Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Khoá luận tốt nghiệp kinh tế thương nghiệp việt nam thời kỳ 1858 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.8 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH sử

VŨ THỊ XUYẾN

KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM
THỜI KỲ 1858 - 1945

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Ngưòi hướng dẫn khoa học
Th.s CHU THỊ THU THỦY

HÀ NỘI, 2016


Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận cũng như học tập tại trường tôi đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy, cô giáo trong khoa Lịch
sử cùng với sự giúp đỡ động viên khích lệ của các bạn sinh viên. Tôi xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Chu Thị Thu Thủy,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn
thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian và hạn
chế về kiến thức của bản thân, nên không tránh khỏi những thiếu sót khi hoàn thành
khóa luận. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và
các bạn sinh viên để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện



Vũ Thị Xuyến
Tôi xin cam đoan, những vấn đề tôi trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên


cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Chu Thị Thu Thủy,
không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Neu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Vũ Thị Xuyến


MỤC LỤC

1.1.1.
1.1.2.

PHỤ LỤC

Tác động của thương nghiệp đối với kinh tế - xã hội Việt Nam thời


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thương nghiệp là một ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong việc đưa đất
nước phát triển đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. "Phỉ thương bất

phú, phỉ công bất hoạt, phỉ trí bất hưng và phỉ nông bất ồn" (tức là không buôn bán thì
không giàu có được, không làm nghề thủ công công nghiệp thì xã hội không năng động,
không có kiến thức thì không hưng thịnh, không có nông nghiệp thì không ổn định).
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà - Đà
Nằng. Đen năm 1884, sau hiệp ước Patơnốt, Việt Nam nằm dưới sự cai trị của thực dân
Pháp, đất nước bị chia cắt thành ba miền vói ba chế độ chính trị khác nhau. Trong thòi
gian thực dân Pháp cai trị, kinh tế - xã hội Việt Nam có những biến chuyển to lớn, trong
đó đặc biệt là kinh tế thương nghiệp.
Việc nghiên cứu kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 có ý nghĩa
khoa học to lớn. Trước hết là làm sáng tỏ tính chất của nền thương nghiệp Việt Nam
thời Pháp thuộc, thấy rõ được sự biến đổi của kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ
này. Đồng thời, chỉ ra được những đặc điểm và tác động của thương nghiệp đối với kinh
tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa.
về thực tiễn, qua việc nghiên cứu kinh tế thương nghiệp Việt Nam thòi thuộc địa
sẽ cung cấp thêm tư liệu cho việc giảng dạy và học tập lịch sử Việt Nam cận đại. Đồng
thòi có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đóng góp vào sự phát triển ngành thương
nghiệp trong công cuộc đổi mới kinh tế và xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới thương nghiệp Việt Nam
trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về “kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 1945”.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn vấn đề
“Kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề


Vấn đề “Kinh tế thương nghiệp Việt Nam thòi kỳ 1858 - 1945” đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu ở nhiều mức độ khác nhau, cụ thể là:
Cuốn “Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc ” xuất bản năm 1959

của tác giả Nguyễn Công Bình viết về sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và ít nhiều
đề cập đến tình hình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa trên thị trường nội
địa và xuất cảng ra nước ngoài của thương nhân Việt Nam.
Cuốn “Kinh tể thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn” (NXB Thuận Hóa,
1997) của Phó Tiến sĩ Đỗ Bang đã trình bày về tình hình ngoại thương dưới triều
Nguyễn và nói về điều kiện giao lưu hàng hóa và chính sách của triều Nguyễn đối với
thương nghiệp nhưng còn chung chung.
Tác giả Nguyễn Văn Khánh đã viết cuốn “ Cơ cẩu kinh tể - xã hội Việt Nam thời
thuộc địa 1858 - 1945” (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000). Tác phẩm đi sâu nghiên
cứu quá trình hình thành cơ cấu các ngành kinh tế Việt Nam thời kì Pháp thuộc, tuy
nhiên tác giả chưa đề cập nhiều đến nội thương mà chỉ về ngoại thương.
Cuốn “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ” (NXB Văn học, 2008) của tác giả
Nguyễn thế Anh cũng đã trình bày về đặc điểm của nền kinh tế thuộc địa và nói về đặc
tính của nền ngoại thương Việt Nam thời kì đó nhưng lại chưa trình bày được một cách
rõ nét về nền nội - ngoại thương Việt Nam thời Pháp thuộc.
Cuốn sách “Giáo trình lịch sử kinh tể” (NXB Đại học kinh tế Quốc dân, 2010)
của tác giả Nguyễn Trí Dĩnh, Phạm Thị Qúy. Tác giả trình bày về đặc điểm của kinh tế
Việt Nam từ thời phong kiến đến thời kì 10 năm đầu sau khi đất nước được thống nhất
(1976 - 1985). Trong đó có nói về đặc điểm kinh tế nước ta trong thòi Pháp cai trị
nhưng vẫn còn sơ lược.
Luận án Tiến sĩ Lịch sử của tác giả Vũ Thị Minh Hương nhan đề Nội thương Bắc
Kì (1919 -1929) xuất bản năm 2002 đã trinh bày về tình hình nội thương của Bắc Kì
ừong 20 năm kể từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước cuộc khai thác thuộc địa
làn thứ hai. Trong đó bao gồm các hoạt động trao đổi hàng hóa của các tỉnh thuộc khu


vực phía Bắc.
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử của tác giả Phạm Thị Huệ với nhan đề Chính sách kinh
tể chỉ huy ở Nam Kì thời Pháp Nhật (1939 - 1945) xuất bản năm 2013 đã đề cập đến sự
biến đổi trong kinh tế thương nghiệp Nam Kì dưới tác động của chính sách kinh tế chỉ

huy thời Pháp thuộc.
Bên cạnh đó còn một số bài báo, tạp chí nghiên cứu về kinh tế thương nghiệp
Việt Nam như: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 8 (412), của tác giả Tạ Thị Thúy xuất bản
năm 2013 có bài viết: “Nen kinh tể thương nghiệp của Việt Nam trong những năm đầu
thế kỉ XX”. Tác giả đã trình bày rất rõ tình hình nội thương và ngoại thương của Việt
Nam trong những năm đầu thế kỉ XX.
Như vậy, mặc dù đến nay có một khối lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu về
kinh tế học, sử học về vấn đề kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc, song
chưa có một tác phẩm nào trình bày một cách toàn diện về nền kinh tế thương nghiệp
Việt Nam thời thuộc địa. Do đó, việc làm sáng tỏ tình hình thương nghiệp cũng như vai
trò của kinh tế thương nghiệp thời thuộc địa đối vói sự phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam thời kì này cũng như công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một yêu cầu
cấp thiết đang được đặt ra.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiền cứu
Khóa luận nghiên cứu về vấn đề “Kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858

- 1945”, nhằm làm rõ tình hình thương nghiệp Việt Nam thòi thuộc địa, tập trung nghiên
cứu về các chính sách thương nghiệp cũng như các hoạt động thương nghiệp thời kỳ
này để có cái nhìn khái quát hơn, khách quan hơn về một nền thương nghiệp đã tồn tại ở
Việt Nam.
Làm rõ bản chất của chính sách thương nghiệp, điểm tích cực và hạn chế của
một nền thương nghiệp mà thực dân Pháp đã xây dựng ừên đất nước Việt Nam. Từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm cho công cuộc phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam hiện nay.



3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, khóa luận càn thực hiện những

nhiệm vụ cơ bản sau:
Nêu được những yếu tố tác động đến thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 1945.
Trình bày hoạt động thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945, bao gồm các
hoạt động nội - ngoại thương.
Phân tích những đặc điểm và tác động của nền thương nghiệp thời thuộc địa đối
với kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 cũng như trong bối cảnh hiện nay.

3.3.

Phạm vi nghiên cứu
về không gian nghiên cứu: khóa luận tập trung nghiên cứu về hoạt động kinh tế

thương nghiệp Việt Nam trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
về thời gian nghiên cứu: từ năm 1858 đến năm 1945.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1.

Nguồn tư liệu
Đe hoàn thành khóa luận, tác giả đã khai thác các nguồn tài liệu sau:
- Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ lưu trữ tại Thư viện quốc gia, Viện sử học.

Ngoài ra còn có các bài báo, tạp chí, các công trình chuyên khảo, sách nghiên cứu về
kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc.


4.2.

Phương pháp nghiền cứu
Khóa luận vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;

tiến hành nghiên cứu dựa ừên quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, để thực hiện khóa luận tôi sử dụng hai phương pháp nghiên cứu
chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng một số
phương pháp khác như so sánh, tổng hợp, thống kê, phân tích...

5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận được tiến hành nghiên cứu sẽ có những đóng góp quan ừọng


sau:
Khôi phục tương đối toàn diện, chân thực về nền kinh tế thương nghiệp Việt
Nam thời kỳ 1858 - 1945.
Lấp khoảng trống nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thòi cận đại.
Ket quả nghiên cứu của khóa luận sẽ cung cấp những bài học kinh nghiệm, tư
liệu cho công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và việc phát triển một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cung cấp thêm tư liệu cho việc giảng
dạy và học tập lịch sử Việt Nam cận đại.

6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận bao gồm 2
chương:
Chương 1: Những yếu tố tác động đến thương nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 1945
Chương 2\ Kinh tế thương nghiệp Việt Nam thòi kỳ 1858 - 1945
Chương 1

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM
THỜI KỲ 1858 -1945

1.1.

VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, ĐIỀU KIỆN Tự NHIÊN
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á lục địa, thuộc bờ cực Đông của bán đảo

Đông Dương, với lãnh thổ hẹp ngang và bờ biển chạy dài. Kinh tuyến: 102° 08' - 109°
28’ đông; Vĩ tuyến: 8° 02' - 23° 23' bắc. Phía Bắc giáp nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, phía Tây và Tây Nam giáp các nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương
quốc Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp Thái Bình Dương với 3260km đường bờ
biển và khoảng trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ. Việt Nam rộng khoảng 330.000 km2 đất liền
và phần biển rộng lớn gấp nhiều lần so vói phần đất liền. Ngoài vùng nội thuỷ, Việt
Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng
đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Diện tích vùng biển thuộc chủ quyền,


quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000
km2 biển Đông. Địa hình Việt Nam 3 phần 4 là đồi núi.
Do có vị thế tự nhiên đặc biệt như vậy nên Việt Nam sớm trở thành một chiếc
cầu nối giữa châu Á và Thái Bình Dương, giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á
hải đảo, nơi giao điểm của các luồng đường, luồng hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên
Bắc, nơi tiếp xúc và giao thoa của nhiều nền văn hóa, văn minh lớn trên thế giới ừong
đó phải kể đến đó là văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Vì vậy, ngay từ những thế kỉ đầu
công nguyên, khi ở miền Nam châu Á đã có sự giao dịch buôn bán giữa Trung Hoa với
các nước miền Nam và Ấn Độ thì đất Giao Chỉ đã là ừạm dừng chân của thuyền bè qua
lại trên con đường hàng hải thương mại ấy. Nhà địa lí học đời Đường là Gia Dam đã
từng nhắc đến con đường thông thưomg buôn bán giữa Trung Quốc và các nước phương
Nam. Theo Gia Đam thì con đường thông thương buôn bán quan trọng nhất là đường

biển, từ Quảng Châu qua Vịnh Bắc Bộ, qua Cù Lao Chàm và các hải cảng của nước
Hoàn Vương (thuộc miền Nam Trung Bộ của Việt Nam ngày nay) và từ đó qua eo biển
Mã Lai để sang Nam Dương và Ẩn Độ. Do vị trí quan họng của Việt Nam trên đường
hàng hải giữa Trung Quốc và các nước phương Nam nên ngay từ đàu thế kỉ I Việt Nam
đã là một địa điểm giao thông và thương mại quốc tế.
Việt Nam có hệ thống cảng biển lớn, thuận lọi cho phát triển thương mại trên
biển. Khu vực phía Bắc gồm các cảng ở Quảng Ninh (Cẩm Phả, Cửa Ông, Hòn Gai, Cái
Lân, cảng Xăng dầu BI2); ở Hải Phòng (Hải Phòng, Thượng Lý,...); ở Thái Bình (Diêm
Điền). Cảng Hải Phòng là cảng lớn nhất miền Bắc, hàng năm có thể xếp dỡ khoảng 10
triệu tấn hàng hóa. Khu vực miền Trung gồm các cảng Cửa Lò, Ben Thùy (Nghệ An),
Xuân Hải (Hà Tĩnh), Gianh (Quảng Bình),Thuận An (Thừa Thiên - Huế), Tiên Sa, Sông
Hàn (Đà Nằng), Sa Kỳ (Quảng Ngãi)... Khu vực phía Nam có các cảng biến lớn trong
đó phải kể đến là cảng Sài Gòn được Pháp đầu tư xây dựng năm 1860 đóng vai trò quan
trọng trong việc ừao đổi buôn bán trong và ngoài nước.
Việt Nam còn có mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố rộng khắp trên cả nước,
sông ngòi có lượng phù sa màu mỡ thích hợp cho việc nuôi trồng các loại thủy hải sản


cho giá trị kinh tế cao. Đồng thời tạo ra một hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện
cho việc vận chuyển hàng hóa giữa các vùng miền trong cả nước. Việt Nam có 2360 con
sông, trong đó 93% là các con sông nhỏ ngắn và dốc. Sông ngòi có trữ lượng lớn cung
cấp nước tưới cho cây trồng, tạo ra sản phẩm dồi dào phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
cũng như buôn bán trên thị trường.
Thiên nhiên Việt Nam đa dạng, trên đại thể bao gồm các vùng đồng bằng ven
biển, trung du, cao nguyên và núi rừng. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa,
nắng lắm, mưa nhiều, có nhiều vùng tiểu khí hậu và thế giới động, thực vật phong phú.
Trong lòng đất Việt Nam tàng trữ nhiều loại khoáng sản có giá trị kinh tế cao. Việt Nam
là nước có diện tích không lớn nhưng có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và
phong phú với gần 40 chủng loại từ khoáng sản năng lượng (dầu khí, than, urani, địa
nhiệt), khoáng sản không kim loại, vật liêu xây dựng đến khoáng sản kim loại. Trong đó

than là loại khoáng sản có giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam. Một số loại khoáng sản
Việt Nam có nhiều như bauxit, đất hiếm, quặng titan đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng
lâu dài của thị trường trong nước.
Như vậy, Việt Nam có vị trí địa lý và những điều kiện tự nhiên cũng như về dân
cư thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thương nghiệp: có hai vựa lúa lớn đó là đồng
bằng sông Hồng ở Bắc Kì và đồng bằng sông Cửu Long ở Nam Kì; có nhiều đồi núi và
rừng rậm cung cấp nguồn lâm thổ sản quý; có hệ thống sông ngòi dày đặc và đường bờ
biển dài, vừa cung cấp hải sản và thủy sản, vừa đóng góp vào việc giao lưu hàng hóa
giữa các vùng trong cả nước; dân cư đông đảo lại chăm chỉ cần cù vừa tham gia sản
xuất nông nghiệp, vừa tham gia các hoạt động buôn bán; có nhiều làng nghề truyền
thống với các nghề thủ công phong phú là trung tâm cung cấp hàng hóa quan trọng. Việt
Nam lại có các thương cảng lớn như Hội An, Đà Nằng, Hải Phòng... là những nơi thích
họp trao đổi buôn bán hàng hóa trong và ngoài nước.


1.2.
1.2.1.

TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
về chính trị
Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã có từ lâu và được xúc tiến từ

giữa thế kỉ XIX, cùng với sự khủng hoảng, suy vong của triều đình phong kiến nhà
Nguyễn đã tạo cơ hội tốt để Pháp thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Kế hoạch xâm
lược Việt Nam đã được thông qua từ tháng 4/1857 và đến khi cuộc can thiệp của Pháp ở
vùng biển Trung Hoa tạm ngưng bởi Hiệp ước Thiên Tân lần thứ nhất ngày 27/6/1858,
hạm đội Pháp lập tức quay mũi về phía Đà Nằng. Năm 1858, Pháp dùng 13 chiến hạm
đánh chiếm cảng Đà Nằng mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Sau khi chiếm ba tỉnh
miền Tây Nam Kì, từ 1867 trở đi, thực dân Pháp vừa ra sức xây dựng, củng cố bộ máy
cai trị trên đất Nam Kì, đồng thời vừa ráo riết chuẩn bị và sau đó liên tiếp thực hiện hai

cuộc hành quân đánh chiếm Bắc Kì (lần 1 vào năm 1873 và lần 2 vào năm 1882) tiến tới
thôn tính cả nước Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã để nước ta dần rơi vào
tay quân Pháp. Cho đến hiệp ước Harmand (1883) và hiệp ước Patenôtre (1884), Việt
Nam chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Trong những năm cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp một mặt tập trung binh lực đè
bẹp các phong trào kháng chiến của nhân dân Việt Nam ở các địa phương để ổn định
tình hình, mặt khác từng bước tạo lập bộ máy chính quyền cại trị, tiến hành đầu tư vơ
vét các nguồn tài nguyên và nông sản của Việt Nam.
Sau hiệp ước 1884, Nam Kì do Bộ Hải quân Pháp nắm giữ, còn Bộ ngoại giao
Pháp phụ trách Bắc và Trung Kì. Chính tình trạng thiếu thống nhất trong việc quản lí
này đã gây cho Pháp nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập
“Liên bang Đông Dương”. Lúc đàu khi mới thành lập, Liên bang Đông Dương mới chỉ
có Việt Nam và Cao Miên. Cho mãi tới năm 1899 (theo sắc lệnh ngày 19/4/1899 của
tổng thống Pháp), Lào mói sáp nhập vào Liên bang Đông Dương. Đông Dương được
chia thành 5 xứ. Từ đó tên nước Việt Nam không còn trên bản đồ thế giới, mà bị chia
thành Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì. Cùng với việc thành lập Liên bang Đông Dương, thực


dân Pháp bắt đầu thực hiện chế độ toàn quyền nhằm thực hiện cuộc khai thác mang tính
chất cướp đoạt, và bóc lột nhân dân Việt Nam đến cùng kiệt.
Theo đó, Bắc Kì là xứ “nửa bảo hộ” do phủ Thống sứ, đứng đầu là viên Thống sứ
quản lí. Còn hệ thống quan lại ngưòi Việt do Triều đình Huế điều hành. Thống sứ Bắc
Kì sẽ thông qua viên Kinh Lược Bắc Kì để chỉ đạo các quan lại người Việt.
Ở Trung Kì, bộ máy cai ttị có phàn đặc biệt hơn. Tức là có sự tồn tại của hai hệ
thống chính quyền của Pháp và của Nam Triều. Nhưng trên thực tế, chính quyền triều
Nguyễn bị thực dân Pháp chi phối và điều khiển.
Ở Nam Kì, đứng đầu bộ máy cai trị là Thống đốc, người có quyền chỉ đạo từ cấp
tỉnh trở xuống và nắm quyền hành pháp, tư pháp ừong tay.
Như vậy, bằng việc sử dụng chính sách “chia để trị” thực dân Pháp thu hẹp quyền

lợi cũng như phạm vi ảnh hưởng của triều Nguyễn để dễ bề cai trị.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan, chiến tranh thế giới
thứ hai chính thức bùng nổ. Việc Pháp tham gia chiến tranh thế giói thứ hai đã làm thay
đổi chính sách của Pháp ở cả chính quốc và thuộc địa. Việt Nam là một trong những
thuộc địa của Pháp. Do những tác động chủ quan (bản chất thực dân) và khách quan
(chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ), Pháp đã thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy” ở
Việt Nam, nhằm vơ vét sức người, sức của ở thuộc địa này. Ở Việt Nam, tháng 9/1940,
Nhật tấn công Pháp bất ngờ, Pháp không chống cự mà nhượng bộ Nhật. Đến năm 1941,
quân Nhật vào Việt Nam, hai kẻ thù xâm lược Pháp - Nhật đã thực hiện chính sách cộng
trị. Nhìn chung trong thời kỳ này, với việc thi hành chính sách “kỉnh tế chỉ huy” thực
dân Pháp đã vơ vét sức ngưòi sức của ở Việt Nam đến mức tối đa nhất.
1.2.2. về kinh tế
Vào nửa sau thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam bắt đàu có những biến chuyển
nhất định. Tuy nhiên cơ cấu kinh tế về cơ bản vẫn chưa thay đổi, bao gồm các ngành
kinh tế truyền thống là nông nghiệp và thủ công nghiệp.
về nông nghiệp
Trong chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam, thực dân Pháp chú trọng nhiều


đến ngành nông nghiệp. Pháp chủ trương cướp đoạt ruộng đất trên cả ba miền của Việt
Nam để lập đồn điền trồng lúa và các loại cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê,
cao su,... vì thế ruộng công làng xã, ruộng của nông dân khai khẩn bị chiếm đoạt dữ dội.
Đặc biệt là các vùng đất màu mỡ được thiên nhiên ưu đãi ở Nam Kỳ. Đến năm 1912 số
ruộng đất bị Pháp chiếm để lập đồn điền lên đến 470.000 hecta ừong đó Nam Kỳ bị
chiếm 308.000 hecta. “Cho đến năm 1895, riêng ở Nam Kì đã có tới 200 xưởng xay xát
gạo với các quy mô lớn nhỏ khác nhau, chuyên chế biển gạo xuất khẩu. Bên cạnh các
xưởng thủ công, vào những năm cuối thể kỉ XIX ở Sài Gòn đã xuất hiện 2 nhà máy xay
xát gạo bằng hơi nước ” [10,ừ.29].
Đến những năm cuối thế kỉ XIX, bên cạnh cây lúa đã xuất hiện một số cây trồng
mới như thuốc lá, thầu dầu, đặc biệt là cây cao su. Điều này đã làm phong phú thêm các

sản phẩm trao đổi hàng hóa giữa các vùng trong cả nước.
Cây cao su được Pháp đặc biệt chú trọng và mở rộng diện tích trồng trọt. Cao su
là một loại cây chỉ thích hợp với những vùng đất phù sa cũ đất đỏ và xám, loại đất này ở
Nam Bộ chạy dài thành một dải theo hướng Bắc Đông Bắc và Nam Đông Nam. Ở vùng
đất đỏ Đông Nam Kỳ, đất không bị cứng, hút nước mưa, không để cho nước chảy thành
dòng và giữ được độ ẩm tốt. Các nhà khoa học Pháp đã phát hiện ở miền Đông của Nam
Kỳ, diện tích đất đỏ tối thiểu là 200.000 hecta tạo thành một dải dài 200 km, rộng từ 2
đến 20 km. Điều kiện tự nhiên kể trên làm cho cây cao su sớm có mặt và gắn bó với
miền Đông của Nam Kỳ. Đặc biệt là ở Thủ Dầu Một, nơi diện tích cao su lớn gấp 3 lần
diện tích trồng lúa nước.
Thủ công nghiệp
Từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Kì, Trung Kì, thủ công nghiệp
Việt Nam bắt đầu chịu tác động và chi phối của chiến tranh. Bên cạnh các xưởng thủ
công do nhà nước quản lí, một số xưởng thủ công của tư nhân cũng có nhiều thay đổi
lớn. Do tác động của chính sách vơ vét và xuất cảng lúa gạo của tư bản Pháp, các cơ sở
chế biến gạo, đặc biệt ở Nam Kì có cơ hội phát triển mạnh. Bên cạnh đó nghề gốm,
nghề làm gạch ngói và vật liệu xây dựng cũng phát triển hơn trước.


Nhìn chung, vào nửa sau thế kỉ XIX, thủ công nghiệp Việt Nam có những thay
đổi đáng kể do tác động của chiến tranh và các chính sách xâm lược của thực dân Pháp.
Tuy nhiên đây cũng là thời kì trung gian, có ý nghĩa quan trọng để nền thủ công nghiệp
truyền thống chuẩn bị bước sang một giai đoạn phát triển mới trên cơ sở những điều
kiện mới về cả ba phương diện: nguồn nguyên liệu, kỹ thuật sản xuất và thị trường tiêu
thụ.
Sau khi thôn tính toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp cũng đã đầu tư xây dựng
thêm cơ sở xay xát gạo, chế biến gỗ, khai mỏ... Những việc làm này của thực dân Pháp
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thương mại ở thuộc địa. Các cơ sở công
nghiệp đó là nền tảng để sản xuất các loại hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng ưong
nước và mục đích thu lợi nhuận của chính quyền thực dân.

1.2.3. về xã hội
Việt Nam có 54 tộc ngưòi vói gàn 90 triệu dân, ừong đó riêng người Kinh (hay
người Việt) chiếm khoảng 86% và 53 tộc người thiểu số chiếm khoảng 14% dân số. về
phương diện ngôn ngữ, các tộc người sinh sống trên đất Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn
ngữ của các hệ Nam Á, Thái, Nam Đảo và
Hán Tạng như: Môn - Khơ me, Việt - Mường, Mông - Dao, hỗn hợp Nam Á, Tày - Thái,
Tạng - Miến, Hán, Nam Đảo. Lãnh thổ và cư dân Việt Nam được hình thành và định
hình ttong tiến trình lịch sử đất nước. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của một cộng đồng cư
dân nhiều tộc người, có tộc người đa số, có tộc người thiểu số, có tộc người đến trước,
có tộc người đến sau, nhưng một khi đã hòa chung vào cộng đồng dân tộc Việt thì
chung sức chung lòng cùng nhau dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử,
nhân dân các dân tộc cả đa số và thiểu số, cả miền núi và miền xuôi đã cùng nhau xây
đắp nên phẩm chất cốt cách của con ngưòi Việt Nam, dân tộc Việt Nam, tạo dựng nên
một nền văn hóa, văn hiến Việt Nam độc đáo với nhiều giá trị cao đẹp.
Từ những biến đổi về mặt chính trị đã dẫn tới những biến đổi sâu sắc về mặt xã
hội của Việt Nam khi bị thực dân Pháp xâm lược. Khi đã đặt ách nô dịch ừên đất nước


Việt Nam, thực dân Pháp nhanh chóng thi hành chính sách khai thác thuộc địa. Trong
bối cảnh đó, sự phân hóa các giai tầng xã hội diễn ra mạnh mẽ, trước hết là giai cấp
nông dân. số nông dân mất đất tăng nhanh do mộng công bị giảm, bị cướp đoạt nên họ
bị bần cùng hóa. Không phải người nông dân mất đất nào cũng có thể ra thành phố xin
được việc làm vì guồng máy công thương nghiệp bị hạn chế. Sự dư thừa nhân công làm
cho thực dân Pháp có điều kiện bóc lột nhân công rẻ mạt và thu lợi. Nông dân cũng là
đối tượng bóc lột quan trọng nhất của chính sách thuế khóa và phu phen tạp dịch.
Xã hội Việt Nam hình thành nên những lực lượng xã hội mới, đặc biệt phải kể
đến đó là tầng lớp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam. Tầng lớp này góp phần tăng thêm lực
lượng hoạt động trong lĩnh vực thương mại mặc dù mói chỉ là những bước đi đầu tiên.
Một số người đã mở xưởng, tiến hành buôn bán lớn, hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu, kinh doanh về giao thông đường thủy và đường bộ, nhưng gặp nhiều khó khăn.

Chỉ có một số người vượt lên như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu trong ngành tàu
thủy, ô tô, mỏ, Trương Văn Bành, Lê Phát An trong ngành kĩ nghệ và đồn điền...
“Trong thời kì này cũng đã có nhiều tư sản Việt Nam bỏ vốn kinh
doanh thương nghiệp - cả nội và ngoại thương. Nhưng do thế lực yếu về
kinh tế, tư sản Việt Nam không thế cạnh hanh được với tư bản Pháp hoặc
ngưòi Hoa trên thị trường. Do đó, nhiều nhà tư sản Việt Nam đã tìm hướng
kinh doanh khác như chuyển sang làm thầu khoán, cho vay lấy lãi hoặc
chuyển tiền về mua ruộng đất để phát canh thu tô. Người Việt Nam chỉ buôn
bán nhỏ, đóng vai ừò phụ thuộc vào Pháp” [5, tr.303].
Như vậy có thể thấy được số thương nhân Việt Nam ngày càng đông đảo cũng là
kết quả của chính sách khai thác thuộc địa của đế quốc Pháp. Tình hình kỉnh doanh
thương nghiệp nhiều, công nghiệp ít của tư sản Việt Nam thể hiện sự phụ thuộc của
thương nghiệp vào chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Bên cạnh đó, sự biến đổi về mặt xã hội còn thể hiện rõ rệt nhất là sự gia tăng dân
số, giữa năm 1870 và 1945, dân số Việt Nam nói chung đã tăng lên gấp đôi.


Nam Kì

Trung Kì

Bắc Kì

1870

dưới 2 triệu

dưới 4 triệu

dưói 5 triệu


1943

dưới 4,2 triệu

dưới 6,2 triệu

dưới 9,6 triệu

Nguôn [2, tr.207]
Sự gia tăng dân số đã tạo ra nguồn nhân công dồi dào hoạt động ttong hàu hết các
lĩnh vực sản xuất. Đồng thời cũng là nguồn tiêu thụ hàng hóa cho thị trường trong và
ngoài nước.
Tóm lại, dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu kinh tế và xã hội nước
ta đã có những biến đổi nhất định. Trong đó, sự gia tăng của các đồn điền trồng lúa,
hồng cao su đã tạo ra nguồn hàng tiêu thụ lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ cũng như
xuất khẩu. Sự xuất hiện của các tầng lớp thương nhân Việt Nam tạo nguồn nhân lực dồi
dào hoạt động ừên lĩnh vực thương nghiệp. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề và góp
phần thúc đẩy kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc phát triển, nhưng trong
khuôn khổ của một nền thương nghiệp thuộc địa.

1.3.
1.3.1.

THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
Chính sách của nhà Nguyễn đổi vói thương nghiệp
Chính sách trọng nông ức thương
Chính sách “trọng nông ức thương” thể hiện rõ nhất ở việc thực hiện lễ tịch điền

vào hằng năm. Trong nghi lễ này, nhà vua đóng vai một tá điền, châm cày xuống ruộng

mở đầu cho một vụ mùa mới trên toàn quốc. Đây thực chất là một chính sách trọng
nông được biểu hiện bằng hành động của nhà vua nhằm động viên nhân dân sản xuất
nông nghiệp. Chính sách trọng nông còn thể hiện bằng việc thu tô thuế bằng thóc, lấy
thóc làm chuẩn giá trị các hóa vật. Năm 1846, khi nghe Lâm Duy Nghĩa tâu về sự an
toàn bờ đê sông Hồng, vua Thiệu Trị ra dụ: “...Quan tỉnh sở tại phải thân hành đến chỗ
có đê, bảo địa phương ấy phải chuẩn bị sẵn sàng, đề phòng khi đê bị nước xói lở; như
thế mới khỏi phụ lòng Trẫm thương dân, trọng nghề nông ” [3,tr.39].
Chính sách trọng nông “dĩ nông vi bản” đã dẫn đến các biện pháp “ức thương”.


Từ quan niệm nghề nông là “nghề căn bản”, “nghề gốc” so với “nghề ngọn” đã hình
thành một quan niệm coi thường nghề buôn, trở thành định kiến của giới sĩ phu, phong
kiến coi nghề buôn là phường “các lái”, bọn “con buôn”, loại “buôn thúng bán mẹt”...
Càng về sau này, trật tự phong kiến bị xô đẩy trước một thế lực mới của xã hội phản
kháng chính sách ức thương của triều Nguyễn, thế lực đó chính là thương nhân. Họ góp
phần làm cho kinh tế hàng hóa phát triển, đưa đất nước thoát khỏi vòng tối tăm, nghèo
nàn, lạc hậu.
Chính sách bế quan tỏa cảng
Mầm mống của chính sách có từ thời Gia Long và trước đó thể hiện ở “ức
thương”, chính sách thuế khóa và kiểm soát ngặt nghèo, phức tạp. Theo các nguồn sử
liệu, vấn đề buôn bán với phương Tây không bị triều đình Huế ngăn cấm, nhưng vì lý
do an ninh, truyền giáo nên chỉ cho mở của biển Đà Nằng để thuyền buôn phương Tây
đến trao đổi hàng hóa. Như vậy, triều đình Huế đối với Phương Tây có mở cửa nhưng
rất hạn chế. Trong các thương đoàn Phương Tây có mặt ở các cửa biển Việt Nam trong
nửa đầu thế kỉ XIX có Pháp, Anh, Mỹ, Bồ Đào Nha. Trong đó, thuyền của Pháp và Anh
đến Việt Nam nhiều nhất. Dưới thời Gia Long, nhà vua có thái độ thiện chí với các
thương đoàn người Pháp nhưng lại rất thành kiến với người Anh.
Tuy nhiên, dưới thời vua Minh Mạng, triều đình cũng đã mở của cho các đoàn
thuyền Viễn Dương của nhà nước đi buôn bán với các nước trong khu vực Đông Nam Á
và xa hơn là đến các bến cảng Phương Tây để thăm dò tình hình thế giới. Một nhãn

quan Quốc tế hóa bắt đàu hình thành nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh thành.
Chính sách “bế quan tỏa cảng” thực chất cũng không phải là chủ trương và mong
muốn của triều Nguyễn, nhưng hậu quả của sự mở cửa nửa vời đó đã tác động tiêu cực
đến thương nghiệp Việt Nam.
Chính sách đắỉ vái tàu thuyền và thương nhân nước ngoài
Các vua triều Nguyễn gần như nhất quán về một chính sách nhân đạo cho tất cả
các chủ thuyền đi biển. Họ đều được ghé vào bờ lấy nước, lấy củi, tránh bão tố...


Triều Nguyễn không những ưu tiên cho thương thuyền Trung Hoa cập bến buôn
bán ở khắp các cửa hàng mà còn tạo điều kiện cho Hoa thương ở lại nước ta cư trú, lập
phố, mở cửa hàng, chế độ hàng Bang là một sáng kiến của triều Nguyễn.
“Đổi với thuyền buôn Phương Tây, tuy bị kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn thay vì
được cứu trợ sau khi bị nạn thì lại đuổi họ ra ngoài biển không cho tự tiện đi lại trong
thôn ấp sau khi cho họ đi kiểm củi, nước uổng ở tại Đà Nằng, đó là thái độ cư xử của
vua Thiệu Trị đổi với chiếc tàu buôn Bút — Tô - Kê” [3,tr.47]. Nhưng khi vào Đà Nằng
họ chịu các khoản thuế cảng, thuế hàng hóa như quy định thì cũng được buôn bán. Thái
độ của các vua Nguyễn đối với lái buôn Phương Tây là cứng rắn, xua đuổi, rõ nhất là
dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức.
Cả một ngành doanh thương gần như khoán trọn cho người Hoa nên họ đã thao
túng thương trường Việt Nam một cách có hệ thống. Một nền tài chính đang bị người
Hoa lũng đoạn. Vua Minh Mạng cảm nhận được nguy cơ về sự giảo hoạt của Hoa
Thương và đề ra một số biện pháp tạm thời để cấm việc buôn bán.
Tháng Giêng năm 1866, cấm thuyền buôn của thương nhân Trung Quốc không
được đến mua gạo ở hai cửa biến An Hải và Nghiêu Phong, thuộc tỉnh Quảng Yên. Cho
phép thuyền buôn của thương nhân Trung Quốc được đến mua gạo ở cửa biển Trà Lý,
thuộc tỉnh Nam Định, nhưng phải nộp thuế: cứ 1000 cân nộp 3 lạng bạc. Lệ này bắt đầu
cho áp dụng từ tháng Giêng năm Bính Dần. Tính đến năm Mậu Thìn (1868), số thuyền
buôn của thương nhân Trung Quốc vào mua gạo ở địa hạt Nam Định có 26 chiếc, ở địa
hạt Hải Dương có 4 chiếc. Tổng số gạo chịu thuế là 1.364.260 cân. Tổng số tiền thuế

thu được là trên 4092 lạng bạc.
“Tháng 6/1867, thương nhân Trung Quốc xin được lập bến muối tại
phủ Ba Xuyên (tỉnh An Giang) và xin lãnh trưng nộp thuế, mỗi năm 6000
quan. Triều đình Huế không cho” [18, tr.89-90].
Vào thời Nguyễn, ngoại giao và kinh tế đối ngoại cần phải thích ứng với thế giới
đang Ầu hóa mạnh mẽ. Tình hình đó làm các vua triều Nguyễn thực hiện chính sách đối


với tàu thuyền và thương nhân nước ngoài vô cùng khỏ khăn và lúng túng đối với
Phương Tây và Trung Hoa.

1.3.2.

Hoạt động thương nghiệp dưới triều Nguyễn (1802 - 1858)
Nội thương
Đầu thế kỷ XIX, đất nước thống nhất đã tạo tiền đề vô cùng thuận lợi cho sự

phát triển của kinh tế hàng hóa. Nhưng tiên thực tế thương nghiệp lại có chiều hướng
suy thoái. Sự độc quyền buôn bán của nhà nước và chính sách trọng nông ức thương của
nhà Nguyễn đã làm ngưng trệ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nhưng do yêu cầu của thị
trường và tiêu dùng trong nhân dân, một số sản phẩm trở thành thương phẩm giao lưu
mạnh mẽ trong thế kỉ XIX như lúa gạo, các loại gỗ quý, các loại đặc sản như trầm
hương, sừng tê, ngà voi, quế, hồ tiêu,....
“Nhà Nguyễn thỉ hành chỉnh sách thuế khóa phức tạp và chế độ kiểm soát chặt
chẽ đổi với hoạt động buôn bán. Thuyền chở gạo từ Nam Định đến Nghệ An phải nộp
thuế 9 lần. Năm 1834, do sợ bạo loạn, Minh Mạng còn ra lệnh cẩm họp chợ”
[17,Ừ.195]. Các mặt hàng do nhà nước độc quyền thu mua chủ yếu là thuốc, hoa quả,
đặc sản... giá cả của các loại hàng này đều được Nhà nước quy định. Mặt hàng buôn bán
thịnh hành lúc này là gạo.
“Hà Nội vào thế kỉ XIX có cả một chợ gạo ở thôn Hương Nghĩa, tổng

Tá Túc, huyện Thọ Xương. Sau khi các lái buôn đưa gạo cả nước về đây để
bán lại cho các đại lý và người tiêu dùng, mà Hoa thương là các lái buôn
chính của mặt hàng này. Năm 1828, hai trấn Thanh Hóa, Nghệ An huy động
164 chiếc thuyền ra Bắc Thành chở gạo và 15 vạn quan tiền về Kinh” [3,
tr.78].
Vào thế kỉ XIX, thị trường trong nước nhỏ bé và phân tán khắp nông thôn, một
số đô thị được quy hoạch và đô thị mới ra đời cũng hoạt động rất khó khăn vì chính
sách ức thương của nhà nước. Các trung tâm buôn bán này không đủ khả năng vươn lên
đáp ứng thị trường dân tộc mà chủ yếu là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cơ bản của nhân


dân với những hàng hóa đơn giản mang tính tự cấp của từng khu vực tạo ra ở hầu hết
các chợ Làng. Trong vùng làng xã nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao
đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy
mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông
sản của mình và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ
chợ này sang chợ khác. Việc mua bán giữa các tỉnh được đẩy mạnh: gạo được chở bán
từ Gia Định ra miền Trung, hàng thủ công miền Bắc được chở vào bán trong Nam.
Trong thời gian này, Sài Gòn là một đô thị thương nghiệp lớn của nước ta với các chợ
Bến Nghé, Bến Thành, chợ Bình An...
Cũng tương tự như ở nông thôn, tình hình buôn bán ở các phố phường, đô thị
giai đoạn này cũng không có gì nổi bật. Đó là do ảnh hưởng của chính sách hạn thương
và độc quyền thương mại làm cho sức mua bán ở các phố phường yếu ớt, ròi rạc. Đô thị
phát huy mạnh mẽ chức năng hành chính hơn là thương mại. Kinh đô Huế có quy hoạch
lại khu thương nghiệp ở phía Đông thành phố, đã hình thành phố Đông Ba, Gia Hội,
chợ Dinh... nhưng chủ yếu để cung cấp hàng hóa cho địa phương và quan chức ở kỉnh
đô chứ không phát triển như một sứ mạng độc lập để vươn lên hình thành thị trường dân
tộc cho cả nước. “Hội An vào thế kỉ XIX buôn bán không thịnh vượng như các thể kỷ
trước, nhưng phổ xá và dân cư ngày càng tấp nập, đông đúc” [3,tr.82].
Do nhu cầu hàng hóa giản đơn, việc mở rộng thị trường bị hạn chế nên việc sản

xuất và lưu thông hàng hóa chưa thực sự phát triển. Tình trạng ngăn sông, cấm chợ, độc
quyền và kiểm soát chặt chẽ của nhà nước làm thị trường ừong nước mất cơ sở để phát
triển. Các luồng buôn bán lúa gạo theo chiều Nam - Bắc và các mặt hàng lâm thổ sản,
hải sản theo chiều Đông - Tây của đất nước không tạo nên sự trù phú đáng kể trong các
chợ Làng mà đối tượng tiêu dùng chính là nông dân. Một thị trường nội địa lấy quan
chức và nông dân làm trung tâm của các nguồn hàng tiêu thụ thì đô thị doanh thương
khó phát triển và luồng mậu dịch trong nước khó mở rộng tham gia vào thị trường quốc
tế.
Ngoại thương


Thương nhân nước ngoài đến buôn bán ở thị trường Việt Nam vào thế kỉ XIX
gồm Hoa Thương, một số nước Đông Nam Á và thương nhân Phương Tây. Đối tượng
chính của thương trường Việt Nam là thương nhân Trung Hoa. Việt Nam nhập khẩu len
dạ, đạn dược và xuất khẩu mặt hàng chính là gạo. Hoa thương buôn bán theo đường
biển và đường bộ, họ là tập đoàn kinh doanh mạnh nhất vào thế kỉ XIX.
“Đối vói ngoại thương, nhà nước thi hành chính sách độc quyền.
Triều đình thường bố trí cho các phái bộ đi công cán kết họp mua bán hàng
hóa ở nước ngoài. Hàng đem bán thường là gạo, đường, lâm thổ sản. Hàng
mua về là len, dạ, vũ khí, đạn dược. Nhà Nguyễn hết sức dè dặt với các nhà
buôn phương Tây. Thương nhân ngoại quốc chủ yếu là người Hoa, Xiêm,
Mã Lai” [17, tr.195].
Năm 1805, cũng có nhiều tàu buôn cập bến Gia Định xin mua hàng, vua Gia
Long đồng ý nhưng bắt họ phải đóng thuế đầy đủ. Còn riêng đối vói Pháp, Gia Long có
chính sách mềm dẻo hơn.
“Năm 1817, vua Gia Long nhận được thông báo của vua Louis 18 của
Pháp đã khôi phục vương vị, xin đặt quan hệ thông thương với nước ta. Năm
sau, triều đình Huế bắt đầu cho mở các cửa Thuận An, Đà Nằng và Gia Định
cho thương nhân Phương Tây đến buôn bán, cho họ chế độ thuế khóa và hối
đoái thuận lọi nên thu hút nhiều thương khách hơn” [3, tr.91].

“Đối với cá nước Đông Nam Á như Ai Lao, Cao Miên, Xiêm la, ....
chỉ chiếm vị trí thứ yếu so với hàng mậu dịch Trung Quốc.
Với các nước lân bang, trên luồng thương nghiệp bộ hành đã hình thành các
chợ biên giói. Ở các trung tâm mậu dịch này, triều Nguyễn đã cho lập các
“bạc dịch trường” ở Lạng Sơn, 9 châu ở Cam Lộ và Tây Ninh để tiện việc
mua bán. Thương nhân các nước Đông Nam Á mang hàng hóa đến trao đổi
rồi về nước chứ không ở lại lâu dài và lập phố cư trú như Hoa thương” [3,
tr.89].
Năm 1832, chính phủ Hoa Kì chính thức đặt quan hệ ngoại giao với triều đình


Huế và cho tàu cập bến Vũng Lấm (Phú Yên). Tuy nhiên, triều Nguyễn lại chủ trương
không kí kết các hiệp ước thương mại với các nước Phương Tây, nhưng lại hoan nghênh
các thuyền buôn của họ đến trao đổi hàng hóa với Việt Nam.
Cán cân xuất nhập khẩu vào thế kỉ XIX của Việt Nam được xác định theo nhu
càu cung cấp và tiêu dùng của thị trường. Tuy nhiên do nhà nước nắm độc quyền về
mậu dịch đối ngoại nên hoạt động doanh thương ở trong nước chỉ có một số ngành, nên
không tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy hàng hóa phát triển.
Tiểu kết chương 1
Việt Nam có vị trí địa lý và những đặc điểm về tự nhiên cũng như về dân cư
thuận tiện cho việc phát triển thương nghiệp: Nằm ở rìa phía đông của bán cầu trên bán
đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á, tiếp giáp với nhiều nước cả trên
đất liền và biển; có nhiều đồi núi và rừng rậm cung cấp lâm thổ sản quý; có hệ thống
sông ngòi dày đặc và bờ biển dài, vừa cung cấp hải sản và thủy sản, vừa đóng góp vào
việc giao lưu hàng hóa giữa các vùng trong nước cũng như ngoài nước. Có các thành
phố và hải cảng lớn thuận tiện cho việc giao thương buôn bán phát triển.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược, với chính sách của triều Nguyễn và của tư bản
Pháp đã tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam trong đó có thương
nghiệp.
Hoạt động thương nghiệp của Việt Nam dưới thời Nguyễn (1802 - 1858) đã tạo

nền tảng cho sự hình thành thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Mặc
dù còn nhiều hạn chế nhưng thương nghiệp thời kỳ này cũng đã đạt được một số thành
tựu đáng kể. Đó là sự gia tăng của hệ thống chợ, hải cảng và Triều Nguyễn cũng đã đặt
được cơ sở buôn bán với một số nước lân cận. Tất cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng và
tác động sâu sắc đến hoạt động kinh tế thương nghiệp Việt Nam thời thuộc địa.


Chưong 2
KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM THỜI KỲ 1858 -1945

2.1.
2.1.1.

KINH TẾ THƯƠNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1858 -1918
Chưoug trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách thương

nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1918)
Sau khi dập tắt phong trào càn Vương, thực dân Pháp về căn bản đã hoàn thành
công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự. Trong bối cảnh đó đã có thể bắt tay vào
khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy
mô. Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động:
‘T. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức
bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang.

2. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho
phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể,
và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương.


3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường
sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất càn thiết cho công cuộc khai thác.

4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực
dân của người Pháp và lao động của người bản xứ.

5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân
và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.

6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên giới
Bắc Kì.

7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp
ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận”


[13, tr.97-98].
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, Đume
chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”. Theo sắc
lệnh ngày 17/10/1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó mới
bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc
địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang
Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ
cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền
phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào
và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ
đoạn này, Pháp hằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Trên lĩnh vực kinh tế, mục đích của thực dân Pháp là bóc lột nhân công, vơ vét
nguồn tài nguyên, biến Việt Nam và Đông Dương thành thị trường của riêng nước nước
Pháp. Vào giai đoạn đầu của cuộc khai thác do chưa có những chỗ dựa vũng chắc trong

khu vực làng xã, nông thôn nên thực dân Pháp chỉ mới chú trong vào hai lĩnh vực chủ
yếu là nông nghiệp và khai mỏ.
Nông nghiệp: nổi bật là chính sách ruộng đất của Pháp. Năm 1897, Pháp ép triều
Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai khẩn đất hoang” cho Pháp. Với tham vọng
xây dựng Việt Nam thành thị trường cung cấp nguyên liệu cho chính quốc Pháp, đội
ngũ thực dân đã ngay lập tức tăng cường cướp đoạt đất đai, thực hiện việc cướp đoạt
bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Công nghiệp: chú trọng khai thác mỏ than và kim loại, ngoài ra ngành công
nghiệp phục vụ đời sống như điện, nước, bưu điện cũng lần lượt ra đời.
Giao thông vận tải: xây dựng hệ thống đường giao thông hiện đại, vừa phục vụ
làm ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.
Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
từng bước du nhập vào Việt Nam. Khi tiến hành khai thác, Pháp vẫn duy trì phương


×