Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại việt nam và thách thức đối với doanh nghiệp bảo hiểm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.24 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------------

NGUYỄN THỊ HOA

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM

Chuyên ngành

: KTTG & QHKTQT

Mã số

: 60.31.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Như Tiến

Hà Nội, 2010


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kể từ khi Việt Nam chƣa chính thức mở cửa thị trƣờng bảo hiểm thì


các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài đã chuẩn bị sẵn cho mình kế hoạch để
chờ đến thời khắc mở cửa chính thức. Vì vậy, ngay sau khi Việt Nam mở cửa
thị trƣờng bảo hiểm, hàng loạt doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài đã ồ ạt vào
Việt Nam. Điều đáng lƣu ý là những doanh nghiệp này không chỉ “tấn công”
vào thị trƣờng, mà còn tấn công cả các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc. Từ
đây một môi trƣờng cạnh tranh sôi động, nhƣng cũng khắc nghiệt đang diễn
ra, các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài đang khẳng định đƣợc nhiều lợi
thế vƣợt trội so với các doanh nghiệp trong nƣớc.
Trƣớc năm 1993 ở Việt Nam chỉ tồn tại duy nhất Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam (Bảo Việt) vừa tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vừa
thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc. Sau năm 1993, thực hiện chính sách
mở cửa thị trƣờng, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có những bƣớc phát triển
mới cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng phục vụ khách hàng, song vẫn còn rất non
yếu. Vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải làm gì để có thể cạnh
tranh với các hãng bảo hiểm lớn, có kinh nghiệm lâu năm và tiền lực tài chính
vững mạnh trên thế giới?
Xuất phát từ bối cảnh các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn non
trẻ, việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại
Việt Nam, phân tích những thách thức mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam đang và sẽ phải đối mặt, cũng nhƣ cơ hội có thể tiếp nhận để từ đó tìm ra
đƣợc một số giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vƣợt
qua thách thức là một yêu cầu tất yếu về mặt lý luận và thực tiễn. Đó là lý do


2

vì sao vấn đề này đƣợc tác giả lựa chọn làm đề tài của Luận văn Thạc sỹ kinh
tế.
2. Tình hình nghiên cứu:
Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính đóng vai trò rất quan trọng đối với sự

ổn định của nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Đây là một lĩnh vực tuy
không mới đối với thế giới, song với một thị trƣờng còn non trẻ và đang rất
ngỡ ngàng trƣớc tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ Việt Nam thì bảo
hiểm vẫn là một lĩnh vực mới và khá hấp dẫn. Cho đến nay, đã có nhiều ngƣời
nghiên cứu về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm song những đề
tài này tập trung đi sâu vào từng nghiệp vụ kinh doanh cụ thể. Có thể nói đề
tài Hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt Nam vẫn
còn là một vấn đề mở, đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu hơn, bao quát
hơn để tìm ra giải pháp cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chủ động
hội nhập.
3. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích và đánh giá một cách khách quan thực trạng hoạt
động của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt Nam, luận văn sẽ
tổng hợp những thách thức và cơ hội của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam.
Liệu đứng trƣớc những trở ngại và khó khăn trong khi tiềm lực còn chƣa đủ
mạnh thì các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải làm gì để tồn tại và
phát triển? Chính vì vậy trong Luận văn này, tác giả xin đề xuất một số giải
pháp cụ thể hơn để phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài ở
Việt Nam trong thời gian qua.


3

- Tìm hiểu những thách thức và cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam trƣớc cơ hội và thách thức trong bối cảnh hội nhập.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn tập trung phân
tích thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt
nam, tìm ra cơ hội, thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm của Việt
Nam để đƣa ra đƣợc những giải pháp phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
- Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, tác giả sẽ nghiên cứu thực trạng hoạt
động các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt Nam.
- Hoạt động bảo hiểm đƣợc đề cập ở đây là bảo hiểm mang tính thƣơng
mại, chứ không phải bảo hiểm mang tính xã hội nhƣ bảo hiểm xã hội hay bảo
hiểm y tế bắt buộc đang đƣợc thực hiện tại Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
sau:
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp so sánh
7. Kết cấu của luận văn:
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận gồm 3 chƣơng
sau:


4

Chƣơng I: Bảo hiểm Việt Nam và những cam kết hội nhập quốc tế của
Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm
Chƣơng II: Hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại
Việt Nam và những thách thức đối với doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

Chƣơng III: Một số giải pháp cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
nhằm vƣợt qua thách thức
Đề tài đƣợc tiến hành trong điều kiện công tác thống kê của toàn ngành
chƣa hoàn thiện, việc trao đổi và cập nhật thông tin giữa các cơ quan quản lý
bảo hiểm, hiệp hội bảo hiểm còn nhiều hạn chế, bởi vậy luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc sự thông cảm và nhiệt tình đóng
góp của thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Sau Đại học, các thầy, cô là giảng viên
cho lớp Cao học 14 trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng, Hà Nội đã nhiệt tình
giảng dạy, truyền bá những kiến thức quý báu, sâu rộng giúp tôi có nền tảng
khoa học khi thực hiện đề tài nghiên cứu này. Tôi xin gửi lời cảm ơn và tỏ
lòng biết ơn đặc biệt tới PGS.TS Nguyễn Nhƣ Tiến, ngƣời thầy đã tận tình
hƣớng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.


5

CHƢƠNG 1: BẢO HIỂM VIỆT NAM VÀ NHỮNG CAM KẾT HỘI
NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM
1.1 Vài nét về thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam
1.1.1 Quá trình ra đời và phát triển của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 bảo hiểm đã xuất hiện ở Việt Nam nhƣng
dƣới hình thức đại lý bảo hiểm của nƣớc ngoài. Hầu hết những luật lệ, quy
định về bảo hiểm trong giai đoạn này là của Pháp. Đến năm 1964, do yêu cầu
cấp bách trong việc thực hiện các biện pháp cấp thiết để đảm bảo an toàn cho
con ngƣời, tài sản, và các phƣơng tiện vận tải trong hoàn cảnh chiến tranh,
ngày 17/12/1964 Chính phủ quyết định thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam
(nay là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam). Với hơn 40 năm hình thành và
phát triển, có thể nói thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam có thể chia thành ba giai
đoạn nhƣ sau:

 Giai đoạn 1965 - 1986
Trong giai đoạn này, trên thị trƣờng chỉ có duy nhất một công ty bảo
hiểm của Nhà nƣớc hoạt động, đó là Công ty bảo hiểm Việt Nam. Bên cạnh
chức năng độc quyền là cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho thị trƣờng nội địa,
Công ty bảo hiểm Việt Nam còn giữ vai trò quản lý Nhà nƣớc và điều hành
hoạt động của thị trƣờng bảo hiểm trong nƣớc. Sản phẩm bảo hiểm trong giai
đoạn này hết sức nghèo nàn. Tuy có đủ 3 loại hình bảo hiểm là bảo hiểm tai
nạn, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con ngƣời nhƣng số lƣợng
nghiệp vụ và sản phẩm không nhiều.
 Giai đoạn 1987 – 1994


6

Cùng với tác động của công cuộc đổi mới kinh tế, Công ty bảo hiểm
Việt Nam (Bảo Việt) cũng chuyển hƣớng hoạt động của mình cho phù hợp
hơn với cơ chế thị trƣờng. Tuy nhiên, trong thời gian này, Bảo Việt vẫn nắm
giữ vai trò độc quyền trên thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam. Số lƣợng nghiệp vụ
và sản phẩm bảo hiểm trong giai đoạn này khoảng trên 30 loại hình. Năm
1989, Bảo Việt đƣợc Nhà nƣớc chuyển đổi thành Tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam với các công ty bảo hiểm trực thuộc ở tất cả các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng.
 Giai đoạn 1994 đến nay
Vào năm 1994, khi Chính phủ quyết định mở cửa thị trƣờng bảo hiểm
bằng việc cho phép các công ty bảo hiểm khác đƣợc ra đời, vai trò độc quyền
của Bảo Việt chấm dứt. Theo đánh của Bộ Tài chính thì vào thời điểm đó ,
Bảo Việt mới chỉ đáp ứng đƣợc từ 10-15% nhu cầu thị trƣờng. Sau năm 1994,
một loạt công ty bảo hiểm trong nƣớc đƣợc thành lập. Các khách hàng chủ
yếu của thị trƣờng bảo hiểm trong giai đoạn này vẫn là các doanh nghiệp quốc
doanh lớn nhƣ Tổng Công ty hàng không Việt Nam, Petro Việt Nam, Tổng

Công ty than.... Bên cạnh đó, hệ thống các liên doanh giữa doanh nghiệp Việt
Nam và nƣớc ngoài cũng là những khách hàng quan trọng của thị trƣờng bảo
hiểm. Theo các quy định của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm và luật đầu
tƣ nƣớc ngoài, tất cả các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài đều phải tiến hành bảo hiểm
tài sản và trách nhiệm dân sự tại các công ty bảo hiểm đƣợc phép hoạt động ở
Việt Nam. Trƣớc đó, chƣa có các chế tài bắt buộc nên có rất ít các dự án đầu
tƣ nƣớc ngoài mua bảo hiểm ở Việt Nam. Các quy định này đã làm cho thị
trƣờng bảo hiểm Việt Nam sôi động hơn. Thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam đã
thực sự đƣợc hình thành và có bƣớc phát triển nhanh chóng. Theo ƣớc tính,
tốc độ tăng trƣởng bình quân của thị trƣờng này là 30-40%/năm.


7

Năm 1996, lần đầu tiên Bộ Tài Chính cho phép Bảo Việt đƣợc bán các
sản phẩm nhân thọ. Đây là một bƣớc lớn thể hiện nỗ lực của Chính phủ Việt
Nam trong việc đa dạng hoá các sản phẩm trên thị trƣờng bảo hiểm, cũng nhƣ
trong việc tối đa hoá tiềm năng của thị trƣờng này. Nếu nhƣ doanh thu phí
bảo hiểm nhân thọ chỉ chiếm 10% tổng phí bảo hiểm trên cả thị trƣờng vào
năm 1998, thì đến năm 2008, tỷ trọng đã là 48%. Trong giai đoạn tiếp theo,
thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ sẽ vẫn là nhân tố chủ đạo cho mục tiêu tăng
trƣởng vƣợt bậc của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam.
Ngày 9/7/1999, Thủ tƣớng Chính phủ đã quyết định thành lập Hiệp hội
bảo hiểm Việt Nam. Mục đích của Hiệp hội là “đại diện và bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của hội viên, liên kết, hỗ trợ, hợp tác, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển lành mạnh trong thị trƣởng bảo hiểm Việt Nam trong khuôn khổ pháp
luật Việt Nam”. Tuy nhiên sau khi chính thức đi vào hoạt động, vai trò của
Hiệp hội mới chỉ dừng lại ở mức độ hạn chế. Tình trạng không tôn trọng cam
kết trong Hiệp hội vẫn thƣờng xuyên xảy ra, điều này làm cho liên kết giữa
các doanh nghiệp trong Hiệp hội càng trở nên yếu ớt.[13]

Tháng 12 năm 2000, Quốc hội đã phê chuẩn Luật Kinh doanh bảo hiểm
và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2001. Vậy là sau 40 năm ra đời và
hoạt động, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có văn bản pháp lý cao nhất của
riêng mình và đây cũng chính là việc tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm Việt
Nam nhanh chóng hoà nhập với thị trƣờng bảo hiểm khu vực và thế giới.
Nhƣ vậy, với một chặng đƣờng phát triển tƣơng đối ngắn, thời gian
hoạt động theo cơ chế thị trƣờng chƣa dài nhƣng thị trƣờng bảo hiểm Việt
Nam đã có bƣớc phát triển về chất và lƣợng, với một hệ thống khung pháp lý
khá hoàn thiện, tốc độ tăng trƣởng mạnh mẽ của thị trƣờng sản phẩm cả về số
lƣợng sản phẩm và doanh thu phí, có thể nói thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam đã


8

có những bƣớc phát triển đáng ngạc nhiên, bƣớc vào giai đoạn phát triển mới
– hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2 Môi trƣờng pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Phát triển thị trƣờng dịch vụ tài chính nói chung và thị trƣờng bảo hiểm
nói riêng luôn là một trong những ƣu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam.
Để có đƣợc một thị trƣờng bảo hiểm phát triển lành mạnh, việc hình thành
khung pháp lý điều tiết thị trƣờng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong
những năm qua, Chính phủ luôn quan tâm và khuyến khích phát triển thị
trƣờng bảo hiểm, thể hiện qua việc tạo ra một hành lang pháp lý dần đƣợc
hoàn thiện để tạo điều kiện tốt hơn, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành
hoạt động kinh doanh và phát triển.
Sau một thời gian dài không phân định rõ chức năng quản lý Nhà nƣớc
và kinh doanh bảo hiểm trên thị trƣờng, việc Chính phủ ban hành Nghị định
100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam có thể nói đã
thiết lập đƣợc khung pháp lý cơ bản đầu tiên để điều tiết quá trình vận hành
thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, khung pháp lý điều chỉnh thị

trƣờng này chỉ thực sự phát triển với việc lần đầu tiên Luật Kinh doanh bảo
hiểm đƣợc Quốc hội chính thức thông qua vào ngày 9/12/2000. Đặc biệt,
Chính phủ còn xây dựng “Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt
Nam từ năm 2003 đến năm 2010” thể hiện qua Quyết định số 175/2003/QĐTTg ngày 29/8/2003. Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển
của toàn ngành bảo hiểm trong những năm tiếp theo an toàn, hiệu quả và sẵn
sàng hội nhập. Để thực hiện chiến lƣợc này, hàng loạt văn bản, chế độ mới đã
đƣợc khẩn trƣơng xây dựng và ban hành theo đúng kế hoạch đã đề ra. Cùng
với việc xây dựng cơ chế chính sách mới, việc tiếp tục hoàn thiện những văn
bản đã ban hành nhằm cải thiện môi trƣờng kinh doanh, tăng cƣờng công tác
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo các nguyên tắc


9

và chuẩn mực quốc tế cũng đƣợc quan tâm, thể hiện qua việc ban hành các
văn bản sau:
- Nghị định 45/2007/NĐ-CP, Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007
(thay thế Nghị định số 42/2001/NĐ-CP, Nghị định số 43/2001/NĐ-CP).
- Thông tƣ 155/2007/TT-BTC, Thông tƣ 156/2007/TT-BTC ngày
20/12/2007 (thay thế

Thông tƣ 98/2004/TT-BTC, Thông tƣ

99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004).
- Quyết định 96/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 23/11/2007 Ban
hành Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị.
- Quyết định 23/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 9/4/2007 Ban
hành Quy tắc biểu phí BHBB TNDS chủ xe cơ giới.
- Quyết định 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 ban hành Quy tắc biểu
phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc.

- Nghị định 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 về chế độ bảo hiểm bắt
buộc TNDS chủ xe cơ giới.
- Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10/2003 về xử phạt hành chính
trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nghị định 45/2007/NĐ-CP,

Nghị định 46/2007/NĐ-CP

ngày

27/3/2007, Thông tƣ 155/2007/TT-BTC, Thông tƣ 156/2007/TT-BTC ngày
20/12/2007 đã tạo ra đƣợc rào cản kỹ thuật để sàng lọc các Doanh nghiệp bảo
hiểm muốn đƣợc thành lập và hoạt động nhƣ tăng vốn pháp định từ 70 tỷ
đồng lên 300 tỷ đồng đối với doanh nghiệp phi nhân thọ, 140 tỷ đồng lên 600
tỷ đồng đối với doanh nghiệp nhân thọ, tổ chức nƣớc ngoài đứng ra thành lập
doanh nghiệp bảo hiểm phải có trên 10 năm hoạt động kinh doanh bảo hiểm
và tổng tài sản trên 2 tỷ USD, quy định về năng lực quản lý và chuyên môn
cho các chức danh Chủ tịch và ủy viên Hội đồng quản trị, Giám đốc và Phó
Giám đốc Chi nhánh, điều kiện mở thêm chi nhánh và phòng kinh doanh.


10

Tiến tới năm 2010 sửa đổi Luật kinh doanh bảo hiểm phù hợp với tiêu chuẩn,
chuẩn mực quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm và bảo vệ
quyền lợi khách hàng ngày một tốt hơn. [1]
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu mới phát sinh trong thực tiễn, tránh
thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản, Bộ Tài chính đã ban hành các quy
tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm xây dựng, lắp đặt áp dụng đối với các công
trình sử dụng vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nƣớc.

Có thể thấy rằng, công tác xây dựng chế độ chính sách trong lĩnh vực
bảo hiểm đã đi đúng hƣớng, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện
thực tế của thị trƣờng. Cơ chế chính sách đã từng bƣớc đƣợc công khai, minh
bạch hoá tạo ra một môi trƣờng pháp lý phù hợp nhằm phát triển một thị
trƣờng bảo hiểm toàn diện, an toàn, lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo
hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cƣ, đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân
đƣợc thụ hƣởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các
nguồn lực trong nƣớc và nƣớc ngoài cho đầu tƣ phát triển kinh tế – xã hội;
nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh bảo hiểm; đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.3 Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Từ tháng 6/1992, Bộ Tài chính đã tách chức năng quản lý Nhà nƣớc và
chức năng kinh doanh của Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam và thành lập một
Phòng quản lý Nhà nƣớc về kinh doanh bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính Ngân
hàng, tham mƣu cho Bộ Tài chính trong công tác quản lý Nhà nƣớc về hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Đến năm 2003, do sự phát triển nhanh chóng của
thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong cơ chế mở cửa, Phòng quản lý bảo hiểm
đã đƣợc tách ra trở thành Vụ bảo hiểm. Nhƣ vậy, việc quản lý về bảo hiểm đã
đƣợc chuyên môn hoá với tầm quản lý vĩ mô cao hơn rất nhiều so với trƣớc
đây. Từ đây, thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam đã có điều kiện để phát triển


11

mạnh. Vụ bảo hiểm là cơ quan quản lý trực tiếp của Nhà nƣớc về lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm; tiếp nhận cấp, thu hồi giấy phép kinh doanh bảo
hiểm.... Vụ quản lý bảo hiểm chính là cơ quan giám sát các doanh nghiệp bảo
hiểm; phê chuẩn, ban hành, xác nhận hoàn tất thủ tục đăng ký quy tắc, điều
khoản, biểu phí, hoa hồng của các nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể.
Nhận thức rõ sự cần thiết khách quan của việc duy trì một thị trƣờng

bảo hiểm phát triển lành mạnh, an toàn và bền vững, trong thời gian qua Bộ
Tài chính đã chú trọng công tác quản lý, giám sát các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cả về số lƣợng và chất lƣợng, cả chiều
rộng lẫn chiều sâu. Mạnh dạn đổi mới phƣơng thức quản lý trên cơ sở hạn chế
sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, kết hợp giữa kiểm
tra tại chỗ và giám sát từ xa, sử dụng các công cụ phân tích tài chính – kinh
doanh, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động và phần mềm quản lý,
đồng thời nâng cao tính tự giác và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp.
Cơ quan chức năng không tuỳ tiện can thiệp vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, trừ các vấn đề quyết định đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Quan hệ giữa các cơ quan quản lý và doanh nghiệp dựa trên tinh thần
hợp tác và xây dựng. Thông qua các hoạt động của mình, cơ quan quản lý bảo
hiểm đã kịp thời phát hiện kiên quyết xử lý và chấn chỉnh những biểu hiện
lệch lạc nhƣ cạnh tranh không lành mạnh, trục lợi không tuân thủ các yêu cầu
tài chính... làm ảnh hƣởng đến quyền lợi chính đáng của ngƣời tham gia bảo
hiểm. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền, hƣớng dẫn các doanh nghiệp thực
hiện nhiều chủ trƣơng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nƣớc tiếp tục đƣợc
quan tâm, thực hiện có kết quả và hƣớng đến nhiều đối tƣợng khác nhau,
thông qua nhiều hình thức thiết thực, phong phú, sinh động nhƣ báo chí, đài
phát thanh, hội thảo....Qua đó, góp phần xử lý kịp thời các yêu cầu mới phát
sinh, đảm bảo thị trƣờng phát triển ổn định và nâng cao nhận thức của ngƣời


12

dân về kinh doanh bảo hiểm và quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
Đặc biệt, đƣợc sự đồng ý của Chính phủ và Bộ Tài chính, ngày
9/7/1999, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã đƣợc thành lập với chức năng đại
diện cho tiếng nói và quyền lợi của các doanh nghiệp bảo hiểm trƣớc các cơ

quan nhà nƣớc có thẩm quyền và công chúng. Việc thành lập Hiệp hội đã góp
phần hỗ trợ cho công tác quản lý Nhà nƣớc đƣợc hiệu quả hơn.
1.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam
1.2.1 Cơ cấu và quy mô thị trƣờng bảo hiểm
Trong những năm vừa qua, thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam đã có những
bƣớc phát triển nhanh chóng cả về chất và lƣợng, đánh dấu bƣớc phát triển
căn bản từ một thị trƣờng độc quyền nhà nƣớc sang một thị trƣờng khá hoàn
chỉnh theo cơ chế thị trƣờng với sự tham gia của đủ mọi thành phần kinh tế
(nhà nƣớc, cổ phần, liên doanh, 100% vốn nƣớc ngoài) hoạt động trong khu
vực kinh doanh bảo hiểm. Năm 2008, thị trƣờng có thêm 9 doanh nghiệp
đƣợc cấp phép mới, nâng tổng số doanh nghiệp lên 49 doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm 2
doanh nghiệp Nhà nƣớc, 23 công ty cổ phần, 4 doanh nghiệp liên doanh và 20
doanh nghiệp 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.[2]


13

BẢNG 1.1: SỐ LƢỢNG CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM THEO KHỐI
DOANH NGHIỆP NĂM 2008
Loại hình doanh

Nhà

Cổ

Liên

100% vốn


Tổng

nghiệp

nƣớc

phần

doanh

nƣớc ngoài

cộng

2

15

3

7

27

Bảo hiểm nhân thọ

1

1


9

11

Tái bảo hiểm

1

Môi giới bảo hiểm

6

Bảo hiểm phi nhân thọ

Tổng cộng

2

23

1

4

4

10

20


49

Nguồn: Bộ Tài Chính, Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2008 [2]
Bên cạnh đó, sự góp mặt của 42 văn phòng đại diện của các tổ chức
bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt Nam cũng góp phần cải thiện môi trƣờng đầu tƣ
và tăng lòng tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khi đến làm ăn tại Việt Nam.
Thị trƣờng bảo hiểm tiếp tục duy trì tốc độ tăng trƣởng cao so với tăng
trƣởng GDP, doanh thu toàn ngành đạt 27.668 tỷ đồng, tăng 15,45% so với
năm 2007 trong đó doanh thu phí bảo hiểm đạt 21.253 tỷ đồng, doanh thu đầu
tƣ đạt 6.799 tỷ đồng. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò, vị trí
của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc tiếp tục đƣợc củng cố và tăng
cƣờng, chiếm 64,97% tổng doanh thu phí bảo hiểm.


14

BẢNG 1.2: DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM VÀ THỊ PHẦN THEO KHỐI
DOANH NGHIỆP NĂM 2007 - 2008

Các chỉ tiêu

Đơn vị

Phi nhân thọ
2007

Doanh thu phí
bảo hiểm

2008


Nhân thọ
2007

2008

Toàn thị
trƣờng
2007

2008

Tỷ đồng 8.213 10.950 9.437 10.303 17.650 21.253

Tốc độ tăng trƣởng

%

28,27

33,33

11,09

9,18

18,47

20,41


Tỷ trọng/tổng phí

%

43,53

53,47

51,52

48,48

100

100

Tỷ trọng phí/GDP

%

0,72

0,90

0,82

0,85

1,54


1,75

Nguồn: Bộ Tài Chính, Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2008 [2]
1.2.2 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm Phi nhân thọ đạt doanh thu 10.950 tỷ VND tăng 33,33% so
với năm 2007. Thị phần doanh thu phí bảo hiểm tiếp tục tập trung vào các
doanh nghiệp lớn hoạt động trên thị trƣờng, dẫn đầu là Bảo hiểm Bảo Việt
3.320 tỷ VND, tiếp đó là PVI 2.020 tỷ VND, Bảo Minh 1.884 tỷ VND, PJICO
1.060 tỷ VND, PTI 443 tỷ VND. Chiếm tỷ trọng lớn là nghiệp vụ bảo hiểm xe
cơ giới 3.182 tỷ VND, bảo hiểm tài sản kỹ thuật 2.024 tỷ VND, bảo hiểm con
ngƣời 1.597 tỷ VND, bảo hiểm thân tàu và TNDS của chủ tàu 1.266 tỷ VND,
bảo hiểm hàng hóa vận chuyển 972 tỷ VND.
Toàn thị trƣờng đã giải quyết bồi thƣờng 4.511 tỷ VND, tỷ lệ bồi
thƣờng 41,5%. Các nghiệp vụ có tỷ lệ bồi thƣờng cao là bảo hiểm xe cơ giới
1.830 tỷ VND (chiếm 58%), bảo hiểm con ngƣời 724 tỷ VND (chiếm 45,3%),
bảo hiểm thân tàu và TNDS của chủ tàu 583 tỷ VND (chiếm 46%), bảo hiểm
tài sản thiệt hại 695 tỷ VND (chiếm 34,3%). Các doanh nghiệp có tỷ lệ bồi
thƣờng cao là Bảo Minh 50,5%, Bảo Việt 48%, PVI 43,4%. Tỷ lệ bồi thƣờng


15

trên nếu so với phí đƣợc hƣởng (50% phí thực thu trong năm) là cao, có nhiều
nghiệp vụ và doanh nghiệp bảo hiểm ở mức đáng báo động. Chính vì vậy,
năm 2008 có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có kết quả kinh doanh nghiệp vụ
bảo hiểm là con số âm phải sử dụng đến sự phòng giao động lớn. Lãi có đƣợc
từ kết quả kinh doanh nói chung chủ yếu thu đƣợc từ lãi đầu tƣ trong đó có
tiền gửi ngân hàng.[5]
Sau quá trình thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp Chiến lƣợc phát triển
thị trƣờng bảo hiểm, năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của các doanh

nghiệp đã tăng lên đáng kể, công tác đánh giá rủi ro và đề phòng hạn chế tổn
thất cũng đƣợc cải thiện. Kết quả là mức phí bảo hiểm giữ lại của toàn thị
trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ tăng 39,2% so với năm 2007 lên mức 7.334 tỷ
đồng.
Bên cạnh điểm sáng về tăng trƣởng doanh thu, tình hình cạnh tranh phi
kỹ thuật trên thị trƣờng vẫn tiếp tục diễn ra rất quyết liệt, trong khi đó chi phí
khai thác dịch vụ gia tăng mạnh, tình hình tổn thất diễn biến xấu. Tình trạng
hạ phí bảo hiểm nhằm tạo lợi thế cạnh tranh diễn ra phổ biến ở nhiều loại hình
nghiệp vụ nhƣ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm thân tàu, hàng
hoá vận chuyển đƣờng biển....không chỉ tạo ra môi trƣờng cạnh tranh không
lành mạnh, mà còn ảnh hƣởng tới sự an toàn tài chính của doanh nghiệp bảo
hiểm.
Tình hình quản trị doanh nghiệp nhìn chung còn nhiều bất cập. Số
lƣợng các doanh nghiệp bảo hiểm gia tăng nhanh chóng trong thời gian vừa
qua đã làm căng thẳng thêm tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực bảo hiểm,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý cấp cao. Việc quản lý và quản trị rủi ro/chi
phí đang thực sự là vấn đề nghiêm trọng trong hệ thống của mỗi doanh
nghiệp. Mặc dù nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, đã hết
sức chú trọng vấn đề này, nhƣng để cải thiện tình hình cần phải có thời gian.


16

Tình hình tổn thất tiếp tục theo chiều hƣớng gia tăng ở hầu hết các loại
hình nghiệp vụ: cháy, kỹ thuật, thân tàu, hàng hoá. Đặc biệt, trận mƣa lũ lịch
sử tại Hà Nội đầu tháng 11/2008 đã gây thiệt hại nặng nề cả về kinh tế nói
chung và đối với ngành bảo hiểm nói riêng. Số tiền bồi thƣờng cho các tổn
thất về tài sản (chủ yếu là xe ô tô) của sự cố lụt lội này đã lên tới 70 – 80 tỷ
VND.[10]
Trong khi đó, xu hƣớng các dịch vụ “xấu” không đáp ứng đƣợc điều

kiện chuyển tái ra nƣớc ngoài, đƣợc chuyển tái cho thị trƣờng trong nƣớc,
hoặc các doanh nghiệp trong nƣớc chia sẻ dịch vụ với điều kiện bảo hiểm và
giá không thuận lợi hơn so với chuyển tái ra nƣớc ngoài ngày càng trở nên
phổ biến.
Trong năm 2008 thị trƣờng bảo hiểm phi nhân thọ có thêm 5 doanh
nghiệp mới đƣợc cấp giấy phép và đi vào hoạt động: Công ty cổ phần Bảo
hiểm Hàng không (VNI), Công ty cổ phần Bảo hiểm Hùng Vƣơng (HVI),
Công ty bảo hiểm Fubon, Công ty Bảo hiểm SHB – Vinacomin (SVIC), Công
ty Bảo hiểm Mitsui Sumitomo. Nhƣ vậy tổng số doanh nghiệp hoạt động trên
thị trƣờng phi nhân thọ Việt Nam đã lên tới 27 công ty.[10]
1.2.3 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Đầu năm 2008 vật giá leo thang, giá lƣơng thực thực phẩm tăng gấp 1,5
đến 2 lần làm cho đời sống ngƣời lao động khó khăn hơn. Giữa năm 2008 tiền
gửi tiết kiệm có lãi suất tăng đột biến tới 18%. Tình hình trên dẫn đến bảo
hiểm nhân thọ gặp khó khăn lớn. Khách hàng đang tham gia bảo hiểm chấm
dứt hợp đồng trƣớc hạn, rút tiền gửi ngân hàng khiến cho giá trị hoàn trả tăng.
Nguồn khách hàng tiềm năng giảm nên số lƣợng hợp đồng mới khai thác
đƣợc không nhiều. Tuy nhiên với sự cố gắng của các doanh nghiệp bảo hiểm
quyết tâm vƣợt qua thách thức đƣa ra nhiều sản phẩm mới, hấp dẫn phù hợp
với nhu cầu khách hàng nên đã đạt đƣợc doanh thu 10.339 tỷ đồng, tăng 9,3%


17

so với năm 2007. Dẫn đầu là Prudential 4.270 tỷ đồng, Bảo Việt 3.425 tỷ
đồng, Manulife 1.081 tỷ đồng. Doanh thu phí bảo hiểm năm đầu đạt 2.059 tỷ
đồng tăng 13,88%, chủ yếu do các sản phẩm đƣợc thiết kế với số tiền bảo
hiểm lớn, thời gian bảo vệ dài hơn khiến cho phí bảo hiểm lớn hơn. Dẫn đầu
là Prudential 708 tỷ đồng, Bảo Việt 512 tỷ đồng, Manulife 226 tỷ đồng.
Doanh thu phí bảo hiểm một lần đạt không nhiều 15 tỷ đồng trong đó ACE

Life đạt 7 tỷ đồng và AIG đạt 5 tỷ đồng.[10]
Tổng số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới trong kỳ là 552.304 giảm
13,71% so với năm 2007. Tổng số hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực trong kỳ là
594.485, tăng 26,17%, trong đó hợp đồng hủy bỏ trƣớc hạn là 508.652 tăng
26,78% so với năm 2007. Đặc biệt số lƣợng hợp đồng hủy bỏ năm thứ nhất là
99.998 hợp đồng tăng 8,83% so với năm 2007. Tổng số hợp đồng có hiệu lực
đến cuối kỳ là 3.850.676 tăng 1,1%. Doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều hợp
đồng tính theo sản phẩm chính là Prudential 1.566.031, Bảo Việt 1.561.768,
Manulife 252.849.
Tổng số trả tiền bảo hiểm là 4.572 tỷ đồng tăng 29,5% so với 2007. Chi
trả quyền lợi bảo hiểm 2.539 tỷ đồng tăng 17,4%, trong đó Bảo Việt 1.381 tỷ
đồng, Prudential 833 tỷ đồng, Manulife 135 tỷ đồng. Chi trả giá trị hoàn lại
2.033 tỷ đồng tăng 48,6% so với năm 2008, trong đó Prudential là 760 tỷ
đồng, Bảo Việt 580 tỷ đồng, Manulife 451 tỷ đồng. Số lƣợng hủy bỏ hợp
đồng bảo hiểm trƣớc hạn do những khó khăn kinh tế tăng lên trong năm 2008
khiến cho giá trị hoàn lại tăng cao.
Số lƣợng đại lý bảo hiểm (là cá nhân kinh doanh có hợp đồng đại lý với
các DNBH) tính đến cuối kỳ là 72.079 ngƣời tăng 2,29%, trong đó Prudential
25.594 ngƣời, Bảo Việt 15.535 ngƣời, AIG 8.998 ngƣời, Dai-ichi 8.389
ngƣời. Số lƣợng đại lý tuyển dụng đào tạo trong năm là 61.935 ngƣời trong
đó Prudential là 24.452 ngƣời, AIG 9.680 ngƣời, Dai-ichi 8.510 ngƣời,


18

Manulife 6.198 ngƣời. Điều này chứng tỏ đại lý bỏ việc nhiều do tình hình
khai thác khó khăn nên doanh nghiệp bảo hiểm phải tuyển dụng bổ sung. [4]
Trong tháng 6/2008 có thêm một công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn
nƣớc ngoài đƣợc cấp phép là Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Hàn Quốc,
thành viên của tập đoàn Han Wha, một trong những tập đoàn kinh tế hàng đầu

của Hàn Quốc. Đây cũng là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hàn Quốc
tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tƣ 60 triệu USD. Cũng trong năm 2008, một
công ty bảo hiểm nhân thọ khác của Hàn Quốc là Samsung Life cũng đã khai
trƣơng văn phòng mới tại Hà Nội. Samsung Life là thành viên của tập đoàn
Samsung với doanh thu năm 2007 lên đến 27,6 tỷ USD, chiếm 28% thị phần
tại thị trƣờng Hàn Quốc. [10]
1.2.4 Hoạt động tái bảo hiểm
Hoạt động tái bảo hiểm đã xuất hiện từ trƣớc năm 1995, nhƣng trong
thời gian này, hoạt động tái bảo hiểm tập trung chủ yếu vào chức năng bảo vệ
kinh doanh bảo hiểm gốc và xử lý những hợp đồng đã hết hiệu lực nhƣng
trách nhiệm vẫn còn kéo dài. Chỉ đến năm 1995, với sự ra đời của Công ty tái
bảo hiểm quốc gia Việt Nam (Vinare), thị trƣờng tái bảo hiểm trong nƣớc mới
bắt đầu đƣợc hình thành mà bƣớc đầu là tái bảo hiểm bắt buộc cho Công ty
Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam. Trong vòng hơn 10 năm qua, hoạt động tái
bảo hiểm ngày một phát triển và thu đƣợc những kết quả hết sức khả quan.
Đặc biệt, năm 2008, tổng phí bảo hiểm giữ lại tại thị trƣờng trong nƣớc tăng
19,67% từ 15.347 tỷ đồng năm 2007 lên 18.747 tỷ đồng năm 2008. Trong đó
hoạt động tái bảo hiểm ra thị trƣờng nƣớc ngoài đƣợc thực hiện chủ yếu đối
với hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ với tỷ trọng là 95,8% tổng số phí
nhƣợng tái. Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm có rủi ro lớn nhƣ bảo hiểm tài
sản và thiệt hại; bảo hiểm hàng không, bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân
sự chủ tàu; bảo hiểm cháy, nổ, các doanh nghiệp thực hiện tái bảo hiểm với tỷ


19

trọng lớn để phân tán rủi ro (tỷ lệ giữ lại thấp hơn năm 2007). Đối với các
nghiệp vụ có rủi ro thấp nhƣ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn và sức
khỏe con ngƣời, các doanh nghiệp hầu nhƣ không nhƣợng tái ra nƣớc ngoài
trong khi tốc độ tăng trƣởng doanh thu của các nghiệp vụ này trong năm 2008

là rất cao.
BẢNG 1.3: HOẠT ĐỘNG TÁI BẢO HIỂM NĂM 2007 – 2008
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu

2007

2008

17.648

21.253

Phi nhân thọ

8.211

10.950

Nhân thọ

9.437

10.303

1.995

2.505

1.922


2.400

73

105

15.653

18.747

Phi nhân thọ

6.289

8.549

Nhân thọ

9.364

10.198

Tổng phí bảo hiểm gốc

Nhƣợng tái bảo hiểm ròng ra nƣớc ngoài
Phi nhân thọ
Nhân thọ
Tổng phí bảo hiểm giữ lại


Nguồn: Nguồn: Bộ Tài Chính, Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2008[2]
Có đƣợc kết quả khả quan là do xuất phát từ năng lực tài chính, năng
lực kinh doanh, công tác đánh giá rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất của các
doanh nghiệp bảo hiểm đƣợc cải thiện đã làm tăng mạnh doanh thu phí bảo
hiểm, tăng năng lực giữ lại của thị trƣờng. Hoạt động tái bảo hiểm trong nƣớc
của các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm đã có nhiều đóng
góp tích cực đến thị trƣờng bảo hiểm nói riêng và nền kinh tế nói chung,
không những làm tăng mức phí bảo hiểm giữ lại của thị trƣờng trong nƣớc,
hạn chế tình trạng chuyển ngoại tệ ra nƣớc ngoài thông qua việc tái bảo hiểm



×