Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch, đáp ứng yêu cầu về trình độ ngoại ngữ của khóa học thực hành nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại khoa du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP VIỆN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC TỰ HỌC
TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH HƯỚNG DẪN DU LỊCH,
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU VỀ TRÌNH ĐỘ NGOẠI NGỮ CỦA
KHÓA HỌC THỰC HÀNH NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU
LỊCH TẠI KHOA DU LỊCH, VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Mã số: V2015-10

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Thảo

Hà Nội, 11/2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP VIỆN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC TỰ HỌC
TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH HƯỚNG DẪN DU LỊCH,
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU VỀ TRÌNH ĐỘ NGOẠI NGỮ CỦA
KHÓA HỌC THỰC HÀNH NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU
LỊCH TẠI KHOA DU LỊCH, VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI


Mã số: V2015-10

Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài

Chủ nhiệm đề tài

(ký, họ tên, đóng dấu)

(ký, họ tên)

Nguyễn Thị Thảo

Hà Nội, 11/2015


Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Viện: V2015-10

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC TỰ HỌC
TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH HƯỚNG DẪN DU LỊCH,
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU VỀ TRÌNH ĐỘ NGOẠI NGỮ CỦA
KHÓA HỌC THỰC HÀNH NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU
LỊCH TẠI KHOA DU LỊCH, VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Thời gian: Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2015
Tổng kinh phí: 40 triệu đồng
Đơn vị thực hiện: Khoa Du lịch – Viện Đại học Mở Hà Nội
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Thảo

Thành viên tham gia nghiên cứu đề tài:
ThS. Phạm Diệu Ly

ThS. Ngô Thanh Hoa
ThS. Trần Thu Phương
ThS. Lưu Thùy Dương


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................ i
DANH MỤC BẢNG – BIỂU ................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... v
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
NỘI DUNG ............................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................. 5
1.1 Tổng quan về tự học ....................................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm tự học ...................................................................................... 5
1.1.2 Bản chất của việc tự học .......................................................................... 6
1.1.3 Vai trò của tự học trong đào tạo bậc đại học ............................................. 7
1.1.4 Vai trò của tự học trong đào tạo tín chỉ ở bậc đại học ............................... 8
1.1.5 Các nguyên tắc bảo đảm việc tự học ở bậc đại học ................................... 9
1.1.6 Các hình thức tự học .............................................................................. 11
1.1.7 Các kỹ năng tự học................................................................................. 12
1.1.8 Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tự học........................................... 14
1.1.9 Đặc điểm tự học của sinh viên đại học ở Việt Nam ................................ 16
1.2. Tổng quan về tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch........................... 18
1.2.1 Khái niệm tiếng Anh chuyên ngành ....................................................... 18
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của dạy và học tiếng Anh chuyên ngành................... 19
1.2.3 Việc dạy và học tiếng Anh chuyên ngành............................................... 20
1.2.4 Tiếng Anh chuyên ngành Hướng dẫn du lịch ......................................... 21
1.3. Tổng quan về phân tích nhu cầu trong thiết kế nội dung tự học Tiếng Anh .. 22
1.3.1 Khái niệm .............................................................................................. 22
1.3.2 Cách tiếp cận phân tích nhu cầu trong thiết kế nội dung tự học .............. 23

1.3.3 Quy trình phân tích nhu cầu ................................................................... 24
1.4. Kết luận chương…………………………….……………...………………..25

i


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC TỰ HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
HƯỚNG DẪN DU LỊCH VÀ NHU CẦU ĐƯỢC HỖ TRỢ TRONG HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA DU LỊCH, VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI .... 26
2.1 Tính cấp thiết của việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch…26
2.1.1 Những đặc trưng của tiếng Anh STT…………………………….……...26
2.1.2 Sự thay đổi trong chương trình học tiếng Anh………………………..…28
2.2 Khảo sát thực trạng việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch
và nhu cầu được hỗ trợ của sinh viên.................................................................. 30
2.3 Đánh giá năng lực tiếng Anh của sinh viên tham gia khóa học STT năm 2015.. 38
2.4 Kết luận chương…………………………………………………………......44
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC TỰ HỌC TIẾNG ANH
CHUYÊN NGÀNH HƯỚNG DẪN DU LỊCH NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU VỀ TRÌNH
ĐỘ NGOẠI NGỮ CHO KHÓA HỌC THỰC HÀNH NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU
LỊCH STT............................................................................................................... 45
3.1 Nhóm giải pháp nâng cấp chương trình tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng
dẫn du lịch.......................................................................................................... 45
3.1.1 Thiết kế Tài liệu bổ trợ ngôn ngữ cho Khóa học thực hành nghiệp vụ
hướng dẫn du lịch STT ................................................................................... 45
3.1.2 Ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao tính tương tác của tài liệu tự học
tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch .................................................... 48
3.2 Giải pháp quản lý việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch…52
3.2.1 Liên kết chương trình tự học với chương trình đào tạo của khóa học
STT……………………………………………………………………………52
3.2.2 Quản lý tự học với học liệu điện tử ứng dụng công nghệ thông tin ........ 52

3.3. Kết luận chương…………………………………………………………….56
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 60
PHỤ LỤC ................................................................................................................ I

ii


DANH MỤC BẢNG – BIỂU
Bảng 1 - Cấu trúc nội dung Tài liệu bổ trợ tiếng Anh STT……………………48
Bảng 2 - Thời gian biểu tự học…………………………………………………….56

Hình 1 - Sơ đồ phân tích nhu cầu của Potocar ............................................. 23
Biểu đồ 01 - Thói quen tự học tiếng Anh chuyên ngành ............................... 31
Biểu đồ 02 - Sử dụng Giáo trình tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn của
Khoa ............................................................................................................ 31
Biểu đồ 03 - Sự hữu ích của Giáo trình tự học tiếng Anh chuyên ngành....... 32
hướng dẫn của Khoa với chương trình học STT ........................................... 32
Biểu đồ 04 - Mức độ hài lòng của sinh viên đối với Giáo trình tự học ......... 33
Biểu đồ 05- Mức độ yêu thích của sinh viên với những nội dung trong Giáo
trình tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn của Khoa .......................... 33
Biểu đồ 06 - Khả năng tự quản lý khi tự học tiếng Anh chuyên ngành của sinh
viên .............................................................................................................. 34
Biểu đồ 07 - Mức độ mong muốn được hỗ trợ khi tự học tiếng Anh chuyên
ngành của sinh viên ..................................................................................... 35
Biểu đồ 08 – Mong muốn có thêm tài liệu bổ trợ cho Giáo trình tự học của
Khoa ............................................................................................................ 36
Biểu đồ 09 - Mong muốn được hỗ trợ quản lý việc tự học tiếng Anh chuyên
ngành ........................................................................................................... 36
Biểu đồ 10 - Đề xuất của sinh viên trong quản lý việc tự học tiếng Anh

chuyên ngành hướng dẫn ............................................................................. 37
Biểu đồ 11 - Nhu cầu liên kết chương trình tự học tiếng Anh chuyên ngành
hướng dẫn với chương trình đào tạo STT của sinh viên ............................... 38
Biểu đồ 12 - Trở ngại lớn nhất của sinh viên khi học STT năm 2015 ........... 39

iii


Biểu đồ 13 - Khả năng tiếng Anh của sinh viên BK21 khi học STT năm 2015
.................................................................................................................... 40
Biêu đồ 14 - So sánh về điểm ngoại ngữ của BK21 so với BK20 trong các
buổi thực hành tại điểm trong môn học STT ................................................ 40
Biểu đồ 15 – So sánh điểm tiếng Anh trung bình của các sinh viên BK21 và
BK20 trong 02 buổi thực hành tại điểm đầu tiên của chương trình STT ....... 41
Biểu đồ 16 - Sự tác động của trình độ ngoại ngữ đối với việc học chương trình
STT .............................................................................................................. 42
Biểu đồ 17 - Sự cần thiết của việc sinh viên tự học tiếng Anh chuyên ngành 43
Biểu đồ 18 - Sự cần thiết của việc kết hợp giữa chương trình tiếng Anh
chuyên ngành hướng dẫn du lịch với khóa học STT ..................................... 43

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GS.

Giáo sư

ThS.


Thạc sỹ

STT

Sustainable Tourism Training – Khóa thực hành nghiệp vụ hướng dẫn
du lịch

TSKH.

Tiến sỹ khoa học

PGS.

Phó giáo sư

TS.

Tiến sỹ

ESP

English for Specific Purposes – Tiếng Anh chuyên ngành

TEFL

Teaching English as a foreign language – Dạy tiếng Anh như là một
ngoại ngữ

LTE


Learning through English – Học tập thông qua tiếng Anh

GE

General English – Tiếng Anh phổ thông

HD2

Course book for self-study: A tour of Hanoi and the surrounding
villages

v


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Theo Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/06/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch, một trong những điều kiện để được cấp
thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế là chứng chỉ tiếng Anh TOEFL 500 điểm hoặc
IELTS 5.5 điểm hoặc TOEIC 650 điểm trở lên. Để đạt được trình độ ngoại ngữ
tương đương hướng dẫn viên cần trải qua chương trình đào tạo tiếng Anh cơ bản và
tiếng Anh chuyên ngành chuyên sâu. Tuy nhiên theo quy định về khung đào tạo
Tiếng Anh mới của Viện Đại học Mở Hà Nội, chương trình Tiếng Anh của Khoa
Du lịch nói chung và cụ thể là của sinh viên chuyên ngành hướng dẫn du lịch giảm
chỉ còn bằng 1/3 chương trình đào tạo trước đây. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng
đến năng lực tiếng Anh của sinh viên. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên ảnh hưởng
đến hiệu quả của khóa học thực hành nghiệp vụ hướng dẫn du lịch STT
(Sustainable Tourism Training) hay nói cách khác Khoa Du lịch đối mặt với việc
không thể cung cấp nguồn nhân lực du lịch giỏi kỹ năng nghiệp vụ và thành thạo

tiếng Anh – yếu tố giúp tạo thương hiệu cơ sở đào tạo du lịch hàng đầu Việt Nam
của Khoa.
Tình hình hiện tại đòi hỏi sinh viên phải tự học tiếng Anh chuyên ngành du lịch.
Tuy nhiên sinh viên Khoa Du lịch cũng giống như sinh viên tại các trường đại học
khác vở Việt Nam đã số đều chưa có thói quen tự học tốt.
Tất cả các yếu tố trên khẳng định tính cấp thiết của việc đề ra các giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch, đáp ứng yêu
cầu về trình độ tiếng Anh của sinh viên cho khóa học tiếng Anh chuyên ngành STT
tại Khoa Du lịch, Viện Đại học Mở Hà Nội. Vì vậy nhóm nghiên cứu thuộc Bộ môn
tiếng Anh, Khoa Du lịch, Viện Đại học Mở Hà Nội đã quyết định tiến hành nghiên
cứu: “Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng
dẫn du lịch, đáp ứng yêu cầu về trình độ ngoại ngữ của khóa học thực hành nghiệp
vụ hướng dẫn du lịch tại Khoa Du lịch, Viện Đại học Mở Hà Nội”.
1


Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu được xác định như sau:
 Tập hợp cơ sở lý luận về tự học ngoại ngữ và tiếng Anh chuyên ngành
hướng dẫn du lịch và phân tích nhu cầu trong thiết kế nội dung tự học;
 Xác định cụ thể những tồn tại của việc tự học tiếng Anh chuyên ngành
hướng dẫn của sinh viên, ảnh hưởng của nó đến việc hoàn thành khóa học
STT cũng như nhu cầu được hỗ trợ của sinh viên với quá trình tự học;
 Đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học tiếng Anh
chuyên ngành hướng dẫn, đáp ứng yêu cầu về trình độ ngoại ngữ của
khóa học kỹ năng chuyên ngành hướng dẫn STT.
Cách tiếp cận đề tài
Xét về mặt chức năng, đề tài sử dụng hướng tiếp cận nghiên cứu giải pháp (đưa ra
giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc tự học). Tuy nhiên, đề tài cũng có áp dụng
nghiên cứu mô tả (môt tả hiện trạng tự học Tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên),

nghiên cứu giải thích (giải thích nguyên nhân của hiện trạng trên). Dựa vào nghiên
cứu mô tả và nghiên cứu giải thích, đề tài đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của
việc tự học. Ba hướng tiếp cận này có vai trò quan trọng như nhau trong đề tài,
trong đó, cách tiếp cận thứ ba, nghiên cứu giải pháp là hướng tiếp cận chính, dựa
trên cơ sở là kết quả của hai cách tiếp cận trên.
Xét về mặt nghiên cứu và triển khai, đề tài này tiếp cận theo hướng nghiên cứu ứng
dụng (vận dụng lý thuyết để mô tả, giải thích, dự báo, và đề xuất giải pháp).
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nhóm nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và các phương
pháp nghiên cứu thực tiễn để thực hiện đề tài.
Nhóm nghiên cứu lý thuyết đề tài đã sử dụng bao gồm:
2


Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Nhóm nghiên cứu nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau về tự học tiếng Anh và
tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch cũng như phân tích nhu cầu trong thiết
kế nội dung tự học để có cái nhìn toàn diện về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
Nhóm nghiên cứu đã sắp xếp các tài liệu khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng
vấn đề có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển Hệ thống hóa là sắp
xếp tri thức thành một hệ thống trên cơ sở một mô hình lý thuyết làm sự hiểu biết về
đối tượng đầy đủ hơn.Nhóm tổng hợp thông tin thu được, phân tích nhằm tạo ra một
hệ thống lý thuyết đầy đủ giúp phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả của việc tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch.
Nhóm nghiên cứu thực tiễn đề tài sử dụng bao gồm:
Phương pháp điều tra: Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát việc tự học tiếng Anh
chuyên ngành hướng dẫn du lịch, đánh giá của sinh viên về Giáo trình tự học tiếng
Anh chuyên ngành của Khoa cũng như nhu cầu được hỗ trợ ngôn ngữ của sinh viên
để hoàn thành tốt khóa học kỹ năng hướng dẫn.

Phương pháp phỏng vấn: Nhóm nghiên cứu tiến hành cách phương pháp phỏng vấn
như trò chuyện (với giáo viên và sinh viên), phỏng vẫn ngẫu nhiên và phỏng vấn
sâu.
Phương pháp chuyên gia
Nhóm sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia gồm giáo viên chuyên môn và những
người làm trong ngành hướng dẫn để hiểu hơn về yêu cầu ngoại ngữ đối với môn
STT nói riêng và hướng dẫn viên nói chung.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập chung nghiên cứu đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học tiếng

3


Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch của sinh viên chuyên ngành hướng dẫn du
lịch nhằm bảo đảm trình độ ngoại ngữ để hoàn thành khóa học kỹ năng hướng dẫn
STT. Đề tài không nghiên cứu việc tự học tiếng Anh cơ bản hay giải pháp để nâng
cao năng lực tiếng Anh cơ bản hoặc tiếng Anh giao tiếp nói của sinh viên.
Nội dung nghiên cứu của đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung nghiên cứu của đề tài được thể hiện qua ba chương:
Chương 1 tổng hợp cơ sở lý luận về tự học, tự học tiếng Anh chuyên ngành hướng
dẫn du lịch và phân tích nhu cầu trong thiết kế nội dung tự học.
Chương 2 phân tích rõ tính cấp thiết của việc tự học tiếng Anh STT, những tồn tại
của việc tự học tiếng Anh STT và ảnh hưởng của nó đến việc bảo đảm năng lực
ngoại ngữ cho khóa học thực hành nghiệp vụ hướng dẫn du lịch STT và mong
muốn được hỗ trợ của sinh viên.
Chương 3 đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học tiếng Anh
chuyên ngành hướng dẫn du lịch nhằm đáp ứng yêu cầu về trình độ ngoại ngữ cho
khóa học kỹ năng hướng dẫn du lịch STT.


4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Chương 1 của đề tài giúp có cái nhìn tổng quan về các cơ sở khoa học của nghiên
cứu, liên quan đến tự học, tiếng Anh chuyên ngành hướng dẫn du lịch và vai trò và
cách thức tiến hành phân tích nhu cầu trong thiết kế nội dung tự học. Các cơ sở lý
thuyết được tổng hợp trong chương này tạo tiền đề cho toàn bộ các nội dung phân
tích thực trạng ở chương 2 và việc đề ra giải pháp ở chương 3.
1.1 Tổng quan về Tự học
1.1.1 Khái niệm tự học
Người đặt nền móng cho ý thức về hoạt động tự học là nhà giáo dục người Cộng
hòa Séc J.A Comenxki. Cùng với việc “đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán
của người học”, Comenski đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập, không có
khát vọng suy nghĩ thì sẽ không thể trở thành tài năng”. Hoạt động tự học sau đó
được rất nhiều nhà giáo dục nghiên cứu và đưa ra các định nghĩa khác nhau, sau đây
là một số định nghĩa cơ bản:
– Theo GS. Lê Khánh Bằng (2000) thì tự học (self-learning) là tự mình suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực
khoa học nhất định.
– Nhà tâm lý học N.ARubaki (2004) coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự
học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn
hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban
đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài
người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của chủ thể.
– Theo GS Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi người
do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến thức cho bản
thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ của xã hội”


5


– GS. TSKH Nguyễn Cảnh Toàn trong cuốn “Quá trình dạy – tự học” (1997) và
“Học và dạy cách học” (2002) đã dày công nghiên cứu về tự học, “Tự học thường
được hiểu là học với sách, không có thầy bên cạnh. Nhưng hiểu như vậy là hơi hẹp.
Ngay cả khi có thầy bên cạnh, thì thầy cũng chỉ giảng giải, uốn nắn, chứ thầy đâu
có học hộ trò. Dạy, dù sao, cũng chỉ là ngoại lực tác động đến trò. Ngoại lực đó
phải có sự cộng hưởng của nội lực cố gắng của học trò. Sự cố gắng này mới đúng
là tự học”. Như vậy, tự học có thể xảy ra khi có thầy, có sách, cả khi không có thầy,
có sách.
– Theo GS. Đặng Vũ Hoạt và PGS. Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học đại
học” (2009) thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là
một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng
do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo
chương trình và sách giáo khoa đã được qui định.”
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể đi đến định nghĩa về tự học như
sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức ở
một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt
được mục đích nhất định.
1.1.2 Bản chất của việc tự học
Thực chất tự học là một quá trình học tập, một quá trình nhận thức không trực tiếp
có thầy giáo nên tất yếu đòi hỏi nỗ lực, tích cực hoá hoạt động nhận thức của người
học. Đó là “lao động khoa học”, vất vả hơn nhiều so với quá trình học có thầy bởi
vì người học phải tự xây dựng cho mình cách học và sử dụng hợp lý các điều kiện,
hình thức, phương tiện học tập để đạt được kết quả mong muốn. Có thể nói bản chất
của công việc tự học của sinh viên đại học là quá trình nhận thức một cách tự giác,
tích cực, tự lực không có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nhằm đạt
được mục đích, nhiệm vụ học tập. Tự học vừa mang ý nghĩa củng cố, trau dồi tri
thức vừa có ý nghĩa mở rộng hiểu biết.

Sự tự kiềm chế đối với những ảnh hưởng ngoại cảnh hay những ước muốn không
6


hợp lẽ trong tư tưởng là điều kiện cần thiết đối với quá trình tự học. Nếu thiếu sự
nghiêm túc của bản thân thì sinh viên không bao giờ thực hiện được kế hoạch học
tập do chính mình đặt ra.
1.1.3 Vai trò của tự học trong đào tạo bậc đại học
Tự học là cách học ở bậc đại học, điều này đã được thể chế hóa rất cụ thể trong Luật
giáo dục:
“Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học,
tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn
luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.”
Tự học là điều kiện giúp sinh viên từng bước nâng cao chất lượng học tập của bản
thân và các trường đại học cũng sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo, hoàn thành
mục tiêu giáo dục nếu tổ chức có hiệu quả công việc tự học cho sinh viên. Nội dung
của tự học rất phong phú, bao gồm toàn bộ những công việc học tập do cá nhân và
có khi do tập thể sinh viên tiến hành ngoài giờ học chính khoá hoặc do bản thân
sinh viên độc lập tiến hành ngay trong giờ chính khoá như: Đọc sách ghi chép theo
cách riêng, làm bài tập, tham gia các hoạt động thực tế, v.v.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, I.F. Kharlamop (1978) khẳng định rằng: tự học
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao tính tích cực nhận thức và hiệu quả
cho hoạt động trí tuệ của sinh viên. Hoạt động tự học diễn ra theo cách tăng cường
nghiên cứu, làm việc với tài liệu học tập, dạy học nêu và giải quyết vấn đề, cải tiến
công tác tự học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá.
Học ở đại học đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và khó, cho
nên ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên
lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Và như vậy hoạt động tự học sẽ quyết định chất
lượng giáo dục – đào tạo ở bậc đại học, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề nghiệp

trong tương lai. Chính trong quá trình tự học sinh viên đã từng bước biến vốn kinh
nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự học đã
7


tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ
vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
Thứ hai, tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng
thú, thói quen và phương pháp để làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu
biết của mình, giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của
khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh viên mở
rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp sinh viên hình thành được những phẩm chất trí
tuệ và rèn luyện nhân cách của mình; tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học,
rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng
say mê nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường đại học, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng
lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm năng to lớn vốn có của họ,
tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại
bên ngoài. Khả năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng
đào tạo.
Như vậy muốn nâng cao chất lượng học tập của sinh viên trong trường đại học,
chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến vị trí trung tâm của sinh viên trong hoạt
động học tập và nghiên cứu để làm sao khai thác triệt để những tiềm năng vốn có,
phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo, chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức
của sinh viên nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp
giáo dục.
1.1.4 Vai trò của tự học trong đào tạo tín chỉ ở bậc đại học
Trong đào tạo đại học theo phương thức tín chỉ, vấn đề tự học của sinh viên càng

trở nên quan trọng hơn do những đặc thù sau đây:
Thứ nhất, xét ở phương thức đào tạo theo tín chỉ, kế hoạch học tập cụ thể phụ thuộc
vào chính bản thân người học. Sinh viên có nhiệm vụ và có thể chủ động lựa chọn
8


môn học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp với nguyện vọng,
khả năng, thể lực và điều kiện của mình để từ đó thiết kế kế hoạch học tập cho mình
một cách hiệu quả nhất.
Thứ hai, hình thức tổ chức dạy học trong phương thức tín chỉ quy định hoạt động tự
học của sinh viên như một thành phần bắt buộc trong thời khóa biểu đồng thời là
một nội dung quan trọng để đánh giá kết quả học tập của sinh viên. TS. Nguyễn Mai
Hương (2013) dựa trên việc tìm hiểu kỹ các khái niệm về tín chỉ và căn cứ vào thực
tiễn quá trình đào tạo hiện nay ở các trường đại học, khẳng định: “Tín chỉ học tập là
thời gian học tập của một người học trung bình để học một môn học cụ thể, bao
gồm: (1) thời gian lên lớp; (2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc
các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; (3) thời gian dành cho đọc
sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; Đối với môn học thực
hành, ít nhất là 2 giờ lên lớp (+1 giờ chuẩn bị ở nhà) trong 1 tuần; Đối với việc tự
nghiên cứu , ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần”.
Thứ ba, xét ở phương thức kiểm tra đánh giá trong đào tạo tín chỉ ở bậc đại học, có
hai hình thức đánh giá cơ bản là Đánh giá trong tiến trình (chuyên cần, ý thức học
tập, và hoàn thành nội dung tự học ở nhà, kiểm tra định kỳ) và Đánh giá tổng kết
(bài kiểm tra, tiểu luận hết môn).
Như vậy, tự học trong học chế tín chỉ là “tự học bắt buộc” nhằm đảm bảo hài hòa
cân đối giữa khối lượng kiến thức và thời gian tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và
sinh viên. Tự học khơi nguồn cho sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao
vươn tới đỉnh cao tri thức.
1.1.5 Các nguyên tắc bảo đảm việc tự học ở bậc đại học
Một vấn đề có tính khoa học bao giờ cũng được xây dựng trên những cơ sở, nguyên

tắc nhất định; việc tự học muốn bảo đảm tốt cần tuân thủ các nguyên tắc nhất định.
Trong nghiê cứu chuyên sâu về tổ chức việc tự học cho sinh viên đăng trên Tạp chí
Khoc học ĐHQGHN năm 2009, TS. Phan Bích Ngọc đã đưa ra các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: bảo đảm tính tự giáo dục. Trong thực tế, quá trình giáo dục luôn chứa
9


đựng quá trình giáo dưỡng, do vậy mà trong công tác tự học của sinh viên, ngoài
việc tự củng cố những tri thức cũ, lĩnh hội tri thức mới, mở rộng hiểu biết, người
sinh viên từng bước tự hoàn thiện nhân cách của mình.
Thứ hai: bảo đảm tính khoa học. Bản thân quá trình tự học của sinh viên cũng là
một quá tình “lao động khoa học” hết sức khó khăn, do vậy, phải đòi hỏi có tính
khoa học. Việc bảo đảm tính khoa học trong công tác tự học sẽ đảm bảo được tính
tự giáo dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả học tập như mong muốn.
Thứ ba: đảm bảo “học đi đôi với hành”. Đây là một cặp phạm trù có quan hệ biện
chứng với nhau. Tự học không chỉ củng cố, mở rộng kiến thức thông thường mà
quan trọng hơn là đưa những kiến thức ấy vào cuộc sống, “cọ sát” với thực tế để
thu lượm được những kinh nghiệm thực tiễn sống động, bổ ích, từ đó giúp cho sinh
viên trong những điều kiện quen thuộc cũng như mới mẻ đều có thể vận dụng đúng
linh họat, sáng tạo những điều họ đã tự tiếp thu lĩnh hội được.
Thứ tư: đảm bảo tính tự giác, tích cực. Nguyên tắc này sẽ trực tiếp quyết định đến
kết quả học tập của sinh viên. Kế hoạch tự học có được thực hiện thường xuyên hay
không là do yếu tố tự giác, tích cực quyết định.
Thứ năm: đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng, kỹ xảo. Quá trình tự học
không chỉ đơn thuần là quá trình tự hình thành tri thức mà nó còn là quá trình hoạt
động thực tiễn, nâng cao, củng cố kỹ năng, kỹ xảo.
Năm nguyên tắc cơ bản trên đảm bảo hiệu quả cho quá trình tự học của học sinh,
sinh viên. Năm nguyên tắc này có quan hệ gắn bó với nhau, nguyên tắc này hỗ trợ
cho nguyên tắc kia và đều nhằm mục đích bảo đảm tính tự giáo dục, tự đào tạo
theo mục tiêu giáo dục của trường đại học. Trong thực tiễn tự học của bản thân,

mỗi sinh viên cần thiết kế hợp lý, khéo léo, khoa học những nguyên tắc trên để
việc tự học có thể đạt được hiệu quả tối ưu. Một sinh viên có ý thức tự học tốt thể
hiện ở chỗ họ có thái độ đối với việc học tập ở lớp cũng như ở nhà và họ thực hiện
học tập như thế nào. Đó phải là người biết cách sắp xếp thời gian học tập, biết
phân phối sức lực để học tập, khát khao hiểu biết, nghiên cứu, làm chủ những
10


thành tựu khoa học của nhân loại.
1.1.6 Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. N.A. Rubanki
(2004) đã tổng kết các hình thức tự học cơ bản sau:
– Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú, không có sách và
sự hướng dẫn của giáo viên. Đây là hình thức tự nghiên cứu của các nhà khoa học.
– Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh. Ở hình thức
này, tự học diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy: Người học tự học
để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó sẽ phát triển về tư duy. Tự học
hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội
học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn: Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối
quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin
thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra,
đánh giá,v.v.
– Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau đó
sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc
tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Người trò với vai trò là
chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá
trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa Nội lực và

Ngoại lực – Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội
lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng dưới
sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn
11


những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình thức này liên
quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung,
phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này
quá trình tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự
tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học
của giáo viên và quá trình tự học của sinh viên.
Như vậy, hoạt động tự học của sinh viên có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Cứ khi
nào sinh viên huy động mọi khả năng nhận thức hiện có của mình, tiến hành các
hoạt động tìm tòi, khám phá tự giác là khi đó họ đang tiến hành tự học.
1.1.7 Các kỹ năng tự học
Để hoạt động tự học được diễn ra hiệu quả, người học cần có các kỹ năng tự học
phù hợp. PGS. TS. Nguyễn Công Khanh (2007) khi nghiên cứu về phong cách học
của sinh viên đã nêu ra những vấn đề cần xem xét liên quan đến kỹ năng tự học của
sinh viên cụ thể như sau:
Xây dựng kế hoạch tự học
Là lên danh mục các nội dung cần tự học, khối lượng và yêu cầu cần đạt được, các
hoạt động cần phải tiến hành, sản phẩm cụ thể cần phải được tạo ra, thời gian dành
cho mỗi nội dung và hoạt động. Kế hoạch tự học phải đảm bảo tính khoa học, tính
vừa sức, và tính khả thi. Xây dựng được bản kế hoạch tự học hợp lý là kĩ năng quan
trọng đầu tiên đối với mỗi sinh viên.
Lựa chọn tài liệu
Việc lựa chọn tài liệu tự học là hết sức quan trọng trong tình hình đa dạng và phong

phú về thông tin như hiện nay. Tài liệu tự học có thể lấy từ rất nhiều nguồn khác
nhau: sách, báo, các văn kiện, v.v. Các tài liệu này có thể ở dạng viết, nghe nhìn;
trực tiếp khai thác từ internet; có thể trong nước hoặc nước ngoài. Lựa chọn cho
đúng, đủ các tài liệu cần thiết phục vụ cho tự học là việc làm không kém phần phức
tạp, đòi hỏi người học phải được rèn luyện một kĩ năng lựa chọn thích hợp, bắt đầu
tự chọn đúng, chọn đủ, chọn hợp lý, chọn cái thực sự cần thiết, chọn tài liệu liên
12


quan trực tiếp, gián tiếp, bổ sung, phục vụ v.v. Để tự học hiệu quả, sinh viên cần rèn
luyện cho mình kĩ năng lựa chọn các tài liệu thích hợp.
Lựa chọn hình thức tự học
Việc tự học không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi.
Những khó khăn vấp phải trong tự học – nhiều lúc rất nhiều, tưởng chừng như khó
vượt qua – ví dụ, một vấn đề học tập nan giải, một nội dung học tập thiếu tài liệu,
một hướng suy nghĩ bị bế tắc v.v. Do vậy, việc lựa chọn, hoặc phối hợp các hình
thức tự học một cách phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng.
Xử lý thông tin
Kỹ năng xử lý thông tin có thể được chia làm hai nhóm kỹ năng nhỏ kế tiếp nhau:
hệ thống hóa và phân tích, tổng hợp, khái quát hóa. Để tri thức tự học có được một
cách bền vững và có thể vận dụng được vào trong thực tiễn, người học cần phải xếp
chúng vào hệ thống nhất định. Công việc này bao gồm nhiều thao tác, như: tóm tắt,
phân loại, xác lập các mối liên hệ, biểu diễn bằng sơ đồ logic, bằng bảng hệ thống
kiến thức,v.v. Như vậy, kĩ năng xử lý thông tin trong tự học liên quan mật thiết với
kĩ năng tư duy. Do vậy, việc bồi dưỡng kĩ năng xử lý thông tin không tách rời với
việc bồi dưỡng kĩ năng sử dụng các thao tác tư duy. Điều đó càng đòi hỏi phải đề
cao vai trò chủ động, tích cực của sinh viên trong quá trình tự học.
Vận dụng tri thức vào thực tiễn
Tri thức có được, nếu không sử dụng thì cũng bị lãng quên hoặc mai một. Do vậy,
việc vận dụng tri thức vào thực tiễn vừa là mục đích tự thân của việc học, vừa là

quá trình bổ sung, mở rộng, đào sâu, làm giàu tri thức cá nhân.
Trao đổi và phổ biến thông tin
Các kiến thức có được ở mỗi sinh viên nếu được trao đổi với bạn học hoặc thông tin
đến các đối tượng có nhu cầu càng tăng thêm ý nghĩa thực tế, đồng thời việc làm đó
có tác dụng tích cực đối với việc nắm tri thức của bản thân.

13


Tự kiểm tra, đánh giá
Tự kiểm tra, đánh giá là một kỹ năng quan trọng trong tự học, vì làm được điều này,
người học mới biết được trình độ tự học của mình đạt được mức độ nào và xác định
điều chỉnh phương pháp tự học thích hợp, cho hiệu quả cao hơn. Việc kiểm tra phải
được tiến hành thường xuyên trong quá trình tự học, dưới nhiều hình thức, như: tự
trắc nghiệm bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan; trắc nghiệm tự luận,
hoặc tự kiểm tra qua việc vận dụng kiến thức để làm các bài tập, thực hành, giải
quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, v.v. Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá liên quan đến
việc xây dựng các tiêu chí và chọn công cụ kiểm tra, đánh giá.
1.1.8 Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tự học
Có nhiều nhân tố có thể tác động đến qua trình tự học, nhưng tổng hợp lại có 2
nhóm: Nhóm nhân tố bên trong người học và Nhóm nhân tố bên ngoài (Rubanki:
2004)
Nhóm nhân tố bên trong người học
– Khả năng tự học: Trong các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến quá trình tự học,
khả năng tự học của bản thân người học là quan trọng nhất, vì người học là chủ thể
chiếm lĩnh tri thức, chân lý bằng hành động của chính mình. Với khả năng tự học
tốt, người học luôn là chủ thể trung tâm, tự mình tìm ra tri thức bằng hành động của
chính mình.
– Động cơ, hứng thú học tập. Động cơ thúc đẩy người học hăng hái học tập, tư
duy. Cái háo hức có thể nằm ngoài kiến thức như lòng mong muốn đỗ đạt nhưng

chính nó cũng có thể là động cơ để hoàn thiện tri thức, óc tò mò khoa học. Tất cả
điều này có tính chất định hướng, động viên thúc đẩy người học cố gắng học tập.
Động cơ nhận thức là nhân tố kích thích trực tiếp sự hoạt động nhận thức. Đây là
động lực bên trong quyết định sự diễn tiến và chất lượng của hoạt động.
– Phương pháp tự học: Để tự học mang lại hiệu quả cao đòi hỏi người học phải
có phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Mỗi người có năng lực khác nhau nên việc

14


lựa chọn, sử dụng phương pháp cũng khác nhau.
Nhóm nhân tố bên ngoài
Nhóm nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tự học. Trong nhóm
nhân tố này, cần kể đến:
– Phương pháp giảng dạy của giảng viên: Phương pháp giảng dạy của giảng
viên ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp tự học của sinh viên. Nếu ở đại học,
giảng viên dạy cho sinh viên cách học thì quá trình dạy học ở đại học tạo điều kiện
cho sinh viên làm quen với phương pháp làm việc độc lập, chẳng những khi đang
học tập ở nhà trường mà cả cho việc tiếp tục tự học sau khi bước vào giai đoạn hoàn
toàn tự lập, trưởng thành. Chính sự thay đổi cách dạy ở bậc đại học đòi hỏi mức độ
làm việc độc lập của người học cao hơn.
– Yêu cầu của xã hội, nhà trường: Xã hội hiện đại, công nghệ thông tin phát
triển cần phải có phương tiện, phương pháp giao lưu mới. Đồng thời tri thức của
loài người đang tăng nhanh về khối lượng, đổi mới nhanh về chất lượng và nội
dung. Dù có kéo dài thời gian tự học trong nhà trường bao nhiêu cũng chưa đủ để
thích ứng với cuộc sống luôn thay đổi mà phải biết học lấy cách học để tiếp tục tự
học suốt đời.
– Cơ sở vật chất: Trong tự học, tự nghiên cứu quan trọng là phải có sách, đồ
dùng và trang thiết bị học tập cần thiết, đặc biệt là sách chuyên ngành, tài liệu tham
khảo, phương tiện học tập.

– Thời gian: Trong quá trình học tập sinh viên phải học nhiều môn. Mỗi môn có
vị trí, tính chất, nội dung, khối lượng thông tin khác nhau. Ngoài thời gian lên lớp
mỗi ngày và phục vụ cho nhu cầu riêng, sinh viên còn tham gia các hoạt động đoàn
thể: văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, v.v.; một số sinh viên còn đi học thêm, làm
thêm. Vì vậy, để học tốt, sinh viên phải biết phân phối thời gian hợp lý cho từng
công việc.
Hai nhóm nhân tố trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau tạo điều kiện để hoạt động tự học đạt chất lượng cao.
15


1.1.9 Đặc điểm tự học của sinh viên đại học ở Việt Nam
Học đại học là đi sâu vào một chuyên ngành để chuẩn bị cho một nghề trong tương
lai. Do đó, sinh viên phải tự trang bị cho mình những hiểu biết cơ bản, vững vàng
về nghề đó, đồng thời phải có nhiều hiểu biết khác nữa theo yêu cầu của cuộc sống.
Giờ đây, công việc tự học của sinh viên trở nên rất quan trọng, rất nặng nề, nó trở
thành một bộ phận cấu thành của giáo dục đại học. Sinh viên tự đề ra kế hoạch và tự
thực hiện kế hoạch. Các bài kiểm tra chính là kết quả học tập và nghiên cứu của
sinh viên. Có nhiều sinh viên cho biết rằng 50% kiến thức là do tự học. Việc tự học
của sinh viên đại học còn có một đặc điểm: hoạt động tự học diễn ra liên tục, trong
một phạm vi lớn nhằm lĩnh hội rất nhiều tri thức. Thêm vào đó, việc tự học của sinh
viên đại học là sự nỗ lực cao, tính tự giác cao hơn học sinh phổ thông; sinh viên
thực sự làm chủ thời gian, phương pháp phải quan tâm đến chất lượng tự học của
bản thân để từ đó có phương hướng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho mình, chuẩn
bị cho ngày mai lập nghiệp bằng sự tự tin tuyệt đối.
Tự học ở nhà là một nhân tố quan trọng đối với quá trình lĩnh hội tri thức. Tự học ở
nhà chính là lần thứ hai lĩnh hội tri thức, đó là lĩnh hội bằng sự tái tạo lại của bản
thân sinh viên. Bước tái tạo này giúp sinh viên nắm chắc hơn điều đã được học,
hoàn thành những chỗ khó, hệ thống hoá lại bài học trên lớp, nhờ đó tránh được
“học vẹt”, học mà không hiểu. Trong thực tế, việc học ở nhà còn giúp sinh viên mở

mang tri thức, lĩnh hội tri thức mới, rèn luyện kỹ năng vận dụng tri thức vào cuộc
sống để tự rút ra kinh nghiệm cho mình nhất là theo hình thức tín chỉ. Điều quan
trọng là việc tự học còn phát triển ở sinh viên khả năng độc lập, sáng tạo trong lĩnh
hội tri thức và trong hoạt động. Khi tự học, sinh viên làm quen với nhiều thuật ngữ,
nhiều cách đề cập đến một vấn đề, vì vậy họ sẽ trở nên năng động hơn, tự chủ hơn
trong việc tiếp thu tri thức. Qua đó có thể nói rằng tự học của sinh viên không chỉ là
một nhân tố quan trọng trong lĩnh hội tri thức mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc
hình thành nhân cách sinh viên.
TS. Trịnh Quốc Lập trong bài báo khoa học “Phát triển năng lực tự học trong hoàn

16


cảnh Việt Nam” (2008) đăng trên Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ đã
cho rằng năng lực tự học không chỉ là một phẩm chất dành cho người học thuộc thế
giới phương Tây, về bản chất mà nói, sinh viên châu Á không phải là không có
năng lực tự học; vấn đề là hệ thống giáo dục ở các nước châu Á chưa tạo đủ điều
kiện để sinh viên phát triển năng lực tự học. Ông đã chứng minh rằng trong hoàn
cảnh Việt Nam, năng lực tự học có thể được phát triển thông qua việc ứng dụng học
tập tự điều chỉnh. Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín
chỉ của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay cho phép sinh viên tự chủ hơn trong việc
học. Theo đó, sinh viên có thể tính toán thời gian và năng lực của mình để có thể
điều tiết việc học của mình theo từng học kỳ một cách phù hợp nhất.
Khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, số giờ giảng dạy trên lớp
của giáo viên giảm khá nhiều do vậy số giờ yêu cầu sinh viên tự học tất yếu phải
tăng lên. Nhưng thực tế cho thấy đa số sinh viên vẫn không biết cách tự học, vẫn
còn mang nặng cách học thụ động: sinh viên không hề đặt câu hỏi, khi giáo viên
đặt câu hỏi thì rất ít sinh viên giơ tay xin phát biểu, giáo viên nói gì, viết gì trên
bảng thì sinh viên cố gắng chép và chép bằng hết; cuốn vở trở thành cẩm nang duy
nhất cho việc thi cử và thậm chí cho cả việc hành nghề sau này. Dường như đây là

căn bệnh cố hữu có nguồn gốc từ nhà trường phổ thông và chắc chắn rằng sản
phẩm của cách học thụ động này là những con người thụ động không có khả năng
nghiên cứu sáng tạo.
Như vậy, thực tế việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên ở các
trường đại học ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Báo cáo của Ủy ban văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã nêu: “Chất lượng
giáo dục nhìn chung còn yếu kém, bất cập; lối học khoa cử vẫn còn nặng nề, giáo
dục chỉ chú ý đến truyền đạt kiến thức, nhằm ứng phó với các kỳ thi, chưa chú trọng
đến việc xây dựng tư duy sáng tạo, tự học, tự nghiên cứu…”.
Tự học, tự nghiên cứu là kỹ năng hết sức cần thiết đối với sinh viên. Việc rèn luyện
kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên cần phải là một trong những ưu tiên
hàng đầu của giáo dục đại học.
17


×