Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài luận triết học: mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Ý nghĩa của vấn đề này đối với nước ta.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.59 KB, 21 trang )

Lời mở đầu
Ngày nay, TH là 1 bộ phận ko thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình
thái KT nào. Triết học là thành tựu nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo con
người và loài người nói chung. Quá trình hình thành và phát triển của triết học
diễn ra quanh co, phức tạp và lâu dài. Trong chủ nghĩa MLN, lí luận nhận thức
duy vật biện chứng (hay nhận thức luận) là 1 nội dung cơ bản của phép biện
chứng. Vấn đề quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt
trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là lý luận NT DVBC, tức là
học thuyết về khả năng NT của con người đối với TG khách quan thông qua họat
động TT; lý giải bản chất con đường và quy luật chung của quá trình con người
NT chân lý, NT hiện thực khách quan nhằm phục vụ hoạt động TT của con
người. Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa nhận thực và
thực tiễn là vô cùng quan trọng, cần thiết. .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền KT nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của NN, theo định hướng xây dựng XHCN ở
nước ta hiện nay, lí luận về TT, đặc biệt là vai trò to lớn của TT đối vs NT và vấn
đề cải tạo TT nền KT luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Dựa trên
thực tế đó, Đảng và NN ta đã học tập và tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của TH
MLN về vai trò của TT đối với NT đã đề ra mục tiêu, phương hướng chỉ đạo
chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển XH phù hợp vs hoàn cảnh của đất
nước.
Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không?...là những vấn đề cơ bản của triết học mà mọi trào lưu, khuynh
hướng triết học khác nhau, đặc biệt là triết học truyền thống phải giải quyết. Sự
tác động qua lại giữa nhận thực và thực tiễn ra sao? Vai trò của chúng đối với
nhau như thế nào? Đảng ta đã có sự vận dụng về mối quan hệ giữa NT và TT để
phát triển đất nước ntn? Để giải đáp những thắc mắc đó, tôi xin đc trình bày trong
đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn. Đảng ta đã vận
dụng mối quan hệ đó trong công cuộc xây dựng đất nước ntn?”



I. Phạm trù thực tiễn
1/ Khái niệm
Phạm trù TT là 1 trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học MácLeenin nói chung và của lí luận NT mácxit nói riêng. V.I. Leenin cho rằng:
“Quan điểm về đời sống, về TT, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận
về nhận thức”. Việc đưa vấn đề thực tiễn vào lí luận nhận thức đã góp phần tạo ra
bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng của TH macsxit so với các hệ thống TH duy
vật cũ.
Trong lịch sử TH có nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù này. Điđơrô nhà triết học Pháp hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động
thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm. Phoiơbắc - nhà triết học duy vật
siêu hình người Đức thì cho rằng thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của
các con buôn. Còn Hêghen - nhà triết học duy tâm khách quan người Đức chỉ ra
rằng thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản thân thực
tiễn với tư cách là hoạt động vật chất. Trong các hệ thống TH duy vật cũ thì hệ
thống TH của Phoiơbắc đc C.Mác đánh giá cao. Phoiơbắc đã góp phần to lớn
“đưa chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua” trong cuộc đấu tranh với các hệ thống
TH duy tâm, đặc biệt là TH duy tâm khách quan của G.V.P.Heeghen.
Theo quan niệm của TH Mác- Leenin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật
chất có mục đích, mang tính lịch sử -xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên
và xã hội. Nói 1 cách cụ thể hơn, TT là hoạt động có suy nghĩ, có ý thức, có tính
toán, hoạt động có đối tượng cảm tính của con người.
Khác với các hoạt động khác, hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm
biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là hoạt động đặc trưng và bản chất
của con người. Do vậy, TT chính là phương thức tồn tại cơ bản của con người và
XH, là phương thức chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và TG.
Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính sáng tạo,
có mục đích của con người. Hoạt động thực tiễn nhằm mục đích cao nhất là cải
tạo TG hiện thực. Con người NT TG thực và tích cực tác động 1 cách có mục
đích để cải tạo nó. Trên cơ sở đó, TG mới bộc lộ những đặc tính, bản chất, nội
dung, quy luật,.. nhờ đó con người mới có tri thức về thế giới. Có như vậy, con

người mới có thể cải tạo TG hiện thực theo đk của sự phát triển tự nhiên XH. Do
vậy, TT trở thành 1 khâu trung gian nối liền ý thức của con người với TG bên
ngoài. Thông qua hoạt động TT, con người làm biến đổi giới tự nhiên, biến đổi


hình ảnh trong NT và đồng thời biến đổi chính bản thân mình.
Các giai đoạn phát triển khác nhau của LS XH có các trình độ phát triển #
nhau của hoạt động TT. Do đó, TT mang tính LS XH. Vì hoạt động TT là dạng
hoạt động cơ bản của XH loài người. Đó là hình thức hoạt động đặc thù của con
người, luôn diễn ra trong 1 bối cảnh văn hóa XH nhất định. Hoạt động TT ko
phải là hoạt động của cá nhân người mà là hoạt động của loài người, trước hết là
của đồng bào quần chúng nhân dân - những người trực tiếp tham gia hoạt động
sản xuất ra của cải vật chất.
Tóm lại, TT là toàn bộ hoạt động vật chất, đối tượng - cảm tính, có mục
đích, có tính LS - XH của con người vs nội dung là chinh phục và cải biến các
khách thể tự nhiên, XH và cấu thành cơ sở phổ biến, động lực phát triển của XH,
của NT con người.
2/ Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có ba hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị
xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực
tiễn. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các dạng hoạt động khác,
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của toàn XH. Đây là hoạt động mà trong
đó con người dùng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất, các điều kiện cần thiết để nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động bằng : lao động phổ thông,
(chân tay), lao động trí óc, cộng với các phương tiện, dụng cụ lao động, máy móc
kỹ thuật để sản xuất và tái sản xuất mở rộng ra vật chất (sản phẩm, hàng hóa)

phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xã hội.
Ví dụ hoạt động sản xuất ra lúa gạo, hoa màu, thức ăn, nước uống...SX kinh
doanh ra vải vóc, quần áo, hàng hóa tiêu dùng, xây dựng nhà cửa...Phát minh ra
các loại xe máy, ô tô, máy móc phục vụ cho công nghiệp...
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các đoàn thể, tổ chức quần
chúng, các đảng phái chính trị trong xã hội nhằm cải tạo XH, phát triển các quan
hệ XH, chế độ XH, đấu tranh giai cấp nhằm cải tạo XH, lật đổ ách thống trị của
giai cấp này thay vào đó sự thống trị của giai cấp # đại diện cho PTSX mới tiến
bộ là hoạt động chính trị XH mang tính cơ bản phổ biến, được kết hợp giữa trí óc


và các hoạt động xã hội khác, có điều lệ, cương lĩnh, nguyên tắc, tổ chức....riêng.
Ví dụ hoạt động của các tổ chức : Mặt trận tổ quốc, Hội chữ thập đỏ, Đoàn
thanh niên CS Hồ Chí minh, Hội cựu chiến binh...
Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động
thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người
tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp đi lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã
hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối trượng nghiên cứu.
Dạng hoạt động này có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại…
Ví dụ việc trồng rau trong nhà kính, xây dựng vườn bách thảo, các công
viên quốc gia, nuôi cấy mô, thực nghiệm sinh học, nghiên cứu vũ trụ trong môi
trường không trọng lượng, nghiên cứu thực nghiệm các môn khoa học tự nhiên…
Kết luận : Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan
trọng khác nhau. Không thể thay thế cho nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong MQH đó, hoạt động sản xuất vật chất lại có
vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn
khác. Bởi vì nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan,
thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện,
của cải thiết yếu nhất, có tính quyết định nhất với sự sinh tồn và phát triển của

con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể hình thành được
các hoạt động thực tiến khác. Các hình thức hoạt động thực tiễn khác, suy cho
cùng cũng bắt nguồn từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ cho thực tiễn
sản xuất vật chất.
Ngoài ba dạng họat động TT cơ bản trên còn có các dạng phát sinh, ko cơ
bản. Đó là các hoạt động trong lĩnh vực đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, giáo dục,..
Các dạng hoạt động này đc hình thành và phát triển trên cơ sở, nền tảng của hoạt
động SX vật chất, suy đến cùng chịu sự quy định của họat động SX vật chất.
Theo quan điểm của duy vật biện chứng, thực tiễn gồm 2 chức năng quan
trọng: thứ nhất là chuyển cái tinh thần thành cái vật chất, tức là khách quan hóa
chủ quan. Thứ hai là chuyển cái vật chất thành cái tinh thần, tức là chủ quan hóa
khách quan. Thực tiễn có vai trò đặc biệt to lớn đối với nhận thức, nó chính là cơ
sở mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.

II. Phạm trù nhận thức


1/Quan niệm về nhận thức của một số trào lưu triết học trước Mác
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ
nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác
của con người; chủ nghĩa duy tâm khách quan lại coi nhận thức là sự "hồi tưởng
lại" của linh hồn bất tử về "thế giới các ý niệm" mà nó đã từng chiêm ngưỡng
được nhưng đã bị lãng quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự "tự ý thức về mình
của ý niệm tuyệt đối".
Khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan,
những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật
và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận
thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức được
thế giới của con người hoặc hạn chế ở cảm giác bề ngoài của sự vật.
Đối lập với những quan niệm đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng

nhận thức được thế giới của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính
trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức
là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động
của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Chính vì
thế mà C.Mác đã nhận xét rằng: "Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa
duy vật từ trước tới nay, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự vật, hiện
thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình
thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người,
là thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ quan".
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm sai
lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được
giải quyết một cách khoa học, đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức.
2/ Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a/ Khái niệm
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá
trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người,
có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các
thành tựu khoa học, C. Mác và Ph. Angghen đã xây dựng nên học thuyết biện
chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng
trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng


đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ
bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách

quan; coi nhận thức là sự phản ánh thê giới khách quan vào bộ óc con người, là
hoạt động khách quan của chủ thể; thừa nhận không có gì là không thể nhận thưc
được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trinh tự từ chưa biết đến biết,
tư biết ít đến nhiều, tư chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu săc và toàn diện
hơn,..
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
b/ Bản chất, nguồn gốc của nhận thức
Nhận thức luận đã đc hình thành cùng vs sự x.h của triết học vs tư cách là 1
trong những phân môn TH nền tảng. Mọi NT luận đều nghiên cứu bản chất của
NT, khả năng NT của con người, về các đối tượng hiện thực, các thuộc tính, các
mối liên hệ của chúng, về các tính quy luật cơ bản của quá trình NT từ quan niệm
hời hợt về đối tượng đến việc nắm bắt đc bản chất của nó, về nguồn gốc và các
pp NT, về các hình thức diễn ra quá trình NT, và lquan đến điều này, nó nghiên
cứu các con đường đạt tới chân lí, các tiêu chuẩn của chân lí. Trình bày những
nguyên tắc xuất phát điểm của lí luận NT, Leenin viết “ Sự sống sinh ra bộ óc.
Giới tự nhiên đc phản ánh trong bộ óc của con người. Trong khi kiểm nghiệm và
áp dụng sự đúng đắn của những phản ánh ấy vào thực tiễn của mình và trong kĩ
thuật, con người đạt tới chân lí khách quan”. Nhưng con người ko thể nhận thức
chân lí như là chân lí, nếu chưa mắc phải những sai lầm, vì thế lí luận NT nghiên
cứu cả việc con người mắc sai lầm ntn và làm cách nào để khắc phục chúng.
Cuối cùng, vấn đề luôn thời sự nhất đối với toàn bộ NT luận vẫn đã và đang
là vấn đề tri thức đáng tin cậy về TG, về bản thân con người và xã hội loài người
có ý nghĩa thực tiễn ntn. Những vấn đề đó và vấn đề nảy sinh trong các lĩnh vực
khoa học khác và trong thực tiễn XH, đã làm hình thành hệ vấn đề rộng lớn của
NT luận mà kết hợp lại cần phải trả lời câu hỏi: tri thức là gì? Chỉ có tri thức về
bản chất đối tượng mới cho phép con người sd nó phù hợp với nhu cầu và lợi ích
của mình. Tri thức là sợi dây gắn kết giữa tự nhiên, tinh thần con người và hoạt

động TT. Tri thức là các mô hình về các đối tượng của thế giới bên ngoài; TG
khách quan, vật chất, giới tự nhiên đều là nguồn gốc của cảm giác, ý thức, tư duy,


tức của NT. Ko thể có bất kì NT nào nếu thiếu sự tác động của các đối tượng. Từ
đó suy ra qtrinh NT diễn ra dưới hình tức liên hệ và tương tác biện chứng lẫn
nhau giữa chủ thể và khách thể NT.
Như vậy, mục đích trực tiếp của mọi NT là sáng tạo ra các loại tri thức vs
những trình độ NT # nhau, nhưng mục đích cuối cùng của NT là để phục vụ sự
phát triển của TT.
3/ Chủ thể, khách thể và đối tượng của NT
a, Chủ thể của NT
Chủ thể NT là con người, bởi cá thể người có khả năng phản ánh vào ý thức
của mình những đối tượng hiện thực. NT chỉ đc thực hiện bởi những cá nhân cụ
thể hiện thực, ngoài họ ra ko thể có tư duy nhận thực khoa học. Nhưng, đó ko laf
con người chỉ vs những thuộc tính sinh học xác định, mà trước hết là con người
XH, cong người trong hoạt động thực tiễn sinh động. Con người chỉ nhận thức
khi là thành viên của XH, bởi các hình thái ý thức XH đã ảnh hưởng căn bản đến
nội dung NT. Và do vậy, chủ thể của tư duy, NT cũng ko thể là trí tuệ nhân tạo có
khả năng giống như con người, lưu giữ và xử lí thông tin, bởi vì, tư duy NT là
quá trình phản ánh tích cực hiện thực bằng các khái niệm, các phán đoán, các lí
thuyết khoa học. Mà điều đó có nghĩa là, nó luôn đòi hỏi sự hiện hữu của chủ thể
đặt ra các mục đích, xác định các phương tiện đạt tới chúng, tiến hành việc chỉnh
sửa NT trên cơ sở TT.
b, Khách thể và đối tượng của nhận thức
Khách thể nhận thức là những đối tượng vật chất hay tinh thần mà hoạt động
NT của chủ thể hướng đến. Khách thể nhận thức ko đồng nhất với toàn bộ hiện
thực vật chất hay tinh thần. Chỉ có những lĩnh vực hiện thực đã được thu hút vào
hoạt động NT của chủ thể mới trở thành khách thể.
Đối tượng NT là 1 phân khúc của hiện thực ít nhiều hẹp hơn, đc tách ra từ

tổng các khách thể trong quá trình nhận thức. Cùng 1 khách thể NT có thể là đối
tượng nghiên cứu của các khoa học # nhau.
4/ Các trình độ và các giai đoạn nhận thức
a, Các trình độ nhận thức
Theo quan điêm duy vật biên chứng, nhận thức là một quá trình. Đó là quá
trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiêm đến trình độ nhận thức lý luận; tư
trình độ nhân thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học. Dựa trên
nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình
phản ánh biện chứng tích cực, tự giác và sang tạo thế giới khách quan vào trong
đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức kinh nghiệm là nhận thức hình thành từ sự quan sát các sự vật
hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các hiện tượng nghiên cứu khoa


học. Kết qủa của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức
này có 2 loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và nhưng tri thức kinh nghiệm
khoa học. Hai loại tri thức đó có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.
Nhận thức lý luận là trính độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
→ Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó,
nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức
lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; nó trực tiếp gắn chăt với hoạt động thực
tiễn, tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa bổ sung cho lý luận đã có và
tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên nhận thưc kinh nghiệm còn hạn
chế ở chỗ nó chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được
từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại những mặt hiểu biết
về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được các bản chất, nhưng
mối liên hệ mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. vì vậy nhận thức kinh
nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược

lại, mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức
lý luận không hình thành một cách tự phát, trưc tiếp từ kinh nghiệm do tính độc
lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng
dẫn sự hình thành những tri thúc kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn nhũng kinh
nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần lam biến đổi đời
sống của con người, thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ cái là
chỗ cụ thể, riêng lẻ đơn nhát thành cái khái quát, có tính phổ biến.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự
phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật,
hiện tượng xảy ra với tất cả những đăc điểm,chi tiết, cụ thể và những sắc thái
khác nhau của sự vật. Vì vậy nhận thức thông thường mang tính phong phú,
nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, Vì thế, nó có
vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới sự trừu tượng logic. Đó là các khái
niệm, phạm trù và các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tình khách
quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa có tính hê thống, có căn cứ và có tính chân
thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn
ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sác bản chất và quy luật
của đối tượng trong nghiên cứu. Vi thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng
to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ
hiện đại.


→ Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác
nhau về chất của quá trình nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức chân thực.
Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức
thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng
nội dung của khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri

thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát
đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa
học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, làm cho nhận thức
thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con
người nhận thức thế giới.
b, Các giai đoạn của NT
Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con
người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn
giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên
ngoài đến bản chất bên trong, như sau:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu
tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để
tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình
thức sau:
Cảm giác: là hình thức nhận của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động
trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự
hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài
thành yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ
thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự
vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải
vươn lên hình thức nhận thức cao hơn".
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật
khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự
tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ
hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và
không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi
phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc
trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ

quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức
cao hơn.
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh


sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp
vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa
đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung
lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp.
Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự
vật.
Giai đoạn này có các đặc điểm:
- Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
- Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất
và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
- Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ
bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên
giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh
gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái
niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc
tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát,
tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy,
các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ
tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm
có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các
phán đoán và tư duy khoa học.
Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau
để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Theo

trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán
đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến . Ở đây phán đoán phổ
biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng. Nếu
chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn
nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với
cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù
với cái đơn nhất và cái phổ biến. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải
vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau
để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Ngoài suy luận,
trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh
chóng và đúng đắn.
Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
- Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.


- Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính không tách bạch nhau mà luôn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận
thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật
sự của sự vật. Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là
đúng hay sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận
thức được. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích
của nhận thức. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới
mà để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định
hướng thực tiễn.

III. Bản chất mối quan hệ giữa nhận thức và thưc tiễn
Đúng là thực tiễn không thể thiếu nhận thức. Song luận điểm đó không
chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực tiễn và nhận

thức.
Thứ nhất cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã
đạt được trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động
nhận thức có một giá trị độc lập, còn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở
lý luận, có giá trị như là một mô hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó
( mục đích, mô hình, lý tưởng), trong trường hợp này, không có một giá trị độc
lập, nó không có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội.
Thứ hai, đương nhiên là có một cơ chế để đưa các kết quả hoạt động nhận
thức vào thực tiễn. Chính cơ chế này đã chế định một khuynh hướng nghiên cứu
mới - nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, đòi hỏi chúng ta phải
có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội do
quần chúng tiến hành đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận
thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó không thể thiếu
nhận thức lý luận, nhận thức được tiếp biến vào các mục đích và các chương
trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy, giữa nhận thức và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ
không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng nhận thức nhiều đến đâu
đi chăng nữa, thì thực tiễn và nhận thức vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực
tương đối độc lập của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của
hoạt động nhận thức) cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói cách khác, hoạt động
bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính


lịch sử - cụ thể - đó là khâu nhận thức (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải
tạo hiện thực ).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể
hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thề - khách thể. Thực tiễn là khâu trung
gian cơ bản giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây không đơn giản là con
người có tư duy nhận thức, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua
tồng thể các đặc trưng xã hội của nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó

tác động đến khách thể. Thực tiễn có thề nói, là hình thức liên hệ thực tại khách
quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của
mình trong khách thề, phát triển các năng lực của mình. Như vậy, ngoài thực tiễn,
chủ thể không có một phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế
giới sang việc thực hiện nó trong thế giới.
Thực tiễn và nhận thức có tính tương đối của sự đối lập. Tính tương đối của
sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ nhận thức của con
người với thế giới không bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực
tiễn. Hơn nữa, quan hệ nhận thức luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và
phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở
quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý
thức và ý chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ nhận thức của chủ thể với khách
thể với tư cách là vòng khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn, được vạch rõ cả trên các bình điện
bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết, cần phải phân biệt tính chất của mối
liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể
tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu nhận thức, đương nhiên
là hình thức vả trình độ của nhận thức có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý
luận). Nếu các đặc tính "thử nhất" và "thứ hai" áp dụng được vào quan hệ giữa
vật chất và ý thức, thì chúng lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn
và nhận thức. ở đây chỉ có thể nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống
nhất. Nói cách khác, xét về phương diện bản thể luận, nhận thức và thực tiễn tạo
thành một thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng
trong khuôn khổ của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là
các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên
nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu nhận thức. Xét
về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập , thì
thực tiễn và nhận thức lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có



nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức
về hiện thực và bản thân hiện thực.
Quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức là một quá trình mang tính lịch sử - xã
hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất
biện chứng của quá trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta luôn có
được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển
cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.

IV. Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức
1/ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a, Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt
các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và
quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các
vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành.
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn,
các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức vì xét đến cùng mọi tri thức của con người
đều có nguồn gốc từ thực tiễn do đó mà nói rằng thực tiễn là cơ sở của nhận thức.
Nhận thức ngay từ đầu đã xuất phát từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Do yêu
cầu sản xuất vật chất và đấu tranh cải tạo xã hội buộc con người phải nhận thức
thế giới. Nhờ có thực tiễn mà con người nhận thức ngày càng sâu sắc và đầy đủ
thế giới xung quanh.
Mọi sự hiểu biết của con người dù gián tiếp hoặc trực tiếp đều bắt nguồn từ
thực tiễn. Nhờ sự tiếp xúc, tác động vào sự vật hiện tượng mà con người phát
hiện ra các thuộc tính, bản chất của chúng.Về phương diện thực tiễn, trên cơ sở
sự tương tự về cấu trúc giữa các quá trình diễn ra trong giới tự nhiên vô sinh, sự
sống và xã hội(tư duy) người ta đã chế tạo ra hệ thống máy tự động, hoạt động
theo cơ chế tương tự bộ não và các giác quan con người.

Mọi nhận thức của con người đều có nhận thức từ thực tiễn, thực tiễn cung
cấp những tài liệu hiện thực khách quan làm cơ sở cho người nhận thức bằng


hoạt động thực tiễn con người tác động ở thế giới khách quan và phải bộc lộ ra
những đặc trưng, những thuộc tính, những quy luật vận động và phát triển để con
người nhận thức và thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn con người đã
sáng tạo ra những công cụ những phương tiện ngày càng tinh xảo để nhận thức
thế giới và hoạt động thực tiễn làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Như vậy, thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức (lý luận), mọi tri thức dù
hình thành ở trình độ nào, giai đoạn nào, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực
tiễn.
b, Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định.
Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận
thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những
phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức.
Thực tiễn là động lực bởi thực tiễn đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ, phương
hướng, cho nhận thức phát triển. Thực tiễn còn tạo ra các tiền đề vật chất cần
thiết cho nhận thức.
Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc
đẩy nhận thức phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức,chẳng
hạn: từ nhu cầu chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con
người khám phá ra bản đồ gen người...,từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé
nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người sáng tạo ra các kính hiển vi... Quá trình
hoạt động thực tiễn là quá trình phát triển và hoàn thiện các giác quan của con
người. Nhờ đó khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc hơn.
c, Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào
thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức

mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan , đáp ứng những nhu cầu vật chất và
tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực
tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm


phục vụ hoạt động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn. Thế giới vật chất
luôn luôn vận động và phát triển, do vậy nó luôn đặt ra những nhu cầu, những
nhiệm vụ, những xu hướng trong quá trình nhận thức đã thúc đẩy ra đời mạnh
mẽ, tự nhiên và xã hội ngày nay nhiều môn học mới, ngành học mới ra đời trên
cơ sở nhu cầu cuộc sống của con người (tin học, dân số học, bình đẳng giới, môi
trường học, hà nội học, Việt Nam học...) đều do thực tiễn con người đòi hỏi. Vậy
mục đích của quá trình nhận thức không chỉ để nhận thức mà để cải tạo hiện thức
khách quan theo nhu cầu lợi ích của con người. Do vậy thực tiễn vừa là động lực
vừa là mục đích của nhận thức.
d, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng
thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Thực tiễn mang tính khách quan
có tích lịch sử xã hội, thực tiễn là cơ sở là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức đúng
sai. Chỉ có đem những tri thức tu nhận được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới đánh
giá được tính đúng đắn hay sai lầm của chúng. Chỉ TT mới cho câu trả lời, tri
thức có phù hợp vs hiện thực hay ko. Suy ra, TT thể hiện như hình thức liên hệ
đặc thù giữa vật chất và ý thức. Lí luận NT nếu ko bao gồm hoạt động thực tiễn
của con người như bộ phận hợp thành căn bản của NT, thì mãi vẫn cứ là lí luận
NT trực quan với hạn chế chủ yếu là đối tượng, hiện thực đc xét chỉ dưới dạng
khách thể, bằng trực quan. Chỉ có những tri thức đã vượt qua đc ngọn lửa thanh
lọc của TT mới có thể có tính khách quan, tình chân thực đáng cậy, để trở thành
chân lí. Đồng thời, TT ko ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và
hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy

của con người có thể đạt tới chân lý khách quan ko, hoàn toàn ko phải là 1 vấn đề
lý luận mà là 1 vấn đề thực tiễn. Chính trong TT mà con người phải chứng minh
chân lý”.

2/ Nhận thức tác động trở lại thực tiễn
Nếu nhận thức không có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới


thì chứng tỏ thực tiễn sai lệch. Nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn mà không
có nhận thức thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa.
Nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan
trong ý thức con người, trên cơ sở thực tiễn. Nhận thức là nơi tổng kết, đúc kết
thực tiễn ban đầu. Nhưng đó chưa phải là điểm cuối cùng của quá trình nhận thức
mà nhận thức tiếp tục phải tiến tới thực tiễn.
Nhận thức khoa học vận dụng vào một hệ thống các phương pháp nghiên
cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu
sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa
học ngày càng có vai trò to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại
khoa học và công nghệ hiện đại.
Thực tiễn mà không có lý luận khoa học, tư duy của nhận thức, cách mạng
khoa học soi sáng thì nhất định sẽ biến thành mù quáng. Khi đã có những nhận
thức đúng đắn từ thực tiễn ta đã đạt được những tiêu chuẩn của chân lý. Thực tế
cho thấy, lí luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực tiễn cách mạng. Lê Nin
viết: “ Không có lí luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”.
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu
kỳ nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá
trình nhận thức, song chúng có những chức năng nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận
thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, thì
nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất,

quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp nhận thức cảm tính có
được sự định hướng đúng đắn và trở nên sâu sắc hơn.
- Tuy nhiên, nếu dừng lại ở NT lí tính thì con người mới chỉ có đc những tri
thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thực sự chính xác ko thì con
người vẫn chưa thể biết đc. Trong khi đó, NT đòi hỏi phải xác định xem những tri
thức đó có chân thực hay ko. Để thực hiện điều này, NT nhất thiết phải trở về với
TT, dùng TT làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã
đạt đc trong quá trình NT. Mặt khác, mọi NT suy đến cùng đều là xuất phát từ
nhu cầu TT và trở lại phục vụ TT.
- Như vậy, có thể thấy, quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá
trình vận động, phát triển của nhận thức là : Từ thực tiễn đến nhận thức – từ nhận
thức trở về với thực tiễn - từ TT tiếp tục quá trình phát triển NT…quá trình này


lặp đi lặp lại không có điểm dừng cuối cùng, trình độ nhận thức và thực tiễn ở
chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần
tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người
vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt
động thực tiễn của mình. Thực tiễn phát triển là nhờ những vận dụng đúng đắn
những nhận thức chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn của
mình.

V. Sự vận dụng của Đảng về mối quan hệ giữa nhận thức
và thực tiễn
1/ Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lenin, tư tưởng HCM cũng như các tri
thức khoa học mà nhân loại đã đạt đc vào đk cụ thể ở nước ta
Thời đại ngày nay đang có những biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống XH. Để hội nhập và phát triển, ko bị hòa tan trong xu thế toàn
cầu hóa hiện nay, Đảng ta đã chủ động vận dụng lí luận Mác- Lenin, tư tưởng

HCM vào hoàn cảnh cụ thể của TT CMVN hiện nay. Đại hội IX của Đảng đã
khẳng định lấy chủ nghĩa MLN, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động . Đó là phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lí luận
của Đảng ta.
Vận dụng lí luận hình thái KTXH của triết học MLN, Đảng ta cho rằng, con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Đây là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua 1 thời kì quá độ lâu
dài, nhiều hình thức tổ chức KTXH có tính chất quá độ.
Vận dụng lí luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của CN MLN, ĐẢng ta
cho rằng, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, thực hiện công = XH, chống áp bức, đấu tranh, ngăn chặn và khắc
phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch để bảo vệ độc lập dân
tộc, kiên định con đường đi lên CNXH.
Vận dụng các quy luật kinh tế của thời kì quá độ, Đảng ta chủ trương thực
hiện nền KT thị trường định hướng XHCN.


Đảng ta kiên định mục tiêu của CMVN là độc lập dân tộc phải gắn liền vs
XHCN, dân giàu, nước mạnh, XH công =, dân chủ, văn minh.
Thời đại ngày nay là thời đại KT tri thức. Cuộc CM KH-CN ảnh hưởng sâu
sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống Xh. Thực tế những thành tựu của công cuộc đổi
mới của Đảng hơn 20 năm qua cho thấy rằng, Đảng đã vận dụng sáng tạo các tri
thức KH nhân loại vào đk cụ thể nước ta. Đảng chủ trương tiếp thu tinh hoa, trí
tuệ của nhân loại = cách tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH,
CN. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ; ưu tiên, quan tâm và tạo đk
cho đội ngũ tri thức, khuyến khích các nhà KH có nhiều công trình nghiên cứu
xuất sắc. Về phương châm “đi tắt đón đầu”, Đảng chủ trương đi sâu, phát triển
nhanh 1 số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao ...

Đảng cũng chỉ rõ, KHXH nhân văn tập trung hướng vào giải đáp các vấn đề
lí luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho
việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển KTXH, xây dựng
con người, sáng tạo những giá trị văn hóa mới của VN.
2/ Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn vào VN và quốc tế để tiếp tục
hoàn thiện lí luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN
Tình hình TG và trong nước hơn 30 năm qua là cơ sở để Đảng ta tổng kết
kinh nghiệm TT hoàn thiện mô hình CNXH.
Ở nước ta, sau thắng lợi năm 1975, do chủ quan, nóng vội tiến nhanh lên
CNXH, mô hình KT kế hoạch hóa bao cấp ko còn phù hợp đã gây cản trở tới tiến
trình phát triển xã hội, ở bên ngoài các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, 2 cuộc
chiến tranh mới xảy ra đã làm nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng KTXH
trầm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới
tư duy lí luận về CNXH và con đường đi lên CN của nước ta. Mỗi kì Đại hội
Đảng là 1 dịp để Đảng ta tổng kết kinh nghiệm, thực hiện, bổ sung, phát triển lí
luận MLN.
Từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện tất cả các lĩnh vực của đời sống XH, trong đó có mọi phương hướng đổi mới
phải xuất phát từ thực tiễn như văn kiện ĐH VI của Đảng đã xác định “Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là đk đảm bảo sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng”.
Đại hội lần IX cũng nhấn mạnh “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và


cuộc sống XHVN, tham khảo kinh nghiệm tốt của TG, ko sao chép bất cứ 1 mô
hình có sẵn nào”. Những nhận định trên của Đảng chính là sự tiếp thu và vận
dụng đúng đắn quan điểm của HCM về CM XHCN, phải lấy thực tế làm điểm
xuất phát để xác định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ CM, kết hợp chặt chẽ

giữa lí luận và TT để xác định chủ trương, chính sách. Trên cơ sở đó, văn kiện
ĐH IX tiếp tục làm rõ “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lí luận, thảo
luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ TT;
từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu
tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai trái”. Chỉ có như vậy con đường đến
CNXH của chúng ta mới giảm bớt gập ghềnh, quoanh co.
Đại hội X tiếp tục khẳng định “đổi mới ko phải xa rời mà là nhận thức đúng,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MLN, tư tưởng HCM, lấy đó làm nền
tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động CM”, “phải đổi mới từ
nhận thức, tư duy đến hoạt động TT”, “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phải phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ
TT, nhạy bén vs cái mới”.
Như vậy, có thể nói Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lí luận MLN vào thực tế
công cuộc đổi mới ở nước ta. Đến nay, về cơ bản hệ thống quan điểm lí luận về
công cuộc đổi mới và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã hình thành, nhận
thức về CNXH ngày càng sáng tỏ hơn. Đó là cơ sở cho việc xây dựng và phát
triển đường lối của Đảng, góp phần bổ sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa
MLN, tư tưởng HCM về CNXH.
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, liên tục tổng kết kinh nghiệm
TT, chúng ta ngày càng thấy rõ hơn con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Những vấn đề lí luận trên đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lí luận
trên cơ sở tổng kết TT của Đảng, là minh chứng cho việc Đảng vận dụng sáng tạo
lí luận MLN, tư tưởng HCM về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN.
3/ Trong giáo dục - đào tạo phải kết hợp nhà trường với XH, lí luận với TT
Đảng ta xác định: “Phát triển GD&ĐT là 1 trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là đk để phát huy nguồn lực con người ...”
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và TT, Đảng chủ trương GD,
ĐT phải đáp ứng đc nhu cầu phát triển của XH, kết hợp giữa lí luận vs TT, học đi
đối vs hành. Có như vậy, con người mới phát triển 1 cách toàn diện, ko bị dập
khuôn, máy móc ở 1 vấn đề nào đó. Đây chính là sự vận dụng của Đảng về mối



quan hệ giữa nhận thức, lí luận với TT để giúp cho nền GD đổi mới sáng tạo,
năng động, ko bị lặp lại “bệnh giáo điều” hay “bệnh kinh nghiệm” trong XH cũ.

Kết luận
Tóm lại, NT của con người phát sinh từ TT, nhằm phục vụ TT, phát triển
cùng với sự phát triển của TT và chịu sự kiểm tra của TT. NT phải dựa vào TT,
NT mà tách rời TT thì căn bản là ko thể giải quyết đc ván đề gì. Như vậy, TT
chẳng những là điểm xuất phát của NT, là yếu tố đóng vai trò quyết định với sự
hình thành và phát triển của NT mà còn là nơi NT phải luôn luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Khẳng định TT là cơ sở của NT ko có nghĩa
là coi nhẹ NT. TT và NT luôn tác động lẫn nhau. NT, nhất là NT lí tính, phản ánh
tính quy luật và bản chất của hiện thực khách quan, có vai trò chủ đạo quan trọng
đối với TT. Tùy theo việc nâng cao trình độ phát triển của TT mà tác dụng chỉ
đạo của NT cũng ko ngừng thể hiện 1 cách rõ ràng, nó thường đi trước TT, dẫn
dắt TT. Theo đà tến bộ LSXH, tác dụng dẫn dắt của NT khoa học càng thể hiện
rõ ràng. Việc nghiên cứu lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học đi đôi với hành,
lý thuyết đi liền với thực hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới chủ quan, duy ý
chí, giáo điều máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò củ thực
tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên
tắc thống nhất giữa TT và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động TT
và hoạt động lý luận; lý luận mà ko có TT làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định
tính chân lý của nó thì chỉ là lý luận suông. Ngược lại, TT mà ko có lí luận khoa
học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành TT mù quáng.
Vì những lẽ trên, sau khi đất nước độc lập, bước vào giai đoạn tái thiết, xây
dựng đất nước, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – LêNin làm kim chỉ nam cho mọi
hành động. Xuất phát từ thực tiễn, đúc kết thành lý luận. Trong từng kì đại hội,
Đảng ta đã chỉ rõ những mặt hạn chế, những mặt tích cực của lí luận để rút ra
những bài học kinh nghiệm vận dụng vào thực tế. Từ sau đổi mới 1986 đến nay,

đất nước từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, đời sống của nhân
dân từng bước được nâng cao. Đó là những thành công của quá trình đổi mới.
Thành công đó nhờ vào sự vận dụng một cách sáng tạo, khoa học mối quan hệ
giữa TT và NT của chủ nghĩa MLN.




×