Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.45 KB, 88 trang )

trƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN


nguyễn thị út bình

HOàN THIệN CHíNH SáCH QUảN Lý RủI RO
TRONG CHO VAY THƯƠNG MạI TạI NGÂN HàNG
TMCP ĐạI CHúNG VIệT NAM
Chuyên ngành: quản trị kih donh th ơng mại

Ngời hớng dẫn khoa học:
pgs.ts
. nguyễn văn tuấn
Hà Nội - 2015


trƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QUốC DÂN


nguyễn thị út bình

HOàN THIệN CHíNH SáCH QUảN Lý RủI RO
TRONG CHO VAY THƯƠNG MạI TạI NGÂN HàNG
TMCP ĐạI CHúNG VIệT NAM
Chuyên ngành: quản trị kinh doanh th ơng
mại

Ngời hớng dẫn khoa học:
pgs.ts. nguyễn văn tuấn

Hà Nội - 2015



MC LC
DANH MC T VIT TT
CHNG 3................................................................................................................. 65
GII PHP HON THIN CHNH SCH................................................................65


QUẢN LÝ RỦI RO TRONG CHO VAY THƯƠNG MẠI TẠI NGÂN HÀNG TMCP
ĐẠI CHÚNG VIỆT NAM...........................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CIC
HĐQT
NHNN
NHTM

Trung tâm thông tin tín dụng
Hội đồng quản trị
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại

PVcomBank
QTRR
TMCP
TSĐB
VAMC

Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Chúng Việt Nam

Quản trị rủi ro
Thương mại cổ phần
TSĐB
Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
CHƯƠNG 3................................................................................................................. 65
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH................................................................65
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG CHO VAY THƯƠNG MẠI TẠI NGÂN HÀNG TMCP
ĐẠI CHÚNG VIỆT NAM...........................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................81

SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1:

Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay. . .Error: Reference source not
found

Sơ đồ 2.1:

Bộ máy tổ chức của PVcomBank....Error: Reference source not found

Sơ đồ 2. 2:

Mô hình chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ tại PVcomBank. .Error:
Reference source not found



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại thì hoạt động tín dụng
là một trong những hoạt động cơ bản, đem lại nguồn thu chủ yếu nhưng đồng thời
cũng là hoạt động có mức độ rủi ro cao nhất. Trong lịch sử của các ngân hàng trên
thế giới cũng đã ghi nhận những trường hợp không kiểm soát được rủi ro tín dụng
dẫn tới những tổn thất nặng nề cho ngân hàng, thậm chí còn dẫn tới hậu quả phá sản
ngân hàng. Tại Việt Nam thời gian qua cũng đã xảy ra không ít trường hợp rủi ro tín
dụng dẫn đến những thiệt hại về tài sản và uy tín của các ngân hàng. Hiện nay, khi
sự cạnh tranh trên thị trường ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, tình hình nợ
xấu đang đe doạ sự an toàn của các NHTM thì vấn đề quản trị rủi ro tín dụng đặc
biệt là quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay thương mại đang là vấn đề được các
ngân hàng chú trọng và tập trung phát triển. Để việc quản lý rủi ro trong hoạt động
cho vay thương mại có thể đạt được hiệu quả cao nhất, yêu cầu đặt ra đối với các
Ngân hàng thương mại là phải hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro trong cho vay
thương mại tại Ngân hàng mình.
Là một ngân hàng mới được thành lập từ cuối năm 2013 với tiền thân là Công
ty tài chính dầu khí PVFC và ngân hàng TMCP Phương Tây, Ngân hàng TMCP Đai
chúng Việt Nam (PVcomBank) cũng đã triển khai những bước đầu trong việc xây
dựng chính sách quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay. Tuy nhiên, để việc triển
khai các chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại đạt hiệu quả cao thì
thực tiễn đòi hỏi PVcomBank cần có sự nghiên cứu sâu sắc để có thể đưa ra các giải
pháp vừa đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật đồng thời cũng phải phù hợp với
tình hình hoạt động thực tiễn của ngân hàng.
Chính vì những lý do đó, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu:”Hoàn thiện chính sách
quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt
Nam” cho luận văn cao học của mình.



2

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản và
thực trạng chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại ngân hàng TMCP
Đại Chúng Việt Nam, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về chính sách quản lý rủi ro trong cho
vay thương mại tại các ngân hàng
- Phân tích thực trạng chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại
ngân hàng TMCP Đại chúng – Việt Nam
- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro trong cho
vay thương mại tại ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại
tại ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam
- Phạm vi không gian : Thực trạng chính sách quản lý rủi ro trong cho vay
thương mại tại ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam
- Phạm vi thời gian: Thực trạng chính sách quản lý rủi ro trong cho vay
thương mại tại ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam trong khoảng thời gian từ
năm 2013 đến nửa đầu năm 2015.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính:
- Nguồn dữ liệu thứ cấp:
Các tài liệu lý thuyết liên quan tới vấn đề nghiên cứu: Giáo trình quản trị ngân
hàng thương mại, giáo trình quản trị rủi ro kinh doanh ngân hàng, các văn bản quy
định về quản lý rủi ro trong cho vay thương mại của tổ chức tín dụng, kết quả
nghiên cứu của các tác giả về lĩnh vực rủi ro trong cho vay thương mại trên các

website, báo, tạp chí…
Các tài liệu về quy định, quy trình, hướng dẫn, chính sách tín dụng tại ngân
hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam, các báo cáo tài chính, báo cáo tín dụng tổng hợp,
báo cáo nợ quá hạn, báo cáo xử lý nợ, tài liệu về chính sách quản lý rủi ro của Khối
Quản trị rủi ro – Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam.


3

- Phương pháp phân tích dữ liệu: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, có
sự so sánh qua các năm để đưa ra đánh giá nhận xét.
4. Tổng quan các công trình có liên quan
Tính cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề
quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. Sau đây là
một số công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến phạm vi nghiên cứu:
Hà Thùy Linh (2007), Luận văn thạc sỹ “Tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt
động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, bảo vệ tại trường Đại học
Kinh tế Quốc dân đã nghiên cứu về công tác quản trị rủi ro trong hoạt đông cho vay.
Qua số liệu thu thập và phân tích tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, tác giả đã
đánh giá về hoạt động quản lý rủi ro trong cho vay, cũng như những hạn chế và
nguyên nhân trong quá trình triển khai. Từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường
quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tuy
nhiên thời điểm nghiên cứu luận văn, hoạt động quản trị rủi ro tại các ngân hàng
chưa thực sự được quan tâm và chú trọng đúng mức trong khi đó rủi ro trong hoạt
động cho vay vẫn phát sinh từng ngày, có xu hướng ngày càng phức tạp, do vậy đề
tài chưa đảm bảo tính thực tiễn.
Nguyễn Thùy Trang (2012), Hạn chế rủi ro cho vay tại ngân hàng TMCP
Ngoại thương Chi nhánh Thừa Thiên Huế, bảo vệ tại Trường đại học Đà Nẵng đã
nghiên cứu về các rủi ro trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Ngoại
thương Chi nhánh Thừa Thiên Huế trên cơ sở lý luận về rủi ro phát sinh trong hoạt

động cho vay của ngân hàng thương mại, đánh giá thực trạng rủi ro cho vay phát
sinh tại chi nhánh trên cơ sở số liệu kinh doanh cho vay của chi nhánh. Từ đó đưa ra
đánh giá về mức độ rủi ro và nguyên nhân, Tuy nhiên đối tượng nghiên cứu luận
văn tại Chi nhánh – một bộ phận của hệ thống ngân hàng TMCP Ngoại thương, do
đó hoạt động kinh doanh cũng như khẩu vị rủi ro của Chi nhánh phụ thuộc vào
chiến lược kinh doanh cũng như khẩu vị rủi ro do Hội sở chính đưa ra.
Phạm Thị Hoàng Dung (2012), Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay tiêu
dùng tại Ngân hàng TMCP Nam Á Chi nhánh Bình Định, bảo vệ tại Trường đại học
Đà Nẵng đưa ra cơ sở lý luận đầy đủ, tuy nhiên mặc dù số liệu khá chi tiết nhưng


4

tác giả vẫn chưa thể hiện được sự lô-gic giữa cơ sở lý luận nội dung quản lý rủi ro
trong cho vay với thực tế thực hiện nội dung này tại Ngân hàng TMCP Nam Á Chi
nhánh Bình Định.
Đinh Thị Tươi (2013), Luận văn thạc sỹ “Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng
tại ngân hàng TMCP Đại Dương”, bảo vệ tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã
tập trung nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng. Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận
về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, đánh giá tình hình quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Đại Dương nhưng chưa đánh giá về chính sách quản trị rủi ro tín
dụng nói chung cho toàn hàng, đánh giá chỉ dựa trên kết quả kinh doanh mà bỏ qua
vấn đề về định hướng quản trị rủi ro cũng như bộ máy vận hành công tác quản trị
rủi ro tại chi nhánh.
Hiện tại chưa có công trình nào đề cập về chính sách quản lý rủi ro trong cho
vay thương mại tại ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam. Vì vậy đề tài “Hoàn
thiện chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại ngân hàng TMCP
Đại Chúng Việt Nam” sẽ không bị trùng lặp, đảm bảo tính lý luận, thực tế và ứng
dụng đối với doanh nghiệp trong thời gian tới.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo thì nội dung chính
của luận văn sẽ bao gồm 3 chương:
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về chính sách quản lý rủi ro trong cho vay
thương mại tại ngân hàng.
Chương 2 : Thực trạng chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại tại
ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro trong cho vay
thương mại tại Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam.

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ RỦI RO TRONG CHO VAY THƯƠNG MẠI TẠI
NGÂN HÀNG


5

1.1 Rủi ro trong hoạt động cho vay
1.1.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là một khái niệm được sử dụng rất nhiều trong đời sống cũng như trong
sản xuất kinh doanh. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về rủi ro. Những định nghĩa
này rất phong phú và đa dạng. Có thể chia ra thành hai nhóm quan điểm: truyền
thống và hiện đại.
Theo quan điểm truyền thống: rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn
thất, mất mát, nguy hiểm, là điềm xấu, xảy ra bất ngờ. Trong lĩnh vực kinh doanh,
rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh
doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp. Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát,
nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không
chắc chắn có thể xảy ra cho con người.

Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa
mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn
thất, mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ
hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng
ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, tạo ra những cơ hội để đạt được những kết
quả tốt đẹp.
Hai trường phái trên dù ít nhiều khác nhau, song đều đề cập đến 2 vấn đề :
- Sự không chắc chắn, yếu tố bất trắc
- Một biến cố không mong muốn, một khả năng xấu, tổn thất.
Trong hoạt động kinh doanh thì lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu mà doanh
nghiệp hướng tới. Tuy nhiên, để có được lợi nhuận cao, doanh nghiệp buộc phải
hướng tới các phương án kinh doanh mới mẻ, đột phá, do vậy doanh nghiệp sẽ phải
đối mặt với rủi ro cao. Rủi ro luôn tiềm ẩn, xuất hiện bất ngờ, đe dọa sự sống còn
của doanh nghiệp. Do vậy, tất cả các doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động kinh
doanh, đều cần phải cân nhắc giữa lợi nhuận có được và rủi ro có thể gặp phải để
đưa ra được các quyết định đúng đắn nhất.

1.1.2

Rủi ro trong hoạt động cho vay


6

 Khái niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay
Ngân hàng là một doanh nghiệp thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ - một
loại hàng hóa đặc biệt. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, các Ngân
hàng còn thiếu đa dạng trong kinh doanh các dịch vụ tài chính, vì vậy, hoạt động tín
dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là duy nhất, đặc biệt là
với các Ngân hàng quy mô nhỏ. Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì

hoạt động tín dụng hay cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng
một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có
hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Trong số các nghiệp vụ cấp tín
dụng thì với đa số các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam, hoạt động cho vay là
nghiệp vụ diễn ra nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất, đem lại nhiều lợi nhuận nhất
nhưng cũng đồng thời là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Luật các tổ chức tín
dụng hiện hành đưa ra định nghĩa đối với hoạt động cho vay là hình thức cấp tín
dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Như vậy, với bản chất kể trên của của hoạt động
cho vay cùng với đặc thù là phương tiện trung gian thanh toán của hàng hóa tiền tệ
khiến cho hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Hiểu rõ về rủi ro trong hoạt động cho vay sẽ giúp các ngân hàng nhận diện,
phòng ngừa và xử lý các nguy cơ rủi ro, giúp tối ưu hóa lợi nhuận. Do đó đề tài này
rất được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Một số quan điểm và định nghĩa
về rủi ro trong hoạt động cho vay có thể kể đến như:
Theo tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern Perpective”,
A.Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân
hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự
tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về
cả số lượng và thời hạn.
“Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất khi khách hàng không hoàn trả


7

hoặc hoàn trả không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã ký giữa ngân hàng và khách
hàng” [14, tr 288]
Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày 21/01/2013 về việc phân

loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của các TCTD thì: “Rủi ro tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”. Như vậy, có thể hiểu rủi ro tín dụng hay chính là rủi ro trong hoạt
động cho vay là khả năng xảy ra tổn thất khi khách hàng không trả được nợ hoặc trả
nợ không đầy đủ, không đúng hạn theo như cam kết trong hợp đồng tín dụng đã ký
với ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động cho vay sẽ gây nên những thiệt hại đối với
TCTD, làm mất mát nguồn vốn và suy giảm khả năng chi trả và khả năng thanh
toán các khoản nợ. Tuy nhiên, rủi ro trong cho vay cũng là yếu tố nội tại trong hoạt
động cho vay nên không thể loại trừ hoàn toàn mà chỉ có thể hạn chế và giảm thiểu
tổn thất do nó gây ra.
 Đặc điểm của rủi ro trong hoạt động cho vay
- Rủi ro trong hoạt động cho vay mang tính tất yếu.
Rủi ro trong hoạt động cho vay luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động cho vay.
. Chính vì thế chấp nhận rủi ro là tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng
cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích, nhằm
tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận.
Các Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức độ chấp nhận rủi ro mà Ngân hàng phải
gánh chịu là hợp lý và có thể kiểm soát, nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực
tài chính và tín dụng của ngân hàng.
- Rủi ro trong hoạt động cho vay có tính chất phức tạp và đa dạng
Do đặc trưng của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ nên dẫn đến sự đa dạng và
phức tạp từ nguyên nhân, hình thức, diễn biến sự việc cũng như hậu quả của khirủi
ro xảy ra. Như vậy, muốn phòng ngừa và xử lý tốt rủi ro trong hoạt động cho vay
thì phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu
quả do rủi ro trong hoạt động cho vay đem lại.
- Rủi ro trong hoạt động cho vay mang tính gián tiếp


8


Đặc điểm này xuất phát từ bản chất nghiệp vụ cho vay của ngân hàng là
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một thời hạn nhất định.
Rủi ro trong hoạt động cho vay thường chỉ phát sinh sau khi Ngân hàng giải ngân
vốn vay và trong quá trình sử dụng vốn vay của Khách hàng. Đồng thời, trong hoạt
động cho vay và giám sát sử dụng vốn vay của Ngân hàng, vấn đề bất cân xứng
thông tin luôn xảy ra, Ngân hàng luôn là bên có ít thông tin hơn so với Khách hàng
– bên vay vốn về chính Khách hàng vay, về mục đích sử dụng vốn vay và về các dự
án đầu tư, kinh doanh sản xuất của Bên vay vốn. Bởi nguyên nhân này, ngân hàng
thường ở vào thế bị động,không thể nắm bắt các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện
và đầy đủ do Ngân hàng thường biết được thông tin sau hoặc thông tin không chính
xác khi khách hàng gặp những khó khăn thất bại trong quá trình kinh doanh, gây
thiệt hại, thất thoát về vốn vay trong quá trình sử dụng . Do vậy, sự bất cân xứng về
thông tin và đặc điểm mang tính gián tiếp của rủi ro trong hoạt động cho vay khiến
cho những ứng phó với rủi ro của Ngân hàng thường trở nên chậm trễ.

1.1.3

Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay

Có nhiều cách phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng tùy
thuộc vào tiêu chí phân loại.
 Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh có thể phân loại rủi ro trong hoạt động
cho vay bao gồm rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.

Rủi ro trong hoạt
động cho vay

Rủi ro danh
mục


Rủi ro giao
dịch

Rủi ro
lựa chọn

Rủi ro
kiểm soát

Rủi ro
bảo đảm

Rủi ro
cá biệt

Rủi ro tập
trung cho vay


9

Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay

- Rủi ro giao dịch là rủi ro liên quan đến từng khoản vay của từng khách hàng
cụ thể. Rủi ro giao dịch có thể phát sinh trong quá trình thẩm định xét duyệt cho
vay, kiểm soát sau khi cho vay hoặc do sơ hở trong việc thực hiện bảo đảm tiền vay
và những cam kết ràng buộc trong hợp đồng cho vay. Rủi ro giao dịch bao gồm:
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích cấp tín
dụng khi ngân hàng lựa chọn phương án vay có hiệu quả để ra quyết định cho vay.

+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản bảo đảm, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm
bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản bảo đảm.
+ Rủi ro kiểm soát: là rủi ro liên quan đến công tác kiểm soát, theo dõi khoản
vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ
thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục tín dụng là rủi ro phát sinh liên quan đến sự kết hợp nhiều
khoản vay trong danh mục cho vay của Ngân hàng, do sản phẩm không phù hợp
hoặc quá tập trung cho vay vào một ngành, lĩnh vực. Rủi ro danh mục bao gồm:
+ Rủi ro cá biệt: rủi ro này xuất phát từ các đặc điểm mang tính riêng biệt bên
trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Rủi ro cá biệt xuất phát
từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung: là rủi ro phát sinh do ngân hàng tập trung cho vay quá
nhiều vào một số khách hàng, một ngành kinh tế, một vùng địa lý nhất định hoặc
cho vay cùng một loại hình vay có rủi ro cao.
 Căn cứ theo tính chất của rủi ro: có 2 loại là rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan
- Rủi ro khách quan: Là rủi ro do các nguyên nhân khách quan gây ra như:
chính sách pháp luật của Nhà nước có sự thay đổi, , thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh,
hoả hoạn, người vay bị chết hoặc mất tích… dẫn đến không thu hồi được vốn vay
mặc dù ngân hàng và cả người vay đã thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý và


10

sử dụng khoản vay. Rủi ro khách quan rất khó lường trước, khó phòng trừ và khi
xảy ra thì gây ra hậu quả nặng nề.
- Rủi ro chủ quan: Là rủi ro xuất phát từ phía ngân hàng như thiếu chặt chẽ trong
quy trình cấp tín dụng, chưa đánh giá đúng mức độ rủi ro của khoản vay, công tác kiểm
tra sau cho vay chưa được chú trọng, cán bộ tín dụng làm sai quy trình,… Rủi ro chủ
quan có thể phòng ngừa và hạn chế thông qua các biện pháp quản trị rủi ro phù hợp.

 Căn cứ theo phương diện quản lý: rủi ro có thể kiểm soát, rủi ro không thể
kiểm soát được.
- Rủi ro có thể kiểm soát: là rủi ro mà ngân hàng phần nào dự đoán được
nguyên nhân gây ra, ước lượng mức được độ ảnh hưởng, tổn thất dự kiến, thời gian
phát sinh. Từ đó đưa ra các biện pháp để phòng ngừa, hạn chế tổn thất tới mức thấp
nhất. Những rủi ro loại này thường xuất phát chủ quan do khách hàng hoặc chính
bản thân cán bộ ngân hàng gây ra.
- Rủi ro không thể kiểm soát được: là loại rủi ro cho vay mà các ngân hàng
không thể dự đoán trước được, không tính toán được cụ thể những ảnh hưởng khi
xảy ra. Loại rủi ro này có nguyên nhân xuất phát từ các yếu tố tự nhiên: lũ lụt, hỏa
hoạn, hạn hán, mất mùa, …

1.1.4

Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động cho vay:

 Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
- Chính sách cho vay của ngân hàng không phù hợp với thực trạng nền
kinh tế. Quy trình cho vay còn nhiều kẽ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt
vốn của ngân hàng.
- Nguyên nhân do chất lượng cán bộ nhân viên ngân hàng chưa đáp ứng được
yêu cầu. Nguyên nhân con người có thể do trình độ nghiệp vụ cán bộ tín dụng còn
hạn chế nên việc đánh giá, thẩm định Khách hàng vay, phương án sử dụng vốn vay,
chưa tốt, với các dự án, hồ sơ vay vốn thiếu tính khả thi,chưa đáp ứng đầy đủ các
điều kiện cho vay nhưng vẫn cho vay;Ngoài lý do về trình độ thì yếu tố đạo đức của
cán bộ nhân viên cũng là một nguyên nhân làm phát sinh rủi ro. Cán bộ ngân hàng
thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức kinh doanh như thông đồng với khách
hàng làm giả hồ sơ vay, lập hồ sơ khống để rút tiền, chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
Vì cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng, thẩm định và đưa ra đề xuất cho vay nên nếu chất lượng, trình độ cán



11

bộ tín dụng thấp hoặc cán bộ cố tình gian lận, làm sai quy định của ngân hàng đều
sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng cao.
- Công tác kiểm tra kiểm soát hoạt động cho vay của ngân hàng còn lỏng lẻo,
khó có thể phát hiện kịp thời những sai sót của cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý tín
dụng tại các đơn vị kinh doanh của Ngân hàng, đến khi xảy ra tổn thất thì để lại
thiệt hại rất nặng nề và khó khắc phục.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng nhằm thu hút khách
hàng bằng các thủ tục cho vay đơn giản, thời gian giải ngân nhanh chóng vô hình đã
khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài hơn. Hơn nữa, nhiều ngân hàng
do quá chú trọng đến lợi nhuận nên chấp thuận giải ngân bất chấp những khoản vay
không lành mạnh, thiếu an toàn.
- Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về ngân hàng như: chất lượng
thông tin và xử lý thông tin về khách hàng trong hoạt động cho vay của ngân hàng,
cơ cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ…cũng là nguyên
nhân gây nên rủi ro trong hoạt động cho vay.
 Nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Các nguyên nhân dẫn đến ngân hàng không thu hồi được khoản vay có thể
chia làm 2 loại:
-

Nguyên nhân chủ quan: Là nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng.

Một là, do trình độ quản lý kinh doanh của Khách hàng yếu kém dẫn tới hiệu
quả sử dụng vốn vay thấp, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Nghiêm
trọng hơn, là việc Khách hàng kinh doanh thua lỗ dẫn tới mất khả năng trả nợ.
Hai là, do khách hàng có hành vi gian dối, lừa đảo, thiếu thiện chí trong việc

trả nợ, có hành vi cố tình chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Nhiều khách hàng lập
phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố giả mạo, hoặc đi vay ở
nhiều ngân hàng với cùng bộ hồ sơ.
-

Nguyên nhân khách quan: Là những tác động ngoài tầm kiểm soát của

khách hàng như: thiên tai, hoả hoạn, những thay đổi đột ngột trong chính sách của
các cơ quan chức năng,… khiến khách hàng mặc dù có thiện chí nhưng vẫn không
đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng.
 Nguyên nhân xuất phát từ môi trường kinh tế xã hội:


12

Bên cạnh các nguyên nhân xuất phát từ phía ngân hàng và khách hàng, còn có
rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn tới rủi ro trong hoạt động cho vay xuất phát từ
môi trường kinh tế xã hội. Cụ thể:
- Môi trường kinh tế không ổn định: hoạt động cho vay của các ngân hàng là
một loại hình kinh doanh đặc biệt, nhạy cảm, chịu sự tác động mạnh mẽ từ các
yếu tố của nền kinh tế trong nước và nước ngoài. Bất kỳ sự biến động nào, bao
gồm cả tích cực và tiêu cực nào của nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến thành
công hay thiệt hại đối với người cho vay, cũng như sức mạnh tài chính của các
doanh nghiệp – chính là người vay. Trong giai đoạn kinh tế phát triển, người vay
hoạt động hiệu quả nhưng trái lại, trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thì khả
năng trả nợ của người vay sẽ bị giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của
ngân hàng. Thông thường, các khoản cho vay khó thu hồi nếu khủng hoảng kinh
tế xảy ra.
- Môi trường pháp lý còn chồng chéo, chưa đầy đủ: bất cứ hoạt động kinh
doanh nào trong nền kinh tế đều thực hiện trong khuôn khổ pháp lý. Hoạt động cho

vay của các ngân hàng không những chịu tác động trực tiếp từ môi trường pháp lý,
mà với đặc thù liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, do vây ảnh hưởng từ
môi trường pháp lý tới hoạt động cho vay càng lớn. Khi hệ thống văn bản pháp luật
liên quan đến hoạt động ngân hàng ổn định và lành mạnh thì môi trường kinh doanh
của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại, nếu môi trường pháp lý
thiếu đồng bộ, nhiều khe hở, chưa đầy đủ thì rất dễ bị lợi dụng gây ra tình trạng
tham ô, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản… dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay.
- Môi trường tự nhiên khắc nghiệt: các nhân tố thuộc về môi trường tự nhiên
như thiên tai, lũ lụt, động đất, bệnh dịch,… rất khó lường trước và khi xảy ra thì
thiệt hại mà nó mang lại là rất lớn. Ngày nay, sự biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày
một nhanh chóng, mạnh mẽ và theo chiều hướng khắc nghiệt hơn khiến cho hậu quả
của thiên tai ngày một trầm trọng.
Tóm lại, dù nguyên nhân xuất phát từ phía ngân hàng hay khách hàng, nguyên
nhân chủ quan hay khách quan thì cũng dẫn đến kết quả sau cùng là ngân hàng
không thu hồi được nợ. Do đó việc xác định được nguyên nhân sẽ giúp ngân hàng


13

xây dựng kịch bản phù hợp, đưa ra những biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu rủi
ro hợp lý.

1.2 Quản lý rủi ro và chính sách quản lý rủi ro trong cho vay
thương mại tại ngân hàng
1.2.1 Khái niệm về quản lý rủi ro trong cho vay tại ngân hàng
Rủi ro là điều không thể loại bỏ hoàn toàn, do vậy chấp nhận rủi ro và thực
hiện công tác quản lý rủi ro là nguyên tắc cơ bản, quan trọng đối với các doanh
nghiệp. Đối với ngân hàng, quản lý rủi ro phải thực hiện bao trùm lên toàn bộ các
mặt nghiệp vụ huy động, cho vay, thanh toán…nhằm ngăn ngừa cũng như hạn chế
tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Trong đó quản lý rủi ro trong cho vay của

ngân hàng là một nội dung quan trọng, bởi cho vay là nghiệp vụ chính, cơ bản tạo ra
nguồn thu cho các ngân hàng. Công tác quản lý rủi ro cho vay tốt giúp bảo vệ ngân
hàng, lợi ích của các cổ đông và người gửi tiền. Các ngân hàng luôn thực hiện đánh
giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi nhuận, từ đó tìm ra những
cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Ngân hàng sẽ
hoạt động có hiệu quả nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và nằm
trong tầm kiểm soát của ngân hàng. Như vậy còn có thể hiểu quản lý rủi ro trong
cho vay là quá trình chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước.
Tóm lại, quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay một nội dung quản lý rủi ro
của ngân hàng, là việc tổ chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động, quy trình
nhận diện sớm các dấu hiệu rủi ro; đo lường, đánh giá mức độ rủi ro; để từ đó có
biện pháp kiểm soát, xử lý rủi ro một cách kịp thời, làm giảm các tổn thất có thể
xảy ra và đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

1.2.2

Chỉ tiêu đo lường rủi ro trong cho vay tại ngân hàng

Việc đưa ra các chỉ tiêu đo lường rủi ro trong cho vay sẽ giúp các ngân hàng
trong việc quản lý các khoản vay một cách hiệu quả, có phương án phòng ngừa và
chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý. Dưới đây là một số chỉ tiêu đo lường rủi ro trong
cho vay mà các ngân hàng thường sử dụng.
 Tỷ lệ cho vay không TSĐB/tổng dư nợ


14

Để ngăn ngừa, hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra, các ngân hàng thường yêu
cầu khách hàng vay có TSBĐ để đảm bảo cho khoản vay của mình. TSĐB đóng vai
trò là nguồn trả nợ cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không còn đủ khả

năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ; giúp nâng cao thiện chí trả nợ của khách hàng,
ngăn ngừa rủi ro đạo đức từ phía khách hàng, vì nếu khách hàng không trả được nợ
đồng nghĩa với việc mất đi TSĐB. Trong danh mục cho vay của các ngân hàng
cũng chỉ rõ, loại hình vay nào bắt buộc phải có TSBĐ, tỷ lệ cho vay tương ứng trên
TSBĐ. Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì các TCTD không
được cho vay không TSĐB đối với các doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm
soát, cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán. Đây là những đối tượng khách hàng
và lĩnh vực cho vay chứa đựng nhiều rủi ro nên NHNN yêu cầu các NHTM chỉ
được cho vay đối với các khách hàng có TSĐB.
Như vậy, tỷ lệ cho vay không TSĐB/tổng dư nợ thể hiện mức độ rủi ro của
danh mục cho vay của ngân hàng, tỷ lệ này càng cao thì rủi ro ngân hàng phải
đối mặt càng lớn...Do vậy, các ngân hàng cần phải thường xuyên quan tâm theo
dõi tỷ lệ này để đảm bảo tỷ lệ cho vay không có TSBĐ luôn nằm trong giới hạn
cho phép và phù hợp với tiềm lực tài chính cũng như chiến lược kinh doanh của
ngân hàng.
 Tỷ lệ nợ phải xử lý trong kỳ/Tổng dư nợ
Nợ phải xử lý là những khoản nợ quá hạn hoặc có thể chưa quá hạn nhưng có
dấu hiệu không thu hồi được do khách hàng vi phạm các cam kết với ngân hàng, có
dấu hiệu mất khả năng trả nợ,hoặc cố ý trốn tránh trách nhiệm trả nợ cho ngân
hàng. Tỷ lệ nợ phải xử lý trong kỳ /tổng dư nợ càng cao thì rủi ro ngân hàng phải
đối mặt càng lớn.
 Tỷ lệ tổn thất tín dụng trong kỳ
Cách tính:

Trong đó:


15

Nợ đã xóa trong kỳ là khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi, được

ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro để xử lý, đồng thời chuyển các khoản nợ này ra
ngoại bảng để tiếp tục theo dõi.
Tỷ lệ tổn thất tín dụng trong kỳ càng lớn phản ánh dư nợ đã xóa trong kỳ
chiếm phần lớn trong tổng dư nợ, chứng tỏ ngân hàng đang đối mặt với rủi ro cho
vay khi có quá nhiều các khoản nợ ngoại bảng mà ngân hàng không thể thu hồi
được. Tỷ lệ tổn thất tín dụng trong kỳ giữa các ngân hàng khác nhau là khác nhau,
phụ thuộc vào chính sách xóa nợ của tổ chức đó.
 Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay (sau đây gọi tắt là tỷ lệ dự phòng rủi ro)

Theo quy định tại Điều 3, Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của
NHNN thì dự phòng rủi ro được định nghĩa là số tiền được trích lập và hạch toán
vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng
cụ thể và dự phòng chung. Trong đó, dự phòng cụ thể là số tiền được trích lập để dự
phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể; dự phòng
chung là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng
chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể.
Cũng theo quy định tại điều 12, Mục 2 Thông tư 02 quy định số tiền dự phòng
cụ thể phải trích đối với từng khách hàng được tính theo công thức:
n

R = ∑ Ri ; Ri = (Ai – Ci) x r
i =1

Trong đó:
R: Tổng số tiền dự phòng cụ thể phải trích đối với khách hàng;
n

∑ Ri
i =1


: tổng số tiền dự phòng cụ thể từ số dư nợ thứ 1 đến thứ n của khách hàng;

Ri: số tiền dự phòng cụ thể phải trích đối với số dự nợ thứ i
Ai: số dư nợ gốc thứ i
Ci: giá trị khấu trừ của TSBĐ của khoản nợ thứ I (trường hợp Ci < Ai thì Ri = 0)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể theo nhóm. Cụ thể:


16

Nhóm nợ

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

r

0%

5%

20%


50%

100%

Ngoài ra Quy định mức trích lập dự phòng chung là 0,75% tổng giá trị các
khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Công thức xác định tỷ lệ dự phòng rủi ro
:
Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho biết có bao nhiêu phần trăm dư nợ được trích lập dự
phòng. Chỉ số này càng cao phản ánh chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng
đang tiêu cực, khả năng thu hồi nợ thấp. Và ngược lại, nếu chỉ số này thấp thì có thể
phản ánh chất lượng của các khoản nợ tốt, hoặc có thể do các khoản dự phòng chưa
được trích lập đúng theo quy định.
 Tỷ lệ nợ xấu
Hiện nay đang tồn tại khá nhiều khái niệm nợ xấu khác nhau, một số khái
niệm có thể nhắc tới như:
Theo Phòng Thống kê – Liên hợp quốc : Nợ xấu về cơ bản một khoản nợ được
coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa
trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận.
Theo hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản trị rủi ro tín
dụng của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (Basel Committee on Banking
Supervision – BCBS) xác định việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả
khi một trong hai điều kiện sau xảy ra: ngân hàng thấy người vay không có khả
năng trả nợ đầy đủ trong khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu
hồi; người vay quá hạn trả nợ trên 90 ngày1.
Theo Điều 10, Thông tư 02/2013/TT-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam
ngày 21/01/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng
rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
1


Basel Committee on Banking Supervision 2002


17

dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì nợ được phân loại thành 5 nhóm:
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ trong hạn mà TCTD
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn; nợ quá hạn dưới 10
ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90
ngày, các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180
ngày; các khoản nợ gia hạn nợ lần đầu; nợ được miễn giảm lãi do khách hàng
không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; hoặc các khoản nợ mà
TCTD cấp tín dụng trái với quy định của pháp luật và của TCTD; nợ đang thu hồi
theo kết luận của thanh tra.
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được
cơ cấu lại lần đầu; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá
hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần
thứ ba
Khoản 8, Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản
có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
ngày 21/01/2013 quy định: Nợ xấu là các khoản nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nhóm
4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).

Vậy tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5.
Tỷ lệ nợ xấu =

x 100%

Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu phản ánh tỷ lệ các khoản vay của ngân hàng được đánh
giá là có khả năng tổn thất một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi. Tỷ lệ nợ xấu cho
thấy thực chất tình hình chất lượng cho vay tại ngân hàng, mức độ rủi ro của danh


18

mục cho vay, bao nhiêu đồng đang bị phân loại vào nợ xấu trên 100 đồng cho vay.
Tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu phản ánh khả năng quản lý hoạt động cho vay, đôn đốc thu
hồi nợ của ngân hàng với các khoản vay.
Tỷ lệ nợ xấu của một ngân hàng cao hơn so với trung bình ngành,có xu hướng
tăng lên có thể là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc quản
lý chất lượng các khoản cho vay, rủi ro phải đối mặt trong hoạt động cho vay ngày
càng tăng. Ngược lại, tỷ lệ này thấp so với các năm trước cho thấy chất lượng các
khoản tín dụng được cải thiện,. Hoặc cho thấy các chính sách xóa các khoản nợ xấu
hay thay đổi các phân loại nợ của ngân hàng có hiệu quả.
Theo thông lệ quốc tế, một TCTD có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% được coi là nằm
trong ngưỡng an toàn, khi tỷ lệ nợ xấu đạt 3% trở lên thì tổ chức đó cần phải xem xét,
rà soát lại danh mục cho vay của mình một cách toàn diện, chi tiết và thận trọng hơn.

1.2.3 Chính sách quản lý rủi ro trong cho vay thương mại
Trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt thì rủi ro tiềm ẩn là rất
lớn. Nếu công tác quản lý rủi ro trong cho vay của ngân hàng yếu kém để phát sinh
nhiều rủi ro thì các rủi ro trong cho vay có thể gây ra các thiệt hại nặng nề, không
kiểm soát được, ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Do đó,

ngân hàng luôn phải chú ý đến quản trị rủi ro trong cho vay nhằm đảm bảo an toàn
cho hoạt động kinh doanh cũng như giảm thiểu tổn thất tới mức thấp nhất khi rủi ro
xảy ra.
Tại các ngân hàng thương mại hiện nay công tác quản lý rủi ro trong cho vay
được thực hiện thông qua các công cụ ngăn ngừa rủi ro, trong đó thì chính sách
quản lý rủi ro là một công cụ quan trọng, nhằm xác định mục tiêu và cách thức tiến
hành quản lý rủi ro phù hợp với chiến lược phát triển và hiện trạng thực tiễn tại
từng ngân hàng. Mỗi ngân hàng khác nhau sẽ có những chính sách quản lý rủi ro
trong cho vay khác nhau. Tuy nhiên, chính sách quản lý rủi ro trong cho vay ở tất cả
các Ngân hàng đều có một đặc điểm chung, đó là phải đảm bảo sự hợp lý, rõ ràng,
chính xác nhằm giúp ngân hàng hướng tới và đạt được hai mục tiêu: an toàn trong
hoạt động và đạt lợi nhuận trong kinh doanh. Một chính sách quản lý rủi ro cho vay


19

tốt đồng nghĩa với việc nó phải phù hợp với thực trạng , tình hình thực tế của bản
thân ngân hàng cũng như nền kinh tế.
Chính sách quản lý rủi ro trong cho vay của Ngân hàng thương mại bao gồm:
- Chính sáchquản lý danh mụcvà hạn mức cho vay: là các quy định nhằm
quản lý, khống chế hoạt động cho vay dựa vào danh mục cho vay và hạn mức cho
vay. Đối với từng thời kỳ khác nhau, tùy thuộc và tình hình phát triển kinh tế mà
ngân hàng xem xét, phân tích đưa ra danh mục cho vay theo ngành/lĩnh vực và hạn
mức tương ứng, phù hợp với khẩu vị rủi ro của ngân hàng.
- Chính sách nhận diện, đo lường rủi ro cho vay: việc nhận diện đo lường rủi
ro là một trong những nội dung quan trọng nhất của quản lý rủi ro cho vay của mỗi
ngân hàng.Chính sách nhận diện, đo lường rủi ro cho vay đảm bảo quy định rõ ràng,
hướng dẫn chi tiết việc nhân diện và đo lường rủi ro theo các tiêu chí chung và tiêu
chí riêng của ngân hàng. Đảm bảo 100% các khoản vay đều được đo lường rủi ro
trước khi giải ngân và định kỳ kiểm tra, chấm điểm để có biện pháp xử lý ngay khi

khoản vay có nguy cơ xuất hiện rủi ro.
- Chính sách phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro bao gồm các quy định
về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của NHNN trong từng
thời kỳ
Ngoài ra, với mỗi loại hình cho vay khác nhau thì chính sách quản lý rủi ro
đưa ra để quản lý cũng khác nhau. Thực tế tại các Ngân hàng thương mại hiện nay
có rất nhiều loại hình cho vay: căn cứ theo mục đích sử dụng tiền vay có thể phân
loại thành hai hình thức cho vay là vay tiêu dùng và vay kinh doanh. Trong đó, vay
tiêu dùng là hình thức Ngân hàng cho Khách hàng vay tiền để sử dụng vào việc tiêu
dùng, mua sắm tài sản cố định, phục vụ lợi ích, nhu cầu cá nhân. Đối tượng Khách
hàng vay tiêu dùng là các Khách hàng cá nhân. Ngược lại, vay kinh doanh hướng
tới các doanh nghiệp vay tiền để phục vụ hoạt động kinh doanh, mở rộng sản xuất
hoặc các nhu cầu về tiền khác của doanh nghiệp. Vay kinh doanh lại được phân chia
thành vay sản xuất và vay thương mại dựa theo mục đích kinh doanh của doanh
nghiệp là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương mại.
Như vậy, tóm gọn lại, ta có thể hiểu chính sách quản lý rủi ro trong cho vay


20

thương mại là một bộ phận của chính sách quản lý rủi ro trong cho vay của mỗi
ngân hàng, là công cụ để quản lý hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp
thương mại, đảm bảo phù hợp với chiến lược kinh doanh của ngân hàng đồng thời
giúp nhận diện, ngăn ngừa, phát hiện, đo lường, xử lý rủi ro nhằm giảm thiếu tối đa
tổn thất cho Ngân hàng khi rủi ro xảy ra.

1.2.4 Sự cần thiết phải xây dựng chính sách quản lý rủi ro trong cho
vay thương mại
Cho vay là một trong những hoạt động kinh doanh chủ chốt của các Ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, sự cạnh tranh giữa

các Ngân hàng ngày càng gắt gao, bên cạnh việc trở thành động lực cho sự phát
triển thì cạnh tranh cũng tạo ra một thị trường tín dụng rủi ro hơn cho tất cả các
Ngân hàng. Trong bối cảnh đó, không một ngân hàng hay tổ chức tài chính nào có
thể tồn tại lâu dài mà không có hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng
một hệ thống quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò
sống còn đối với hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, việc đặt ra vấn đề về chính sách
quản lý rủi ro cho vay của mỗi tổ chức nhằm định hướng và đưa ra những quy định
chung về quản lý rủi ro cho vay trên toàn hệ thống để giảm thiểu thiệt hại phát sinh
từ rủi ro cho vay và đảm bảo an toàn hệ thống tín dụng.
Như đã nói ở các phần trên, cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh rất đa
dạng, mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau lại tiềm ẩn những rủi ro khác nhau.
Trong những năm trở lại đây, hội nhập thị trường đã và đang tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại phát triển mạnh mẽ. Do đó
nhu cầu của về vốn của nhóm doanh nghiệp này cũng được các ngân hàng quan
tâm, nắm bắt. Tuy nhiên đồng hành cùng với nhu cầu vốn lớn là rủi ro cao. Do vậy
các ngân hàng phải chú trọng hơn nữa tới rủi ro trong hoạt động cho vay thương
mại song hành trong quá trình thúc đẩy gia tăng dư nợ ở mảng cho vay doanh
nghiệp thương mại. Chính vì vậy, việc xây dựng khung chính sách quản lý rủi ro
trong cho vay thương mại là rất cần thiết để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh


×