Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo khoa học: Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận vỡ thực tiễn trong cách mạng tháng tám - một số bài học kinh nghiệm docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.33 KB, 7 trang )









Báo cáo khoa học
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận vỡ thực tiễn
trong cách mạng tháng tám - một số bài học kinh
nghiệm








Tạp chí KHKT Nông nghiệp 2007: Tập V, Số 4: 87-92 Đại học Nông nghiệp I

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
trong cách mạng tháng tám - một số bài học kinh nghiệm
A dialectic relationship between theory and practice in the August revolution- some lessons
from experience
Lê Diệp Đĩnh
*
SUMMARY
Vietnams August Revolution in 1945 was a typical democratic and national revolution led
by the Vietnamese Communist Party and gained a great victory for the first time by a colony. A


great deal of valuable lessons is drawn from victory of the August Revolution, especially
lessons related to a dialectic relationship between scientific theories and revolutionary
practice. A revolution that progresses on the right track to a complete victory needs guiding by
scientific theories. If there is no guiding scientific theory, no creative revolutionary practice will
be made. On the contrary, scientific theories are only vivid and become material strength as
long as they are applied in compliance with practice. On the occasion of the 67
th
anniversary of
the August Revolution and the day of Vietnamese Peoples Arm, some thoughts of roots of the
current great achievements may help identifying some experience lessons, which are vital for
renovation and reforms of the national education.
Key words: dialectic relationship, theory and practice, the August Revolution, Marxism -
Leninism.

1. ĐặT VấN Đề
Cách đây 67 năm, ngày 2 tháng 9, với Bản
Tuyên ngôn Độc lập bất hủ do Chủ tịch Hồ Chi
Minh đọc tại quảng trờng Ba Đình lịch sử , đã
khai sinh ra nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc Việt
Nam hoàn toàn đợc tự do, độc lập.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ điển hình do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành
đợc thắng lợi ở một nớc thuộc địa. Với
thắng lợi của cách mạng tháng Tám, nhân dân
Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ
nghĩa đế quốc gần một thế kỷ trên đất nớc ta,
chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ
chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nớc

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhà nớc
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân mà nay là nhà
nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
nhà nớc của dân, do dân, vì dân.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là
thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và t
tởng Hồ Chi Minh, lý luận khoa học-cách
mạng của thời đại chúng ta vận dụng vào thực
tiễn cách mạng ở một nớc thuộc địa có nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Trong cách mạng
tháng Tám có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý
luận và thực tiễn, giữa cách mạng và sáng tạo.
Nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học
quá trình diễn biến, đi đến thắng lợi của cách
mạng tháng Tám, dới giác độ mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn, đang có ý nghĩa thiết
thực to lớn.
Sự nghiệp đổi mới đất nớc ngày nay là
tiếp tục thắng lợi của cách mạng tháng Tám-
1945. Những năm qua, dới sự lãnh đạo của
Đảng, nỗ lực của toàn dân, sự nghiệp đổi mới
đất nớc đã đạt đợc nhiều thành tựu quan
trọng có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, trớc
mắt còn có nhiều thách thức to lớn, nhất là
trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo. Nghị lực đã
có, quyết tâm đã có, nhân lực, tài lực, vật lực
cũng đã có. Vấn đề là làm nh thế nào? Kinh
nghiệm thành công của cách mạng tháng Tám
sẽ góp phần giải đáp những vấn đề trăn trở của
giáo dục-đào tạo hôm nay. Đúng nh Bộ

trởng Nguyễn Thiện Nhân (2007) đã chỉ ra:

*
Khoa Mac- Lê Nin, Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội.
87
Lê Diệp Đĩnh

Đổi mới, chấn hng giáo dục-đào tạo, chúng
ta phải trả lời đợc câu hỏi tại sao cha, ông ta
áo vá chân đất vẫn thắng Pháp, thắng Mỹ. Tại
sao ngời Việt Nam trong quá khứ áo vá, chân
đất vẫn sống hạnh phúc. Bài viết này rút ra
một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thiết
thực cho sự nghiệp đổi mới, trong đó có giáo
dục đào tạo (Vnexpress- ngày 29/8/2007).
2. CƠ Sở Lý LUậN Và PHƯƠNG PHáP
NGHIÊN CứU
Lấy thực tiễn cách mạng dân tộc, dân chủ,
nhân dân diễn ra ở Việt Nam dới sự lãnh đạo
của Đảng CSVN giai đoạn (1930-1945) làm
căn cứ để nghiên cứu.
Xuất phát từ các nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, trong đó quan trọng nhất là các nguyên
lý: tính khách quan của sự xem xét; nguyên lý
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sản
xuất vật chất là cơ sở quyết định sản xuất tinh
thần, văn hóa, giáo dục - đào tạo; nguyên lý:
phát huy tính tích cực, năng động của ý thức,
của nhân tố con ngời trong hoạt động thực

tiễn, cùng với công cụ nghiên cứu là phép biện
chứng duy vật khoa học với các nguyên tắc:
toàn diện, nguyên tắc: lịch sử - cụ thể, nguyên
tắc: phát triển, kết hợp với nguyên lý lý luận về
mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn, học thuyết về chân lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng để phân tích, tổng hợp, đánh
gía, khái quát hóa, trừu tợng hoá các sự
kiện lịch sử của cuộc cách mạng giai đoạn
(1930-1945) nhằm rút ra một số bài học kinh
nghiệm.
Dựa vào ý kiến của một số nhà khoa học
nh Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thiện Nhân,
Nguyễn Trí Dũng về giáo dục-đào tạo ở
nớc ta hiện nay; suy ngẫm những bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng tháng
Tám, từ đó nêu ra một số ý kiến đóng góp vào
sự nghiệp đổi mới giáo dục-đào tạo.
3. KếT QUả NGHIÊN CứU Và THảO LUậN
3.1. Không có lý luận cách mạng, không có
phong trào cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm
1930. Sự ra đời của Đảng chính là sản phẩm
của sự kết hợp giữa lý luận khoa học-cách
mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin, với phong trào
công nhân, phong trào yêu nớc Việt Nam. Sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về sự lãnh đạo cách
mạng Việt Nam mấy chục năm. Sự thất bại của
phong trào Cần vơng 1885-1886, phong trào

Đông du 1906-1908, phong trào Đông kinh
nghĩa thục 1908 và phong trào cách mạng quốc
gia t sản 1927-1930 chứng minh điều đó
(Giáo trình Lịch sử Đảng, 2006, tr.54).
Sự ra đời của Đảng, với cơng lĩnh chính
trị đúng đắn là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có
tính quyết định cho những bớc phát triển nhảy
vọt, trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt
Nam, đợc mở đầu bằng cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Sau nhiều năm bôn ba nớc ngoài, Nguyễn
ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã phát hiện ra chân lý
của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và
Ngời đã có công du nhập chủ nghĩa Mác -
Lênin vào Việt Nam; phá vỡ sự bế tắc về đờng
lối của cách mạng Việt Nam mấy chục năm. Sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận
khoa học - cách mạng, với thực tiễn cách mạng
Việt Nam đầu thế kỷ XX đã dẫn tới sự thành
lập Đảng cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
sau này.
Nh vậy, có thể nói, nếu không có chủ
nghĩa Mác - Lênin, không có Nguyễn ái Quốc,
không có sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam sẽ không có cách mạng Việt Nam và
không có đất nớc Việt Nam thống nhất, đổi
mới ngày nay.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận khoa học -
cách mạng của thời đại đến với thực tiễn cách

mạng Việt Nam không phải nh chân lý vĩnh
cửu, không thể vợt qua; không phải là công
thức bất di bất dịch đời đời không thay đổi, mà
chỉ nh ngọn đèn soi đờng cho nhân dân ta đi
trong đêm tối để không nhầm đờng lạc lối mà
thôi. Lênin từng chỉ ra rằng: không có lý luận
cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng,
đồng thời Ngời còn căn dặn: cùng lắm, lý
luận cách mạng cũng chỉ đóng vai trò kim chỉ
nam dẫn đờng, định hớng cho hành động
cách mạng là nh vậy.

88

Chính cơng vắn tắt do Nguyễn ái Quốc
trình bày tại hội nghị thành lập Đảng tháng 2
năm 1930 đã xác định phơng hớng chiến
lợc của cách mạng Việt Nam, đó là: làm t
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản (Giáo trình
Lịch sử Đảng, 2006, tr.56). Nh vậy là nhờ ánh
sáng của lý luận Mác - Lênin, mục tiêu của
cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cách
mạng nớc ta nói chung, đã đợc Đảng nhận
thức và phản ánh trong lý luận từ rất sớm, khi
Đảng vừa mới ra đời. Mục tiêu ấy đã hớng
dẫn, soi đờng cho phong trào cách mạng Việt
Nam suốt 15 năm đến cách mạng tháng Tám
thành công và cho tới ngày nay, cho dù sự vận
động của thực tiễn phong trào cách mạng dới

sự lãnh đạo của Đảng ở mỗi giai đoạn lịch sử
cụ thể khác nhau là khác nhau. Thoái trào
(1932-1935) là tranh thủ đấu tranh củng cố,
xây dựng lực lợng, phát triển cách mạng; giai
đoạn (1936-1939) là mở rộng đoàn kết chống
chiến tranh phát xít thì mục tiêu ấy vẫn
không thay đổi. Hơn nữa, mục tiêu cách mạng
của từng giai đoạn lịch sử cụ thể chính là sự cụ
thể hoá mục tiêu chung. Nhờ có đờng lối
đúng đắn ấy mà cách mạng Việt Nam giành
đợc nhiều thắng lợi, thắng lợi sau lớn hơn
thắng lợi trớc.
Nh vậy, bài học đầu tiên dẫn tới thành
công của cách mạng tháng Tám, có thể thấy ở
đây chính là: vai trò của lý luận Mác - Lênin,
vai trò của đờng lối cách mạng do Đảng Cộng
sản Việt Nam xây dựng trên cơ sở vận dụng lý
luận Mác - Lênin phù hợp thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Chính nhờ sự định hớng, chỉ đạo
đúng đắn của lý luận khoa học, của đờng lối
cách mạng sáng tạo ấy, mà thực tiễn cách
mạng nớc ta phát triển đúng hớng, làm cho,
mới 15 năm tuổi, Đảng ta đã lãnh đạo cách
mạng thành công, giành chính quyền, mở ra kỷ
nguyên mới cho lịch sử dân tộc ta.
Nói tới vai trò chỉ đạo, định hớng của lý
luận đối với thực tiễn, có nghĩa là nói tới vai
trò dẫn đờng chỉ lối của tri thức. Trong bất
kỳ lĩnh vực nào, kể cả lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, hoạt động của con nguời cũng do t duy,

tri thức, lý luận hớng dẫn. Đây chính là đặc
trng cao hơn hẳn về chất của hoạt động con
ngời so với hoạt động của con vật. Tuy
nhiên, chỉ có lý luận khoa học - cách mạng
mới có tác dụng hớng dẫn hoạt động thực
tiễn đi tới thành công. Mọi biểu hiện coi
thờng, hạ thấp vai trò của lý luận đều dẫn tới
chủ nghĩa kinh nghiệm, có hại. Thực tiễn cuộc
sống chứng minh điều đó. Chúng ta không
phủ nhận vai trò to lớn của kinh nghiệm,
nhng kinh nghiệm chỉ là chân lý bộ phận mà
cha hẳn là chân lý phổ biến. Tuyệt đối hoá
kinh nghiệm, không thấy vai trò của lý luận là
sai lầm. Ănghen từng khẳng định rằng: một
dân tộc muốn tiến tới đỉnh cao của tri thức thì
không thể không có t
duy lý luận (Chống
Duyrinh, 1960, tr.28). T duy lý luận đợc
hình thành trong quá trình học tập. Đảng ta
chủ trơng coi giáo dục - đào tạo là quốc
sách, là mặt trận hàng đầu. Không thể làm
cách mạng chỉ bằng kinh nghiệm đợc.
Nh vậy, giáo dục-đào tạo muốn thực sự là
mặt trận hàng đầu, là động lực phát triển kinh
tế-xã hội của đất nớc, là chìa khóa mở cánh
cửa để dân tộc ta bớc vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên mở cửa, hội nhập thì cũng cần phải có
lý luận khoa học - cách mạng dẫn dờng. Kinh
nghiệm thắng lợi của cách mạng tháng Tám
mách bảo chúng ta rằng: Cơng lĩnh đúng

đắn, khoa học dẫn đờng, chỉ lối, định hớng
phát triển giáo dục-đào tạo hiện nay đang là
một nhu cầu bức xúc. Phơng châm giáo dục -
đào tạo: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền
với thực tiễn, nhà trờng kết hợp với hoạt động
xã hội và các chủ trơng phát triển giáo dục -
đào tạo khác đã trở nên không còn đủ nữa. Sự
yếu kém toàn diện (Võ Nguyên Giáp, 2007), sự
xuống dốc của nền giáo dục- đào tạo nớc ta
hiện nay đã chứng minh điều đó (Nguyễn Trí
Dũng, 2007).
Trờng Đại học Nông nghiệp có sứ mạng
cung cấp nguồn nhân lực chất lợng cao, đóng
góp thiết thực, hiệu quả cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông
nghiệp, nhất thiết cũng cần có cơng lĩnh đúng
đắn định hớng phát triển nhà trờng, nếu
không muốn rơi vào tụt hậu, lúng túng và trở
thành gánh nặng của nông thôn, nông nghiệp.

89
Lê Diệp Đĩnh

Tuy nhiên, mọi chân lý đều có tính tơng
đối. Điều đó có nghĩa là, chân lý chỉ là chân lý
trong điều kiện nhất định nào đó mà thôi, cũng
nh nớc chỉ sôi ở 100
0
C trong điều kiện tiêu
chuẩn. Do vậy, làm cách mạng cần phải có lý

luận cách mạng dẫn đờng. Nhng lý luận
cách mạng, bản thân nó cũng chỉ là tơng đối
(tránh trợt sang chủ nghĩa tơng đối). Thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta trớc
đây đã chỉ rõ điều này. Điều này có nghĩa là
trong hoạt động thực tiễn cũng nh trong hoạt
động nhận thức, khi vận dụng lý luận, vận
dụng tri thức, không nên phụ thuộc máy móc,
tuyệt đối vào lý luận, vào tri thức. Căn cứ vào
lý luận, vận dụng lý luận nhằm phát hiện và
giải quyết nhiệm vụ thực tiễn đặt ra, nhng nếu
để lý luận trói buộc cách nghĩ, cách làm là giáo
điều, là nô lệ của lý luận. Trớc thời kỳ đổi
mới, chúng ta đã phải trả giá cho những bài
học này, mặc dù bài học lịch sử xã hội các
nớc phơng Đông, tình trạng bị trói buộc, lệ
thuộc máy móc vào những t tởng, lý luận,
nhất là những t tởng, lý luận cũ có từ trớc
đã rất nặng nề. Ví dụ nh sự lệ thuộc vào Phật
giáo, Khổng giáo là nguyên nhân làm cho xã
hội phơng Đông trì trệ kéo dài, trong khi
phơng Tây rất năng động.
Do đó, ngời học, phải học thực chất, phải
học thật, phải tiếp thu đợc cái hồn của tri thức
(không chỉ học thuộc lòng); không tiếp thu
máy móc, giáo điều. Khi làm, phải biết sử dụng
lý luận đã học soi đờng, phải biết vận dụng tri
thức một cách sáng tạo, không rập khuôn, máy
móc. Học để làm, vì làm mà phải học. Sản
phẩm giáo dục đào tạo của nhà trờng phải

là những nhà trí thức sáng tạo, bao gồm:
i)Hiểu biết và cảm thụ sâu sắc đối với nông
dân, nông thôn, nông nghiệp nớc ta; ii)Kiến
thức khoa học công nghệ hiện đại; iii)Năng
lực t duy độc lập, khả năng phát hiện và giải
quyết đợc những vấn đề thực tiễn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông
nghiệp nớc ta đặt ra. Cơng lĩnh của giáo
dục đào tạo hiện nay của nhà trờng cha tạo
ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu xã hội hoặc xã
hội không cần (cả về số lợng, chất lợng và
cơ cấu đội ngũ). Xác lập mối quan hệ giữa
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, nông
nghiệp và sự phát triển nhà trờng phải là quan
hệ biện chứng, sống còn, nơng tựa, làm tiền
đề tồn tại cho nhau.
3.2. Phải xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn
làm căn cứ, là tiêu chuẩn khi vận dụng lý
luận
Mục tiêu xuyên suốt của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở nớc ta đã đợc
Đảng xác định trong luận cơng 1930, đó là
đánh đuổi đế quốc thực dân, đánh đổ địa chủ
phong kiến, thực hiện cách mạng điền địa-
ngời cày có ruộng; đây đợc xem nh cơng
lĩnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của
Đảng. Khi thực hiện mục tiêu này, Đảng ta
không giáo điều, máy móc, dựa vào điều kiện
cụ thể của từng giai đoạn cách mạng để đề ra
chủ trơng, chính sách thích hợp. Nghĩa là, khi

thực hiện lý luận, đờng lối, hay cơng lĩnh,
Đảng luôn xuất phát từ thực tiễn, phân tích tình
hình thực tiễn cụ thể, vận dụng lý luận cho phù
hợp.
Đảng lãnh đạo phong trào dân chủ (1936-
1939) là một ví dụ sinh động về bài học này.
Trớc nguy cơ chiến tranh do phát xít gây ra,
xuất phát từ nghị quyết đại hội VII Quốc tế
Cộng sản, Ban chấp hành TW Đảng ta họp hội
nghị lần thứ II tại Thợng Hải đã chỉ ra: cách
mạng Đông Dơng vẫn là cách mạng t sản
dân quyền-phản đế và điền địa-thành lập chính
quyền công nông để dự bị điều kiện đi tới cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Song xét tình hình cụ
thể, thực tiễn cách mạng giai đoạn này, trình
độ cách mạng cha đạt tới mức trực tiếp đánh
đổ thực dân Pháp, lập chính quyền công nông
và giải quyết vấn đề điền địa. Yêu cầu trớc
mắt là tự do dân chủ, cải thiện đời sống cho
nhân dân, đoàn kết rộng rãi chống chiến tranh
phát xít, chống đế quốc, chống phản động, tay
sai, mở mặt trận dân chủ, đoàn kết các tầng lớp
xã hội, kể cả giai cấp công nhân và Đảng cộng
sản Pháp, thậm chí cả với chính phủ Pháp,
cùng nhau chống kẻ thù chung là bọn phát
xít Làm nh vậy không phải là đối lập hay
quên mục tiêu cách mạng đã định mà chính là
dự bị điều kiện cho cuộc vận động giải phóng
dân tộc, cách mạng điền địa sau này.


90

Nh vậy, ở đây không chỉ là sự vận dụng
lý luận, đờng lối, cơng lĩnh, lấy đó là ngọn
đèn soi đờng chỉ lối, mà còn là phải biết xuất
phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm căn cứ để
vận dụng lý luận, đờng lối, cơng lĩnh. Cần
vận dụng linh hoạt, mềm dẻo lý luận, đờng
lối, cơng lĩnh sao cho phù hợp thực tiễn của
từng thời kỳ.
Cơng lĩnh có tác dụng định hớng phát
triển thực tiễn trong thời kỳ dài, có ý nghĩa
chiến lợc. Tuy nhiên, cơng lĩnh đúng đắn
cũng phải xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn
làm căn cứ trên cơ sở lý luận khoa học nào đó.
Khi đã có cơng lĩnh đúng đắn, vấn đề còn lại
là vận dụng cơng lĩnh ấy phù hợp với từng
thời kỳ cụ thể của thực tiễn đang vận động,
phát triển, để định ra mục tiêu, nhiệm vụ, cách
thức và những bớc đi cụ thể nhằm tổ chức
thực hiện cơng lĩnh thắng lợi. Rõ ràng là, bài
học rút ra từ thực tiễn chỉ đạo cách mạng các
giai đoạn 32-35, 36-39, 40-45 của thế kỷ trớc
trên cơ sở định hớng của cơng lĩnh 1930
dới sự lãnh đạo của Đảng còn nguyên giá trị
cho thực tiễn đổi mới đất nớc hôm nay, nhất
là với đổi mới giáo dục-đào tạo.
Trớc đây, V.I.Lênin từng chỉ ra vai trò to
lớn của lý luận đối với thực tiễn, nhng Ngời
không quên khẳng định: thực tiễn cao hơn lý

luận. Ngời từng viết Quan điểm về đời sống
về thực tiễn là quan điểm thứ nhất của phép
biện chứng duy vật (Lê Nin toàn tập, tập 29).
Điều đó có nghĩa là:
Thứ nhất, chủ trơng, chính sách phải xuất
phát từ thực tiễn. Giảng dạy cái gì, giảng dạy
nh thế nào, phải xuất phát từ ngời học, từ đòi
hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu phát triển kinh tế
xã hội của đất nớc ta. Nội dung giảng dạy-học
tập ở nhà trờng phải phản ánh đợc thực tiễn,
khoa học phải lý giải đợc cuộc sống, phải giải
quyết đợc nhu cầu cuộc sống đặt ra. Nếu lý
luận, nhận thức không phản ánh đúng đắn thực
tiễn cuộc sống, giáo dục không phản ánh đợc
đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nớc thì sẽ rơi vào t biện, duy tâm, suông,
thậm chí biến thành vật cản, gánh nặng cho
kinh tế xã hội của đất nớc.
Thứ hai, khi vận dụng lý luận, phải phát
hiện mâu thuẫn giữa lý luận với thực tiễn, phát
hiện sự không còn phù hợp với thực tiễn của lý
luận, dám vợt qua lý luận đã lỗi thời, kịp thời
tổng kết thực tiễn, bổ sung, sửa chữa, phát hiện
lý luận mới. Điều này cũng hoàn toàn đúng với
giáo dục đào tạo hiện nay, khi nội dung,
phơng pháp giáo dục đào tạo có nhiều mặt đã
tỏ ra lạc hậu, không còn đáp ứng đợc đòi hỏi
của thực tiễn.
Thứ ba, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn,
đòi hỏi phải vận dụng lý luận phù hợp với thực

tiễn, không gò ép thực tiễn, gọt rũa thực tiễn
cho phù hợp lý luận nh gọt chân cho vừa giầy.
Điều kiện thực tiễn khác nhau phải vận dụng
khác nhau. Thực tiễn cách mạng giai đoạn
1936-1939 khác giai đoạn 1930-1931 và khác
giai đoạn 1940-1945. Đó là lý do Đảng ta đề ra
sách lợc mềm dẻo thích hợp với từng giai
đoạn cách mạng để đa cách mạng đến thắng
lợi cuối cùng.
Đất nớc ta đã trải qua 20 năm đổi mới,
nhờ sự nghiệp đổi mới, lịch sử dân tộc ta đã và
đang chuyển sang giai đoạn cách mạng mới.
Từ khép kín, đến mở cửa hội nhập; từ hội nhập
đến chủ động hội nhập; đến tích cực, chủ động
hội nhập kinh tế thế giới và vào WTOlà
những bớc đi rất dài trên con đờng đổi mới.
Đời sống kinh tế-xã hội của đất nớc đã có
những thay đổi mang tính đột biến, có ý nghĩa
quyết định. Tuy nhiên, nền giáo dục- đào tạo
nớc ta vẫn dậm chân tại chỗ hàng chục năm
nay: từ quan điểm, mục tiêu, chơng trình, nội
dung, phơng pháp.đến hệ thống quản lý
giáo dục-đào tạo. Sự trì trệ đến mức khó hiểu.
Phải chăng giáo dục-đào tạo hiện nay ở nớc
ta đang thiếu cả cơng lĩnh khoa học dẫn
đờng và cả sự chỉ đạo cụ thể đúng đắn ?
Nghiên cứu bất kỳ giai đoạn cách mạng cụ
thể nào trong tiến trình lãnh đạo cách mạng
dân tôc, dân chủ, nhân dân ở nớc ta của Đảng,
chúng ta đều thấy nổi lên sự thật hùng hồn,

chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam đ
xuất phát từ thực tiễn sinh động đa dạng
phong phú mà vận dụng thông minh, sáng
tạo lý luận khoa học để đề ra đờng lối đúng
đắn đa cách mạng tiến lên. Đây cũng chính

91
Lê Diệp Đĩnh

là nguyên nhân quyết định dẫn tới mọi thắng
lợi của cách mạng nớc ta từ khi có Đảng. Bài
học thứ hai từ thực tiễn cách mạng tháng Tám
năm 1945 là nh vậy.
Chủ trơng phá kho thóc của Nhật chia
cho dân cày do Đảng ta phát động giữa năm
1945 không chỉ chứng tỏ: Đảng Cộng sản Việt
Nam nắm vững lý luận Mác-Lênin về tình thế
cách mạng , vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam lúc ấy, mà còn nói lên
nghệ thuật tài tình của Đảng ta trong việc chủ
động nắm bắt và tạo ra tình thế cách mạng để
phát động khởi nghĩa kịp thời, đúng lúc giành
chính quyền về tay.
4. KếT LUậN

Ôn cố tri tân. Từ thực tiễn thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng Tám 1945, dới sự lãnh
đạo của Đảng CSVN diễn ra ở Việt Nam, có
thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm còn
nguyên giá trị. Bài học: phải xuất phát từ lý

luận khoa học - cách mạng, dùng lý luận
khoa học - cách mạng định hớng chỉ đạo
hoạt động thực tiễn và bài học phải biết xuất
phát từ thực tiễn, xem thực tiễn là tính thứ
nhất, có mối quan hệ biện chứng bổ sung cho
nhau. Nếu chỉ nắm bài học này mà quên bài
học kia đều có hại, đều không đa lại sự phát
triển cho cả lý luận và thực tiễn. Suy ngẫm
năng lực xử lý tài tình mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn của Đảng trong cách
mạng tháng Tám và những bài học rút ra từ đó,
càng thấm thía những bài học còn nguyên giá
trị ấy, càng vững tin vào thắng lợi cuối cùng
của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xớng và
lãnh đạo./.
Tài liệu tham khảo
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006). Giáo trình
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - NXB
Chính trị quốc gia - Hà Nội, tr.54.
Ăngghen F. (1960). Chống Duyrinh. NXB Sự
thật, tr.28.
Lênin V.I. (1982). Lênin toàn tập, tập 29, NXB
Sự thật, Hà Nội.
Lênin V.I (1982). Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phá, NXB Sự
thật, Hà Nội.
Nguyễn Trí Dũng (2007). Trả lời phỏng vấn
24h.com.vn ngày 12/07/2007.
Võ Nguyên Giáp (2007). Đổi mới có tính cách
mạng nền giáo dục và đào tạo của nớc

nhà. Bài đăng trên 24h.
com.vn ngày 10/09/2007.
Nguyễn Thiện Nhân (2007). Phó thủ tớng
trên bục giảng. Bài đăng trên
vnexpress.net ngày 29/08/007.


92

×