thái nội cân bằng) của hệ thống.
+ Thứ hai: Cơ cấu luôn luôn biến đổi (tạo ra “động năng” của hệ thống)..
+ Thứ ba: một hệ thống thực tế có rất nhiều các cơ cấu khác nhau – gọi là sự chồng chất cơ
cấu. Đôi khi, người ta có thể phát hiện ra những cơ cấu bị che khuất, không quan sát được để giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Thứ tư: Một hệ thống khi đã xác định được cơ cấu thì nhiệm vụ nghiên cứu quy về việc
lượng hóa các thông số đặc trưng các phần tử và các mối quan hệ của chúng. Còn khi cơ cấu của
hệ rất khó quan sát, lúc này nhiệm vụ nghiên cứu hệ thống là căn cứ trên cái gì đã biết hoặc cái gì
có thể biết mà tìm kiếm các cơ cấu bị che khuất để giải quyết vấn đề.
- Động lực của hệ thống: là những kích thích đủ lớn để gây ra các biến đổi hành vi của các
phần tử hoặc của cả hệ thống. Động lực có hai loại: động lực bên trong và động lực bên ngoài.
Trong đó, động lực bên trong là chủ yếu tác động đến sự biến đổi của hệ thống.
- Phân loại hệ thống: Căn cứ vào các dấu hiệu quan sát được, tùy theo ý đồ và mục tiêu nghiên
cứu đặt ra mà người nghiên cứu phải phân loại được hệ thống.Có rất nhiều loại hệ thống: Hệ đóng Hệ mở ; Hệ đơn giản - hệ phức tạp ; Hệ phản xạ đơn giản - Hệ phản xạ phức tạp ; Hệ thứ bậc (phân
cấp hình quạt – phân cấp hình thoi) ; Hệ động - Hệ tĩnh ; Hệ điều khiển ; Hệ ổn định,v.v….
- Cơ chế điều khiển hệ thống (cơ chế hệ thống): là phương thức tác động có chủ đích của chủ
thể điều khiển lên hệ thống, bao gồm một hệ thống các quy tắc và các ràng buộc về hành vi đối
với mọi đối tượng ở mọi cấp trong hệ thống nhằm duy trì tính trồi hợp lý của cơ cấu và đưa hệ
thống sớm tới mục tiêu. Giữa mục tiêu – cơ cấu – cơ chế có mối liên hệ tương hỗ chặt chẽ trong
việc điều khiển hệ thống. Nếu không duy trì mối liên hệ tương hỗ giữa cả ba yếu tố trên thì sẽ
không thể vận hành hệ thống phát triển được.
1.2 .Tính ì hệ thống và các đặc điểm của tư duy hệ thống
1.2.1. Tính ì hệ thống
Theo Tác giả Phan Dũng: “Tính ì hệ thống (Systems Inertia) là hoạt động của hệ thống nhằm
giữ lại các trạng thái, khuynh hướng thay đổi mà hệ thống đã và đang trải qua, chống lại tác động
chuyển hệ thống sang trạng thái, khuynh hướng thay đổi mới” [4, tr. 313].
Tính ì của hệ thống là thuộc tính của bất kỳ hệ thống nào. Để hệ thống cho trước chuyển sang

một trạng thái khác, tác động gây chuyển trạng thái phải lan truyền theo các mối liên kết này, các
3


yếu tố này sang các mối liên kết khác, các yếu tố khác theo thời gian. Mặt khác, các yếu tố, các
mối liên kết cũng có tính ì, chống lại sự lan truyền tác động, làm giảm tốc độ lan truyền, góp
phần làm tăng thời gian chuyển trạng thái của hệ thống. Theo ý nghĩa đó, người ta chỉ có thể làm
giảm thời gian chuyển trạng thái chứ không thể triệt tiêu nó. Điều này cũng có nghĩa, chúng ta
chỉ có thể khắc phục một phần tác hại của tính ì hệ thống chứ không thể khắc phục hoàn toàn
được. Tính ì của hệ thống cần được tính đến trên 3 phương diện: Tính ì tâm lý, tính ì của hệ cần
cải tiến và tính ì của hệ thực tế khi đưa hệ đã cải tiến ra áp dụng.
Một số điểm cần lưu ý về tính ì hệ thống
- Để giảm thời gian chuyển trạng thái của hệ thống, thông thường người ta nghĩ đến việc tăng
cường độ của tác động gây chuyển trạng thái. Tuy nhiên, cần lưu ý đến cường độ tác động để
tránh phá vỡ hệ thống hoặc lãng phí thời gian.
- Có thể giảm được thời gian chuyển trạng thái lý tưởng nhưng với điều kiện phải cải tiến
cách chuyển trạng thái cho trước (cần có những giải pháp sáng tạo).
- Có thể hình thành những hệ thống trung gian trong quá trình chuyển trạng thái. Điều này sẽ
giúp tạo ra sự thay đổi ít nhất trong các hệ so với các trạng thái trước đó.
1.2.2. Đặc điểm của tư duy hệ thống
Nếu coi việc phát triển hệ thống là một bài toán cần giải đáp thì tư duy hệ thống là quá trình
suy nghĩ của người giải, sao cho người giải không chỉ thấy, hiểu, xử lý thông tin… về hệ có trong
bài toán và bài toán như là hệ thống mà người giải cần thấy, hiểu, xử lý thông tin… về toàn bộ
các hệ có trong không gian hệ thống. Ít nhất, người giải phải thấy, hiểu, xử lý thông tin… về 9N
hệ (đối với hệ có N chiều xem xét) và môi trường, hoặc 9 hệ (đối với hệ có 1 chiều xem xét) và
môi trường(trong đó: N là chiều xem xét hệ thống, 9 hệ bao gồm: hệ trên quá khứ, hệ trên hiện
tại, hệ trên tương lai, hệ quá khứ, hệ hiện tại, hệ tương lai, hệ dưới quá khứ, hệ dưới hiện tại, hệ
dưới tương lai).
Tư duy hệ thống vận dụng những tư tưởng và thành tựu của khoa học hệ thống, đồng thời
cũng tiếp thu những tinh hoa trong các dòng tư duy truyền thống được thể hiện ở một số đặc

điểm như sau:
- Tính toàn thể
Đặc điểm chủ yếu của tư duy hệ thống là ở cách nhìn toàn thể, và chính từ cách nhìn toàn thể
mà thấy được “tính trồi” của hệ thống. Tính toàn thể được thể hiện xuyên suốt cả quá trình phát
triển hệ thống từ lúc xuất phát cho đến đích đến.
Như chúng ta đã biết, sự vận hành hay biến đổi của hệ thống là sản phẩm của những tương
tác giữa các bộ phận trong một chỉnh thể. Để tạo nên những thuộc tính hợp trội có chất lượng cao
của hệ thống thì phải tác động vào các quan hệ tương tác giữa các phần tử, các phân hệ trong hệ
thống chứ không chỉ tác động vào các thành phần. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý là trong quá trình
tương tác tạo ra “tính trồi” của hệ thống, nhưng mặt khác những “tính trồi” đó của hệ thống cũng
làm tăng giá trị, phẩm chất của các thành phần.
Để quản lý sự phát triển của hệ thống, ngoài việc hiểu rõ các tương tác bên trong giữa các
thành phần thì cần phải hiểu cả các mối tương tác với môi trường bên ngoài. Và cần lưu ý: trong
4


môi trường bên ngoài có những yếu tố ta điều khiển được, nhưng cũng có rất nhiều yếu tố mà ta
không thể điều khiển được.
- Tính có mục đích
Tính có mục đích là một đặc điểm rất quan trọng của các hệ thống phức tạp. Mục tiêu cần
phải được xác định ngay từ đầu, định hướng sự phát triển của hệ thống. Một hệ thống có thể có
một mục tiêu mà cũng có thể có đồng thời nhiều mục tiêu. Bên cạnh đó, cần lưu ý, đa số các hệ
thống đều là hệ mở, hoạt động trong môi trường. Nên muốn đạt mục tiêu của hệ thống cũng cần
phải biết mục tiêu tác động của môi trường bên trong và bên ngoài tới hệ thống.
- Tính đa chiều
Đây là đặc điểm cốt yếu của tư duy hệ thống, tính đa chiều hay còn gọi là đa thứ nguyên.
Trong các hệ thống của tự nhiên và xã hội luôn tồn tại những khuynh hướng đối lập nhau, những
xu hướng trái ngược nhau. Có những xu hướng đối lập dẫn đến đối kháng cực đoan, triệt tiêu
nhau, nhưng cũng có những xu hướng không những không loại trừ mà còn chung sống, tương
tác với nhau bằng đấu tranh và thỏa hiệp, tạo nên một quan hệ bổ sung, một trạng thái mới với

chất lượng mới có lợi cho sự phát triển của hệ thống.
Tuy nhiên đa chiều không nhất thiết là có đối lập. Đa chiều là có nhiều cái khác nhau, nhiều
cách nhìn, cách hiểu khác nhau về đối tượng. Quan điểm đa chiều trong tư duy hệ thống còn là sự
cố gắng phát hiện cái giống nhau trong những cái khác nhau và cái khác nhau trong những cái
giống nhau. Tìm cái giống nhau trong những cái khác nhau là khoa học, hướng tới cái phổ biến,
cái có tính quy luật; tìm cái khác nhau trong những cái giống nhau hướng tới những phong cách
riêng, sắc thái riêng.
Tính đa chiều của hệ thống còn được thể hiện qua những mối quan hệ phức tạp, phi tuyến.
Quan hệ phi tuyến là quan hệ không có sự đều đặn giữa các thay đổi của nguyên nhân và hệ quả.
Tính phi tuyến là phổ biển đối với các hệ thống phức tạp.
Một số lưu ý trong tư duy hệ thống:
- Xem xét tính toàn thể của hệ thống cần xem xét tất các hệ (9 hệ) trong toàn hệ thống, để từ
đó xác định chiều tác động vào hệ thống: từ hệ dưới lên các hệ trên; từ hệ trên đi xuống các hệ
dưới,v.v..
- Để phát triển hệ thống, có 3 cách tác động: thay đổi riêng các yếu tố, thay đổi riêng các mối
liên kết, thay đổi cùng lúc cả yếu tố lẫn các mối liên kết.
- Tính toàn thể trong tư duy hệ thống là xem xét từng yếu tố, từng mối liên kết chứ không chỉ
xem xét phát triển một bộ phận tinh hoa nào của hệ thống.
- Có một điểm cần lưu ý khi xem xét tính toàn thể trong tư duy hệ thống là cần lưu ý đến các
mối liên kết ẩn, từ đó đề xuất những giải pháp để phát triển hệ thống.
- Người quản lý cần phải đặc biệt chú ý đến hiệu ứng lan tỏa hệ thống, tính toán đến mức độ
lan tỏa, lan tỏa là tích cực hay tiêu cực trước khi ra quyết định hay thực hiện quyết định. Điều này
sẽ giúp phát hiện và xử lý các quan hệ nhân quả phi tuyến tính.
- Nhìn theo quan điểm hệ thống thì không có bài toán nào là nhỏ. Và đôi khi, những bài toán
nhỏ không được xử lý sẽ có khuynh hướng trở thành những bài toàn phức tạp.
5


- Theo dõi hệ thống thay đổi theo thời gian giúp người giải phát hiện và sử dụng Logic tiến
hóa, phát triển của hệ thống vào quá trình suy nghĩ, giải quyết vấn đề và ra quyết định. Điều này

cũng có nghĩa là, người quản lý có thể rút ra các kinh nghiệm từ lịch sử để hiểu thực tại hơn, có
những dự báo, dự phòng cho tương lai.
2. Quản lý và một số mô hình quản lý giáo dục theo lý thuyết/tư duy hệ thống
2.1. Quản lý
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất của con người khi có
những hoạt động cần có sự tham gia, phối hợp của nhiều người, nhiều bộ phận khác nhau có liên
quan. Hoạt động quản lý tác động tới tất cả các lĩnh vực đời sống. Nó phản ánh sự nhận thức của
con người đối với tự nhiên, môi trường và xã hội xung quanh. Quản lý đúng có nghĩa là con
người đã có những nhận thức đúng, đã nắm được quy luật và vận động theo quy luật của tự
nhiên, của môi trường. Nhờ có hoạt động quản lý đúng đắn con người đã có thể vượt lên trên mọi
khó khăn của hoàn cảnh và tạo ra nhiều thành tựu giải phóng cho mình, cho nhân loại.
Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ "quản lý" được định nghĩa là: "Tổ chức, điều khiển
hoạt động của một đơn vị, cơ quan" [10, tr.36].“Quản lý là hoạt động có mục đích, được tiến
hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác
định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý, chủ thể quản lý tiến hành những hoạt
động theo chức năng quản lý như xác định mục tiêu, hoạch định các chủ trương, chính sách, kế
hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, phối hợp, kiểm tra, huy động và sử dụng các nguồn lực cơ bản
như tài lực, vật lực, nhân lực...để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh và
thời gian nhất định” [10, tr.37].
Henri Fayol thì xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý khi cho rằng: “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa,
tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [3, tr.46].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì hoạt động quản lý là: “Tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (ngườiquản lý) đến khách thể quản lý
(người bị quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức” [3, tr.1] .
Quản lý có bốn chức năng chính: chức năng kế hoạch hóa, chức năng tổ chức, chức năng
lãnh đạo, chức năng kiểm tra. Bốn chức năng trên tạo thành hệ thống quản lý thống nhất với một
trình tự nhất định. Ngoài bốn chức năng trên trong hệ thống quản lý, yếu tố thông tin có mặt ở tất
cả các giai đoạn với vai trò là điều kiện không thể thiếu với việc thực hiện các chức năng quản lý.

2.2. Quản lý giáo dục và các mô hình quản lý giáo dục
2.2.1. Quản lý giáo dục
Theo P.V Khudominxky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu
của hệ thống (từ Bộ GD &ĐT đến các trường học) nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ
nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sử dụng các quy luật về giáo dục, của sự phát triển cũng như các
quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của
trẻ em” [6, tr. 410].
6


2.2.2. Các mô hình quản lý giáo dục
Mô hình quản lý là một kiểu mô hình nhận thức, nó đại diện cho một thực thể phức tạp,
bao gồm chủ thể quản lý với những triết lý, phương thức tư duy trong quản lý và các đối tượng
quản lý và mối quan hệ giữa họ. Chính vì vậy, mô hình chỉ có thể chỉ ra một số hình tượng nhất
định của quá trình quản lý chứ không thể hiện những mặt vô hình như triết lý quản lý, phương
thức tư duy trong quản lý,v.v…)
Từ các tiếp cận có thể mô hình hóa trong quản lý, theo các Tác giả Đặng Quốc Bảo và
Trần Khánh Đức có 5 mô hình chủ yếu như sau:
a. Mô hình lý thuyết tổ chức
b. Mô hình định hướng mục tiêu
c. Mô hình quản lý khoa học
d. Mô hình quản lý nhân văn
e. Mô hình hệ thống mở
a. Mô hình lý thuyết tổ chức
Quản lý giáo dục nói chung và quản trị nhà trường nói riêng là quá trình điều hành một
cấu trúc tổng thể. Các thành tố (7S) trong quá trình quản lý giáo dục bao gồm: Đội ngũ (Staff),
Cơ cấu (Structure), hệ thống liên hệ (System), kỹ năng quản lý (Skill), phong cách quản lý
(Style), chiến lược hành động (Strategy) và các siêu ưu tiên (Superpriority). Trong đó các thành
tố trên được chia làm 3 nhóm:

Ba phạm trù tác động trực tiếp đến “Con người”
- Staff - Đội ngũ. Xây dựng đội ngũ là đảm bảo về các yếu tố: đủ số lượng, mạnh chất
lượng và đồng bộ cơ cấu (tỉ lệ nam nữ, tỉ lệ già trẻ,v.v…)
- Structure – Cấu trúc. Cấu trúc của một cơ sở giáo dục cần đảm bảo tính hợp lý, mềm
dẻo, linh hoạt nhưng cũng cần tuân theo những nguyên tắc đãđặt ra và cùng hướng tới mục đích
của tổ chức.
- System - Hệ thống. Xem xét một cơ sở giáo dục cầnđặt trong mối liên hệ bên trong và
bên ngoàiđể giữđược cân bằngđộng trong hệ thống.
Ba phạm trù tác động gián tiếp đến “Con người”
- Skill - Kỹ năng quản lý. Kỹ năng của người quản lý trong quá trình quản lý tácđộng rất
lớn tới cơ sở giáo dục. Đặc biệt là trong các khâu: lập kế hoạch, tổ chức, chỉđạo, kiểm tra.
- Style – Phong cách quản lý. Mỗi người quản lý có một phong cách quản lý khác nhau.
Điều này cũngít nhiều ảnh hưởng tới quá trình thực hiện mục tiêu của tổ chức.
- Strategy - Chiến lược hành động. Tùy vào mỗi giai đoạn, ở mỗi đơn vị lại có một chiến
lược hành động khác nhau để thúc đẩy sự phát triển của đơn vị mình
Phạm trù liên kết hai nhóm trên
- Superpriority – Siêu ưu tiên. Ở mỗi thờiđiểm, người quản lý sẽ xácđịnh mục tiêu nào
cầnđượcưu tiên để thực hiện; công việc nào cần đượcưu tiên để thực hiện.

7


Mô hình lý thuyết tổ chức có thể mô tả ở hình vẽ sau:
Trong đó:
- S1 (Staff)
- S2 (Structure)
- S3 (System)
- S4 (Skill)
- S5 (Style)
- S6 (Strategy)

- S7 (Superpriority).

b. Mô hình định hướng mục tiêu
Mô hình này xuất hiện vào 2 thập kỷ đầu của thể kỷ 20. Đây là mô hình quản lý có triết lý cơ
bản là hướng tới một kết quả đầu ra cao nhất và vai trò của người quản lý là quản lý toàn bộ công
việc dựa trên việc đo lường muc tiêu và dựa trên kế hoạch thực hiện mục tiêu.
Mô hình định hướng mục tiêu thích hợp cho các phân đoạn quản lý cấp cao và các công việc
khó kiểm soát quá trình thực hiện. Mô hình này cũng khuyến khích sáng tạo do tập trung vào
mục tiêu hơn là các biện pháp thực hiện. Tuy nhiên, hạn chế của nó là khó kiểm soát được chi phí
cho quá trình thực hiện do hànhvi của nhân viên không đồng nhất.
Mô hình định hướng mục tiêu được thể hiện rõ nhất qua sơ đồ: 4P
Trong đó:
P1: Product - sản phẩm đầu ra. Sản phẩm đầu ra đối với
một cơ sở giáo dục chính là học sinh, sinh viên tốt nghiệp
với những phẩm chất, năng lực xác định.
P2: Price – Chi phí sản xuất. Bao gồm tất cả các chi phí
hoạt động của cơ sở GD trong suốt quá trình đào tạo.
P3: Promotion: Các biện pháp kích cầu. Các biện pháp ở
đây là những chính sách, chế độ đãi ngộ với người học,
người dạy, CBQL trong quá trình đào tạo.
P4: Place – Nơi thuận lợi để quảng bá sản phẩm.

Nhìn vào hình vẽ trên ta có thể thấy, P1 - sản phẩm đầu ra là học sinh, sinh viên tốt nghiệp
được đặt vào vị trí trung tâm. Tất cả các hoạt động của nhà trường đều hướng tới mục tiêu,
hướng tới người học. Chất lượng của cả quá trình đào tạo được quyết định bởi chất lượng của sản
phẩm đầu ra.
c. Mô hình quản lý khoa học (quy trình - chức năng)
Mô hình quản lý khoa học là mô hình hướng tới sự ổn định và liên tục của các quy trình sản
xuất, tính tầng bậc trong cơ cấu tổ chức, tính bền vững của các quy tắc, truyền thống,v.v… Vai
trò của người quản lý là một chuyên gia kỹ thuật và một điều phối viên tin cậy. Mô hình này

thích hợp cho quản lý cấp trung và cấp thấp theo quy trình công nghệ chặt chẽ. Tuy nhiên, tính
chủ động trong mô hình này lại thấp do đã chuẩn hóa, chuyên môn hóa các hoạt động của quá
trình.
8


Mô hình này được thể hiện rõ nét nhất ở 2 cách tiếp cận: tiếp cận quá trình CIPO và tiếp cận
chức năng POLCI.
+ Tiếp cận quá trình CIPO
Trong đó:
I là Input (Đầu vào);
O là output (Đầu ra),
C là Context (môi trường, hoàn cảnh),
P là Process (quá trình).

Ở đây nhấn mạnh, hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục phải diễn ra theo một quá trình.
Người điều hành phải thấy được đặc trưng của các nhân tố Đầu vào (Input), đặc trưng của các
nhân tố Đầu ra (Output), xem xét đến sự chi phối của Hoàn cảnh và quá trình diễn ra hoạt động.
+ Tiếp cận chức năng POLCI
Trong đó:
- P là Planning (kế hoạch hóa)
- O làOrganizing (tổ chức)
- L là Leading (chỉ huy)
- C là Controling (Giám sát, kiểm tra)
- I là Information (Thông tin)

Trong quản lý giáo dục và quản lý nhà trường, tiếp cận chức năng-mục tiêu quản lý là một
hướng tiếp cận cơ bản để quản trị nhà trường đạt hiệu quả.
d. Mô hình quản lý nhân văn
Mô hình quản lý nhân văn nhấn mạnh tới nhân tố con người, những quan hệ không chính

thức và tác động của việc quản lý các mối quan hệ đó trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình
sản xuất. Những yếu tố quan trọng nhất cần tập trung thực hiện trong mô hình này là sự cam kết,
sự gắn kết trong một tập thể. Bầu không khí hướng tới các đội trong đó mọi quyết định đều có sự
tham gia của mọi người là mục tiêu tối cao của tổ chức. Vai trò của người quản lý trong mô hình
này là người cố vấn đồng cảm và hỗ trợ cho người lao động.
Bên cạnh đó, mô hình quản lý nhân văn đề cao các giá trị, niềm tin và hệ tư tưởng của người
lao động. Các chuẩn mực trở thành truyền thống được chia sẻ và lưu truyền trong từng nhóm và
được củng cố bằng các biểu tượng và nghi thức. Các giá trị, niềm tin sau khi được chia sẻ và lưu
truyền sẽ dần trở thành biểu tượng văn hóa chung của cơ sở giáo dục đó.
Tuy nhiên, mô hình này cũng có hạn chế là có nguy cơ áp đặt văn hóa người lãnh đạo lên các
thành viên khác để tạo ra độc tôn văn hóa. Mô hình này có thể quá máy móc nếu người lãnh đạo
tự xác định văn hóa của tổ chức. Trong khi thực tế, ở các Nhà trường có thể có các giá trị văn hóa
khác nhau để giúp cho đơn vị trở nên sống động mà không ảnh hưởng đến hoạt động chung.
Ngoài ra, khi tập trung quá và các giá trị niềm tin, đề cao các cá nhân, mô hình này có nguy cơ bỏ
9


qua các yếu tố khác. Mô hình quản lý nhân văn giúp cân bằng tính cứng nhắc của cấu trúc trong
các mô hình khác.
e. Mô hình hệ thống mở
Mô hình hệ thống mở xuất hiện do đòi hỏi của một môi trường cạnh tranh, đầy bất ổn. Tiêu
chí quan trọng để xuất hiện hiệu quả của một tổ chức là sự thích nghi và sự hỗ trợ từ môi trường
bên ngoài. Bầu không khí đổi mới, năng động với một tầm nhìn và các giá trị được chia sẻ trong
tổ chức là mục tiêu tối cao để phấn đấu vươn tới. Trong mô hình này, nhà quản lý được mong đợi
là nhà cải tiến sáng tạo và thương thuyết sắc sảo.
Mô hình hệ thống mở ngoài việc xem xét cấu trúc của tổ chức còn phải đặt nó trong các tác
động và môi trường xung quanh. Để giữ được cân bằng động của tổ chức, người quản lý cần phải
chú trọng tới việc phân tích các tác động (phân tích SWOT), biết được hoàn cảnh chủ quan được
thể hiện qua hai nhân tố: Điểm mạnh (Strong) và điểm yếu (Weak) và tình thế khách quan được
thể hiện qua hai nhân tố: Thuận lợi (Opportunity) và Khó khăn (Threat). Phân tích được những

yếu tố này sẽ giúp cho người quản lý nhà trường xác định được chiến lược hành động phù hợp.
Nếu xét về hình thức, 5 mô hình quản lý với các đặcđiểm nêu trên dường như khác nhau về
các phương diện và lĩnh vực. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một cơ sở giáo dục thường bao gồm
nhiều lĩnh vực, mỗi lĩnh vực lại cần đẩy mạnh một phương thức quản lý riêng. Chính vì vậy,
trong một tổ chức chúng ta thường thấy các mô hình quản lý này có mối quan hệ tương tác và
đan xen lẫn nhau.
3. Một số mô hình quản lý giáo dục theo tư duy hệ thống và ứng dụng vào đổi mới quản
lý giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29/TW-NQ
Quý 4 năm 2013, Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI họp Hội nghị bàn
về công tác giáo dục. Tại đây Hội nghĩ đã đưa ra: “Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện
Giáo dục và Đào tạo đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường, định hướng XHCN và Hội nhập quốc tế”. Nghị quyết này mang mã số 29/NQTW
được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký, ban hành ngày 04/11/2013 mở ra cục diện mới cho
giáo dục.
Trong Nghị quyết đã nêu ra bảy quan điểm chỉ đạo cho việc triển khai nội dung vào thực
tiễn, trong đó có nôi dung về xác định tính chất mới của hệ thống giáo dục và yêu cầu đặt ra cho
sự vận hành hệ thống này là: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông
giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa
giáo dục và đào tạo”. Tuy nhiên, trong những bước đi ban đầu, khi vận dụng ý tưởng của Nghị
quyết vào thực tế thì có nhiều thách thức và khó khăn.
Cuối năm 2015, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đang tiếp thêm năng lượng cho việc
triển khai Đổi mới tư duy giáo dục đi vào chiều rộng và chiều sâu. Nói về bối cảnh hiện nay của
đất nước khi thực hiện, Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Nguyên Bộ trưởng Bộ
giáo dục, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam đã có bài báo gây ấn tượng mạnh trong
công luận: “Cần có một công cuộc Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện” (Bản tin số 44 tháng 02/2016
của Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam). Trong đó có đoạn: “Nhân dân ta đã từng làm nên
những thắng lợi kỳ diệu, những chiến tích lịch sử oanh liệt cho dân tộc và cho cả thế giới. Sức
10



mạnh của chúng ta đã phát huy gấp bội khi biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
khi liên kết dân tộc với quốc tế. Tại sao lúc này chúng ta lại không thể phát huy sức mạnh đó ở
mức độ cao nhất có thể? Có phải cản trở chính là không thay đổi tư duy kịp thời?”.
Cùng với quan điểm trên, rất nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhận định cần coi việc thay đổi tư
duy giáo dục là điểm xuất phát của mọi tư duy phát triển trong bối cảnh hiện nay. Và trong đó,
việc nhìn nhận hệ thống giáo dục, các mô hình quản lý giáo dục theo tư duy hệ thống là một yếu
tố quan trọng trong quá trình thay đổi tư duy giáo dục.
Các mô hình quản lý giáo dục hiện nay đều vận dụng tư duy hệ thống nhưng theo các cách
tiếp cận khác nhau:
Mô hình quản lý khoa học đặt trọng tâm quản lý vào quy trình, chuẩn mực trong quản lý
khoa học các hoạt động, quá trình giáo dục qua phân tích các quá trình tác nghiệp và các khâu
trong quá trình tác nghiệp.
Mô hình nhân văn đặt trong tâp quản lý vào yếu tố con người - nhân tố trung tâm của mọi
hoạt động giáo dục (CBQL, GV. SV.HS).
Mô hình lý thuyết tổ chức đặt trọng tậm vào các loại hình đặc trưng của tổ chức với các thành
tố căn bản của một tổ chức (loại hình trường, cơ sở GD&ĐT).
Mô hình định hướng mục tiêu đạt trọng tâm quản lý vào mục tiêu mong muốn và phát triển
của một tổ chức (nhà trường) với các mục tiêu chiến lược trong từng giai đoạn.
Mô hình hệ thống mở đặt trọng tâm quản lý vào việc kết nối, mở rộng quan hệ với các nhân
tố, thành tố bên ngoài nhằm tranh thủ thời cơ, huy động sức mạnh liên kết ngoài để tạo động lực
phát triển tổ chức nhà trường trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế.
Mô hình
QLKH

Mô hình hệ
thống mở

Tư duy
hệ
thống


Mô hình
Nhân văn

Mô hình

Mô hình

lý thuyết tổ
chức

định hướng
mục tiêu

Tuy nhiên với mỗi mô hình quản lý lại có một cách vận dụng tư duy hệ thống khác nhau, cụ
thể như sau:

11


Tính ì

Tính toàn
thể

Mô hình lý thuyết tổ
chức

Mô hình định hướng
mục tiêu


Mô hình Quản lý
khoa học

Mô hình nhân văn

Mô hình hệ thống
mở

Tính ì lớn do tác động
của phong cách và kỹ
năng của người quản
lý, khi thay đổi người
quản lý sẽ dẫn đến
tính ì về tâm lý, về hệ
cần cải tiến và hệ thực
tế

Hạn chế được tính ì
do tập trung huy động
mọi nguồn lực, mọi
nỗ lực của tổ chức
vào mục tiêu của tổ
chức. Mọi thành tố
đều tập trung theo
mục tiêu

Hạn chế được tính ì
do được quy trình
hóa, các chức năng

quản lý được làm rõ.
Tính logic của hệ
thống được thể hiện
rõ rang (bắt buộc tuân
thủ hay thay đổi)

Tính ì cao do tác
động của các giá trị
niềm tin lớn, vững
chắc. Tuy nhiên nếu
làm công tác vận
động, thuyết phục tốt
thì nhà quản lý có thể
tạo được sự thay đổi
lớn

Hạn chế được tính ì
của hệ thống do tính
linh hoạt, dễ thích
nghi của mô hình
luôn tiếp thu các mới
từ bên ngoài (kể cả
chịu sức ép thay đổi
từ bên ngoài)

Đã nêu rõ các thành
tố, các yếu tố môi
trường của hệ thống.
Điều này giúp người
quản lý khai thác tính

trồi của hệ thống

Chưa xác định hết các
thành tố của quá
trình: môi trường, các
tác động qua lại giữa
các thành tố. Tuy
nhiên qua quá trình
huy động mọi nguồn
lực hướng đến đạt
mục tiêu, hiệu quả thì
có kéo theo chuyển

Đã xác định rõ các
thành tố, các yếu tố
môi trường bên trong
của hệ thống. Phát
huy được tính trồi của
hệ thống. Tuy nhiên,
do sự cứng nhắc của
các quy trình quản lý
nênđôi khi còn phát
sinh các vấn đề do

Chưa chú trọng đến
các yếu tố khác trong
quá trình quản lý. Tuy
nhiên, mô hình nhân
văn cũng có khả năng
tạo môi trường tổng

thể thuận lợi cho các
hoạt động tác nghiệp
của con người

Có cái nhìn tổng thể
qua việc phân tích các
yếu tố tác động từ bên
ngoài đối với từng bộ
phận, khâu hoặc toàn
thể hệ thống

động của toàn hệ các yếu tố môi trường
thống
bên ngoài mà người
quản lý không điều
khiển được

12


Tính có mục
đích

Tính đa
chiều

Làm rõ vai trò, sứ
mạng, mục tiêu chiến
lược của tổ chức
trong việc định hướng

phát triển của đơn vị

Chưa xem xét tính đa
chiều, những tác động
ngược từ môi trường
ngoài, các thành tố

Mục tiêu được xác
định rõ ràng. Tất cả
các bộ phận đều tập
trung hướng theo mục
tiêu của tổ chức

Chưa tính được tác
động đa chiều của hệ
thống. Những tác
động ngược từ môi

Mục tiêu của tổ chức
chưa được thể hiện rõ
nét trong mô hình
quản lý này do tập
trung vào quá trình ở
các khâu, các công
đoạn cụ thể nhưng có

Mục tiêu của tổ chức
được xác định, nhưng
nếu người quản lý
không quản lý chặt

chẽ sẽ dẫn đến tình
huống những giá trị
niềm tin quá lớn lấn

hiệu quả cao

át hoặc làm tổ chức đi
lệch với mục tiêu đã
đề ra

Chưa xem xét tính đa
chiều, những tác động
ngược vào hệ thống
do chú trọng tính hợp

Không có tính đa
chiều. Đôi khi còn
mang tính áp đặt của
người quản lý hoặc

Mục tiêu của tổ chức
được xác định rõ ràng
cả về đối nội và đối
ngoại, có khả năng
thích nghi, nắm thời
cơ và hội nhập nhanh

Tính đa chiều được
thể hiện rõ nét cả bên
trong và bên ngoài tổ

chức. Có khả năng

bên trong vào cấu trúc trường ngoài, các lý, hiệu quả của từng các giá trị niềm tin cạnh tranh cao
hệ thống
thành tố bên trong công việc, từng khâu
với cấp dưới. Không
vào cấu trúc hệ thống
phát huy được tính
sáng tạo của các cá
nhân

Từ bảng phân tích trên, chúng ta có thể nhận ra những điểm hạn chế của các mô hình theo tư duy hệ thống. Việc xem xét mối quan
hệ và tác động qua lại giữa tư duy hệ thống và các mô hình quản lý giáo dục này sẽ giúp người quản lý có một cái nhìn tổng thể, khách
quan về quá trình quản lý. Từ đó có những giải pháp phù hợp trong ứng dụng các mô hình quản lý giáo dục vào thực tiễn theo tiếp cận lý
thuyết/tư duy hệ thống.

13


Kết luận
Nghiên cứu lý thuyết/tư duy hệ thống để giải các bài toán trong giáo dục chính là hệ thống
các phương pháp giải quyết vấn đề và lý lẽ hóa các quyết định khi thiết kế, xây dựng và điều khiển
hệ thống giáo dục. Với bất kỳ một vấn đề phức tạp nào trong giáo dục chúng ta đều có thể xem xét
như một đối tượng toàn thể: hệ thống của tất cả các bộ phận tương tác lẫn nhau. Khi đã xác định
được các thành tố, các mối liên kết, môi trường,v.v… tư duy hệ thống sẽ giúp người quản lý nhận
dạng các đặc điểm, tính chất của hệ thống, từ đó có những lời giải phù hợp với từng loại mô hình,
lựa chọn cách điều khiển, tác động thích hợp tới các thành tố, các mối liên kết hay các tình huống
xảy ra.
Bên cạnh đó, vận dụng tư duy hệ thống trong giáo dục còn giúp người quản lý khai thác
được hiệu quả nhất tính trồi của hệ thống, dự báo các hệ thống tương lai với điều kiện chi phí và

nguồn lực thấp nhất có thể.
Lý thuyết hệ thống và vận dụng trong các mô hình quản lý giáo dục là một vấn đề lớn và
phức tạp nên khó mô tả, phân tích một cách chi tiết, đầy đủ trong khuôn khổ một bài báo cáo khoa
học. Tuy nhiên, những vấn đề cốt lõi, căn bản đã được trình bày bước đầu tương đối có hệ thống .
Điều cần chú ý là, không có mô hình, một bài toán mẫu nào cho các vấn đề thực tế. Thông qua
những nội dung trên, người quản lý cần phải tùy theo đặc điểm cụ thể của mô hình quản lý của đơn
vị mình để từ đó phân tích đặc điểm cụ thể của hệ nghiên cứu, tùy theo mục đích, tính chất của
nhiệm vụ nghiên cứu mà lựa chọn hoặc vận dung linh hoạt chúng với nhau để đạt được kết quả
mong muốn.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo, Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường. Tập bài giảng cho lớp
Cao học Quản lý giáo dục, Khoa Sư phạm, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2. Đặng Quốc Bảo (2014), “Tiếp cận quản lý hiện đại vận dụng vào quản lý nhà
trường”, Hội thảo khoa học Quốc gia về “Quản lý cơ sở giáo dục trong bối cảnh
đổi mới căn bản, toàn diện GD &ĐT”, Đại học Vinh.
3. Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Những cơ sở khoa học về quản lý giáo
dục, Tập bài giảng cho cao học chuyên ngành quản lý giáo dục, Hà Nội,
1994/2004.
4. Phan Dũng (2010), Tư duy Logic, biện chứng và hệ thống. Nhà xuất bản trẻ.
5. Vũ Cao Đàm (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nxb khoa học kỹ
thuật, Hà Nội.
6. Trần Khánh Đức (2014), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI,
Nxb Giáo dục Việt Nam.
7. Trần Kiểm (2006), Tiếp cận hiện đại trong quản lý. Nxb Đại học Sư phạm Hà
Nội.
8. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012), Quản lý Giáo dục lý luận và thực tiễn, Đại học Quốc

Gia Hà Nội.
9. Đỗ Hoàng Toàn (1995), Lý thuyết quản lý. Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà
Nội.
10. Từ điển giáo dục học (2007), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo
dục và Đào tạo đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường, định hướng XHCN và Hội nhập quốc tế.

15



×