Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh tiểu học thích đi học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 20 trang )

BÀI DỰ THI CHƯƠNG TRÌNH
“TRI THỨC TRẺ VÌ GIÁO DỤC”
TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP
HỌC SINH TIỂU HỌC THÍCH ĐI HỌC
Thông tin tác giả:
Họ và tên: Ngô Thành Nam
Ngày sinh: 20/06/1984
Cơ quan công tác: Trường TH-THCS-THPT Việt Úc
Địa chỉ: Số 23 – Trần Cao Vân – Phường Đa Kao
– Quận 1 – TP. Hồ Chí Minh
ĐTDĐ: 0908 961 683
Email:

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2016
1


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu thế phát triển giáo dục chung của thế giới, UNESCO đề ra bốn trụ cột
“Học để biết, học để làm, học cùng chung sống, học để tự khẳng định mình”. Bác Hồ
kính yêu thuở sinh thời cũng đã nhiều lần căn dặn các thầy cô: “Trong lúc học cần làm
cho các cháu vui, trong lúc vui cũng cần làm cho các cháu học. Ở nhà, ở trường học, ở
xã hội, các cháu đều vui, đều học. Khi rời khỏi trường mầm non, hành trang các em
mang theo lên bậc tiểu học là những bài hát, những điệu múa, là những trò chơi… là
tiếng cười rộn vang với bạn bè, với các cô giáo mầm non dịu hiền như cô Tấm. Lên lớp
1, môi trường thật xa lạ, bạn bè quen thuộc nhìn chẳng thấy đâu, các cô và nhất là các
thầy lại càng thấy xa cách hơn, chưa kể đến phải ngồi suốt mấy giờ liền, nghe thầy cô
dạy, rồi đọc, viết, làm toán,… sao mà khó khăn, mệt mỏi quá! Lên lớp 2, 3, 4, 5 thì bài
học càng nhiều, càng khó, thời gian vui chơi càng ít dần đi… đã dẫn đến việc trẻ lười


học, chán học là điều không tránh khỏi.
Ngoài ra, trong nhiều thập kỷ qua, phần lớn các trường tiểu học ở nước ta vẫn tồn
tại phương pháp giảng dạy và giáo dục mang tính áp đặt, gò bó, chưa quan tâm lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng của học sinh. Việc đánh giá, sửa sai học sinh còn có những
biểu hiện khắt khe, thiếu dân chủ. Từ đó làm cho học sinh còn những khiếm khuyết về
nhân cách: rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào bản thân, không dám đề đạt ý kiến, không
mạnh dạn thể hiện khả năng, …Đồng thời cũng hạn chế niềm ham thích, động lực
mong muốn được học, được đi học của trẻ.
Tình hình trên đòi hỏi nhà trường và người giáo viên phải làm thế nào để trẻ thích đi
học, để trẻ yêu trường, mến lớp như ngôi nhà thứ hai của mình? Đó chính là công việc
không hề đơn giản mà nhà trường và thầy cô tiểu học phải thực hiện. Là một giáo viên
đang đứng lớp, tôi luôn trăn trở, băn khoăn về vấn đề trên. Vì thế, tôi quyết định chọn
đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh tiểu học thích đi học” để nghiên cứu.

2


II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về nhu cầu đi học của học sinh
để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao sự yêu thích đến trường của các
em.
2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu lý luận về thực trạng cũng như biện pháp mà một số giáo viên
đã thực hiện trong những năm vừa qua.
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao sở
thích đi học của học sinh.
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế.
III. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Khách thể.

- Thực trạng và giải pháp cho việc nâng cao sở thích đi học và được học của
học sinh.
2. Đối tượng.
- Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
- Do tuổi đời, tuổi nghề còn ít và thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ vận
dụng ở lớp 5.1 Trường TH Quốc tế Việt Úc - năm học 2015-2016.
4. Giả thuyết khoa học.
- Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục toàn diện trong trường tiểu học.

3


IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Thu thập những thông tin lý luận về đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh, những biện pháp kích thích nhu cầu đi học của học sinh trên các
tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.
- Phương pháp điều tra:
+ Khảo sát nhu cầu đi học cũng như những nguyện vọng của trẻ khi đến
trường.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên khác về vấn đề này
trong trường mình công tác
- Phương pháp thử nghiệm:

+ Thử áp dụng các giải pháp vào thực tế ở lớp 5.1 Trường Tiểu học
Quốc tế Việt Úc năm học 2015-2016.
6. Thời gian thực hiện.
-

Bắt đầu: 15/ 08 / 2015

-

Kết thúc: 15 / 05 / 2016

4


V. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Đặc điểm về mặt cơ thể của học sinh tiểu học
- Hệ xương còn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay
đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà
trong các hoạt động vui chơi của các em, các nhà giáo dục cần phải chú ý quan tâm,
hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
- Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận
động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò
chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ.
- Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các
em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do
đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí
tuệ,...Dựa vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các câu hỏi
nhằm phát triển tư duy của các em.
2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống
2.1 Hoạt động của học sinh tiểu học

- Nếu như ở bậc mầm non, hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi
tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui
chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em
còn diễn ra các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang
các trò chơi vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia
đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao
động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...
5


+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường,
của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,,...
2.2 Những thay đổi kèm theo:
- Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham
gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo
đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,,...các em phải tham gia lao động
sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
- Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay
đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức,
thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt.
- Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính
tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa
nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
3. Sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều
khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý
có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng
trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu

dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung
lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của
mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí
trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát
dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã
định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn
thành công việc trong khoảng thời gian quy định.

6


Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài
tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động
theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là
vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.
4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với
các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ
còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà
cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với
tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.)
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn
luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu
như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời
cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của
trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục
sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực

quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em
thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể,
các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,...

7


VI. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Những nguyên nhân khiến trẻ không thích đi học
- Khó thích ứng với những yêu cầu của trường học: Đến trường trẻ phải ngồi hàng
giờ trong lớp, không được nói chuyện riêng, tuân thủ theo những quy định trong giờ
học, phải chú ý xem thầy cô dạy gì, phải làm theo đúng lời thầy cô yêu cầu... Những
yêu cầu đó không phải trẻ nào cũng thích ứng được và có thể sinh ra những biểu hiện
chán nản, thờ ơ không muốn đi học, lẩn tránh việc học, việc làm bài tập về nhà...
- Cha mẹ kỳ vọng quá cao ở trẻ: Việc cha mẹ đưa ra nhiều yêu cầu về chuyện học
hành, kỳ vọng quá cao ở trẻ khiến trẻ vì học quá vất vả mà dần trở nên không thích đi
học.
- Sự cô đơn: Một trong những lo lắng làm trẻ không muốn đến trường là sợ sự cô
đơn bởi có thể ở đó trẻ không có nhiều bạn hoặc khó khăn trong việc thiết lập mối
quan hệ với người khác.
- Thất bại ở trường học: Nhiều trẻ gặp khó khăn trong việc tiếp thu những kiến thức
ở trường, điểm kém, bị trách phạt... khiến cho trẻ cảm thấy chán nản, thất vọng về bản
thân cũng là một trong những lý khiến trẻ không thích đi học.
2. Thực trạng
Đa số học sinh ở lớp 5.1 đều là con gia đình khá giả nên các em được trang bị đầy
đủ các dụng cụ hỗ trợ việc học tập. Tuy nhiên, một số em vẫn chưa được sự quan tâm
đúng mức về tâm sinh lý từ gia đình dẫn đến phụ huynh chưa hiểu rõ được nhu cầu, sở
thích của con em mình.
Tôi đã có cuộc khảo sát tại lớp 5.1 Trường Tiểu học Quốc tế Việt Úc vào đầu năm
học 2015 – 2016 (Tổng số : 20 học sinh) về nhu cầu đi học và được học của học sinh:


8


Số lượng

Rất thích

Thích

Bình thường Không thích

5

10

3

2

25%

50%

15%

10%

học sinh
Tỉ lệ


VII. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khảo sát thực trạng của lớp phụ trách
Giáo viên tổ chức phát phiếu khảo sát để tìm hiểu về nhu cầu nhu cầu, sở thích
được đi học của trẻ bằng bộ câu hỏi vào đầu năm học.
Họ và tên:…………………………
Lớp: ………………………………
PHIẾU KHẢO SÁT
 Em có thích đi học không?



Rất thích



Thích



Bình thường



Không thích

 Điều gì làm em thích khi đến trường?
………………………………………………………………………
 Điều gì làm em không thích khi đến trường?
………………………………………………………………………

 Em mơ ước trường lớp, thầy (cô), bạn bè của em sẽ như thế nào?
………………………………………………………………………

Việc khảo sát này giúp người giáo viên hiểu rõ được nhu cầu đến trường của học
sinh lớp mình phụ trách. Kết quả khảo sát là căn cứ giúp nhà trường, giáo viên đề ra kế
hoạch xây dựng môi trường học tập thu hút các em.

9


2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN
2.1 Nâng cao công tác chủ nhiệm:
Tôi xác định đây là một công tác vô cùng quan trọng của người giáo viên để kích
thích nhu cầu và sở thích học tập của học sinh. Để làm tốt công tác này, để lớp chủ
nhiệm của mình thực sự thân thiện, học sinh của mình thực sự yêu trường, yêu lớp, bên
cạnh việc nắm chắc vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm, tôi đã
có các định hướng cụ thể cho công việc của mình. Đặc biệt, để các em xích lại gần
nhau hơn, để xây dựng được một tập thể lớp học đoàn kết, thân thiện, tôi đặc biệt chú
trọng đến các công việc sau:
Một là: Phát huy quyền dân chủ của học sinh trong các hoạt động học tập và rèn luyện.
Tôi luôn tỏ ra thân thiện để hỗ trợ, định hướng giúp học sinh bầu chọn được Ban cán
sự lớp. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để mỗi học sinh đều thấy mình
“có tiếng nói” khi ở trường. Việc thay đổi luân phiên Ban cán sự theo từng tháng là
việc làm cần thiết để từng em đều có cơ hội thể hiện bản thân mình.
Hai là: Phân chia các tổ, nhóm học tập trên lớp. Tôi nắm chắc sở trường, sở đoản của
từng học sinh để làm cơ sở cho việc chia lớp thành các tổ, nhóm học tập trên lớp. Chú
ý chia tổ nhóm học tập gồm đầy đủ các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu,
kém... học sinh ngoan và học sinh cần nỗ lực... để các em giúp nhau học tập, rèn luyện.
Tôi quy định cụ thể thời gian học sinh học tập và sinh hoạt tổ - nhóm và kiểm tra việc
học tập, sinh hoạt của các tổ nhóm này mỗi tuần một lần bằng các hình thức khác

nhau... Đồng thời, ở trên lớp, tôi luôn duy trì tốt và có chất lượng tất cả các buổi truy
bài đầu giờ của học sinh.
Bên cạnh hoạt động học tập theo tổ - nhóm, tôi cũng rất chú trọng phong trào “đôi
bạn cùng tiến” – nhằm hỗ trợ thêm cho các em học sinh có lực học còn yếu, giúp đỡ
giáo dục mọi mặt cho các em học chưa ngoan tiến bộ hơn. Từ đó học sinh không cảm

10


thấy mình bị lẻ loi nếu có thất bại trong học tập.

Nội quy lớp học do các em tự thảo luận lập nên
Phương châm giáo dục của tôi là “lạt mềm buộc chặt”, GVCN phải thực sự là người
thân thiện – nhất là đối với những học sinh cần nỗ lực. Xem các em như chính con em
mình để yêu thương và nhẹ nhàng gần gũi, động viên, chia sẻ với các em mọi vui buồn
trong cuộc sống, khuyến khích các em nói ra những gì mình nghĩ để tất cả các giờ dạy
học đều thoải mái, vui tươi và sôi nổi hơn... từ đó sẽ giáo dục tốt về đạo đức, tư tưởng,
lối sống, ý thức rèn luyện mọi mặt cho các em.

11


2.2 Nâng cao sự hiểu biết, cập nhật thông tin kịp thời cho bản thân:
Kiến thức là vô tận, tôi luôn phải tìm hiểu nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin để
bài giảng của mình luôn mới, hay, gắn với thực tế, không cũ kĩ, thậm chí đôi khi lạc
hậu như trong sách giáo khoa chỉ làm các em nhàm chán. Tích cực tham gia nghiên
cứu, mạnh dạn trình bày và áp dụng các đề tài khoa học, các sáng kiến kinh nghiệm,
các ý kiến đề xuất mà tôi cảm thấy có hiệu quả, có tính khả thi về đổi mới phương
pháp dạy học.. cũng nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học cũng như để lôi
cuốn, tạo hứng thú và đưa các em trở về với niềm đam mê thích thú khi học tập. Song

song đó, tôi còn phải đầu tư cho tiết dạy. Tiết học ở tiểu học càng thoải mái, càng vui
thì các em càng dễ tiếp thu. Tôi luôn mạnh dạn sáng tạo các trò chơi, các hoạt động sao
cho đạt mục tiêu bài dạy, không bám lấy nội dung trong sách giáo khoa, bám các bước
lên lớp trong sách giáo viên. Sử dụng các phương pháp giảng dạy sao cho kích thích
được tư duy học sinh, tạo cho học sinh thích được khám phá, tìm tòi…
Ví dụ: Tôi đã áp dụng các trò chơi vào môn Toán để giờ học thêm sinh động, không
nhàm chán.
Để củng cố nội dung kiến thức bài : Diện tích hình thang (Trang 93)
Tôi nêu câu đố: “Diện tích của nó, em thì đọc thơ
Có bạn cứ tiếc ngẩn ngơ
Thì ra mới biết lơ mơ tính nhầm

3,7m
4,34m
6,3m

Số đo rõ rệt trong hình
Em hãy giúp bạn thử tìm xem sao?”
Hay một số câu đố: Củng cố về chu vi, diện tích các hình sau:
Điền tiếp vào các vần thơ sau:
Diện tích hình chữ nhật là gì?
Lấy dài ………………….. tức thì có ngay
12


Chu vi chữ nhật dễ thay
Lấy …………….. nhân 2 là thành
Thế còn diện tích hình tròn
Tích …...…… bán kính nhân liền số ……
Hay

Diện tích tam giác dễ thôi
Đường cao …………….. đáy chia dôi là thành
Chu vi tam giác rõ ràng
Lấy ……… ba cạnh là thành chu vi.

Giờ học Tập làm văn dưới hình thức sắm vai gây hứng thú cho học sinh
- Tôi thường xuyên tổ chức hình thức dạy học theo dự án nhằm kích thích sự yêu
thích học tập của các em, tạo cho các em cơ hội trải nghiệm, hứng thú học tập:
Một dự án mà các em đã thực hiện: />- Các giờ học luôn được tôi tổ chức nhẹ nhàng, giúp các em luôn là người chủ
động học tập, không khí chia sẻ kiến thức cho các em cảm giác thân thiện:
Một số hình ảnh học tập của các em: />
13


2.3 Biện pháp khác: Phối hợp với Ban giám hiệu xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực
Trường học được xem là thân thiện có nghĩa là ở đó phải kích thích được niềm yêu
thích của các em với tri thức, đánh thức những khả năng tiềm tàng trong các em. Muốn
làm được điều này, tôi không là cây cổ thụ toả bóng râm che mát cho các em mà là
người hướng đạo đầy bản lĩnh cùng các em làm khách bộ hành trên con đường khám
phá tri thức, làm cho các em thấy trường học chính là “ ngôi nhà thứ hai” của mình.
Tôi đã thực hiện một số biện pháp cụ thể như sau:
Trang trí lớp học gần gũi với sở thích của các em:
+ Bảng lớp được trang trí đẹp mắt, phù hợp với lứa tuổi, với các chuyên mục
dành cho học sinh như sau :
Bác sĩ ơi! – Địa chỉ đỏ - Ca dao tục ngữ Việt Nam – Đố bạn – Em yêu khoa học
– Em làm cảnh sát giao thông – Bạn có biết? – Em xử lí thế nào? – Người tốt việc tốt –
Ai tài thế? (trưng bày các bài văn hay, chữ viết đẹp, tranh vẽ đẹp, sản phẩm thủ công
của học sinh).


Bảng thông tin học đường
Thông qua bảng tin này, học sinh được giới thiệu gương người tốt-việc tốt, được
xem những bài văn hay, chữ viết đẹp tiêu biểu của các bạn cùng lớp, được tham gia
14


giải đáp tình huống ứng xử hàng ngày, được tuyên truyền kiến thức về lịch sử, về an
toàn giao thông, về chăm sóc sức khỏe ban đầu…

Góc Vườn văn thơ
+ Hộp thư vui: nơi để các em chia sẻ buồn vui với các bạn, thầy cô…

Hộp thư vui

15


+ Trang trí lớp theo từng dịp trong năm học: ngày 20/11, Tết Trung Thu, Lễ hội
Hallowen,…

Trang trí lớp chủ đề Halloween
+ Xây dựng thư viện mini tại lớp: nơi các em chia sẻ những quyển sách hay của
mình với bạn bè,,..
+ Quản lí lớp học với sự tham gia của các em giúp em các em có tinh thấn phấn
đấu học tập, tạo động lực, niềm vui khi các em đến trường:

Quản lí lớp học bằng phần mềm ClassDojo rất thân thiện

16



-

Phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để

giáo dục toàn diện cho học sinh:
+ Tổ chức cuộc thi “Đường lên đỉnh Phanxipăng”. Ban tổ chức đã dùng Power
point và áp dụng hình thức gameshow để giúp cuộc thi thêm hào hứng, hấp dẫn. Đây là
biện pháp giúp học sinh cảm thấy hứng thú, nhẹ nhàng và hiệu quả trong quá trình ôn
tập.
+ Cuộc thi giải Lê Quý Đôn trên báo Nhi Đồng: Đây là một sân chơi lành mạnh
giúp các em ôn tập kiến thức bộ môn một cách hứng thú, tránh xa những trò chơi vô
bổ.
+ Tạo cho không khí “Học mà vui, vui mà học” với những tiết học Xanh ở Thảo
cầm viên, Hành trình đến với bảo tàng,… để các em có thể hoà mình vào thiên nhiên
hoa lá, thâm nhập vào cuộc sống muôn màu muôn vẻ, bổ sung kiến thức sinh động bên
cạnh sách vở, lý thuyết.
+ Tổ chức những chuyến dã ngoại đến Đầm Sen, Suối Tiên để tinh thần sảng
khoái, góp phần tiếp thu tốt cho bài học trên lớp.Những chuyến về nguồn: Địa đạo Củ
Chi,… Mỗi chuyến đi về nguồn như thế cũng chính là dịp giúp mỗi học sinh ghi khắc
trong tim lòng biết ơn những cống hiến hy sinh của ông cha để chúng ta có được cuộc
sống độc lập tự do như ngày hôm nay.
+ Tổ chức Câu lạc bộ Tiếng Anh dưới hình thức gameshow.
+ Tổ chức các buổi học: Kỹ năng sống, giáo dục giới tính cho học sinh,…nhằm
cung cấp những kiến thức cần thiết nhất để các em bước vào đời một cách tự tin.
---Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để nắm bắt tâm lý của học sinh, tìm hiểu nguyên
nhân, giúp trẻ loại bỏ những áp lực và thấy được những niềm vui khi được đến trường,
không để tâm trạng chán học ở học sinh diễn ra trong thời gian dài.

17



VIII. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau thời gian áp dụng những biện pháp trên, tôi tiếp tục thực hiện khảo sát ở 20
học sinh của lớp 5.6 vào cuối năm học 2010 - 2011. Kết quả thu được như sau:
Rất thích
Số

lượng 13

Thích

Bình thường

Không thích

6

1

0

30%

5%

0%

học sinh
Tỉ lệ


65%

So với đầu năm:
Số lượng

Rất thích

Thích

Bình thường Không thích

5

10

3

2

25%

50%

15%

10%

học sinh
Tỉ lệ


-

Hầu hết các em đều tỏ ra vui vẻ, hứng thú, yêu trường mến lớp khi được học ở

trường. Đồng thời, bản thân giáo viên cũng nhận được những thông tin tốt từ phụ
huynh về hứng thú đi học của các em học sinh.

18


IX. KẾT LUẬN
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong thời gian qua và đạt được một
số thành công nhất định. Tôi thiết nghĩ, để làm cho học sinh thích học là điều không
dễ. Trong quá trình thực hiện tôi đã gặp phải một số khó khăn như: mất thời gian để
theo dõi từng em trong lớp, mất nhiều công sức để chuẩn bị cho các hoạt động ngoài
lớp học,…Tuy nhiên, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”- nếu thầy cô có tấm lòng yêu
thương học sinh, có lòng tận tụy với nghề thì không phải chỉ bằng tài năng mà bằng
chính trái tim và khối óc, giáo viên sẽ tự trang bị cho mình những điều cần thiết, để
bằng mọi cách làm cho học sinh thích đi học như chủ đề năm học của bậc tiểu học
TP.HCM đã nêu “Giáo dục tiểu học là niềm tin của gia đình và xã hội”, “Trẻ em thích
đi học, thích học để mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
TP HCM, ngày 20 tháng 9 năm 2016
Người viết

Ngô Thành Nam

19



XI. MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
III.

KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

IV.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

V.

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Đặc điểm về mặt cơ thể của học sinh tiểu học
2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống
2.1 Hoạt động của học sinh tiểu học
2.2 Những thay đổi kèm theo
3. Sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học

VI. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Những nguyên nhân khiến trẻ không thích đi học
2. Thực trạng
VII. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khảo sát thực trạng của lớp phụ trách
2. Một số biện pháp đã thực hiện
2.1 Nâng cao công tác Chủ nhiệm – Giáo dục đạo đức cho học sinh
2.2 Nâng cao sự hiểu biết, cập nhật phương pháp giảng dạy mới
``````````````` 2.3 Biện pháp khác

VII. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
IX. KẾT LUẬN

20



×