Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp Dệt may thuộc khu công nghiệp phố nối B trong điều kiện hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.17 KB, 15 trang )

i

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, quyền SHTT và bảo hộ quyền SHTT chỉ mới được quan tâm
trong thời gian gần đây, và hầu hết các chuyên gia đều cho rằng đó là lĩnh vực mới
mẻ đối với cả các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế, thương mại các cấp.
Thực tế hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được xuất đi nhiều nước, có
kim ngạch cao, được đánh giá cao về chất lượng… song trên thị trường nước ngoài,
hàng nông sản của ta chưa tạo được “dấu ấn”. Mặt khác, ở thị trường nước ngoài,
không chỉ riêng hàng nông sản thực phẩm mà rất nhiều chủng loại hàng hóa khác
có xuất xứ từ Việt Nam nhưng lại hiện diện với tên gọi khác hay mang tên địa
danh Việt Nam nhưng thực chất lại không phải như vậy.
Dù Việt Nam đã tham gia các hiệp định và công ước quốc tế về SHTT, có
nhiều nỗ lực xây dựng và ban hành chính sách, luật pháp liên quan tới lĩnh vực
SHTT nói chung và quyền SHTT với hàng nông sản thực phẩm nói riêng, nhưng
hiện trạng cũng cho thấy nhiều bất cập: vi phạm quyền là tương đối phổ biến;
Công tác QLNN còn hạn chế (tổ chức bộ máy, nhân sự, hệ thống các văn bản luật
pháp chính sách; hướng dẫn thực thi và kiểm soát, xử lý những vi phạm…).
2. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Quyền SHTT và công tác QLNN nhằm thực thi, bảo vệ quyền của người
nắm giữ quyền hoặc người được thụ hưởng quyền đó một cách hợp pháp
- Thực tiễn thực thi bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản Việt Nam; phân
tích, đánh giá để đưa ra những giải pháp hữu ích giúp nâng cao hiệu quả công tác
QLNN về bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: vấn đề quản lý nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng
nông sản. Cách tiếp cận khái niệm “hàng nông sản” trong luận văn đi theo hướng
hiểu theo quan niệm của FAO cũng như phân loại ISIC và CPC. Đối tượng bảo hộ



ii

quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản ở đây bao gồm: NHHH, NHTT, NHCN,
chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng mới. Tuy nhiên, luận văn tập trung đi vào việc bảo
hộ đối với một số sản phẩm nông sản, thực phẩm dưới hình thức bảo hộ chỉ dẫn
địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận.
Về thời gian: thực trạng quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
với hàng nông sản, thực phẩm trong giai đoạn từ 2000 đến nay, phạm vi nghiên
cứu của hoạt động quản lý tập trung vào thị trường nội địa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm biện chứng, các định hướng và đề
xuất vừa gắn với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cam kết hội
nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể được sử dụng: Phương pháp phân tích, thống kê và so sánh,
Phương pháp tổng quan tài liệu, Phương pháp chuyên gia
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu theo lối truyền thống 3 chương:
Chương 1. Cơ sở luận của quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
với hàng nông sản Việt Nam
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với
hàng nông sản Việt Nam
Chương 3. Giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản Việt Nam trong thời gian tới

CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng nông sản

1.1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ


iii

a. Tài sản trí tuệ
Sở hữu trí tuệ được hiểu là việc sở hữu các tài sản trí tuệ - những kết quả từ
hoạt động tư duy, sáng tạo của con người, chúng có những đặc thù: Thuộc tính “vô
hình”, Thuộc tính “công”, Thuộc tính “tích lũy” hay tính “phái sinh”, Tính
“tương đối” của các quyền của người nắm giữ đối với tài sản trí tuệ
b. Quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ có thể hiểu là quyền của các pháp nhân hay cá nhân
đối với các tài sản/sản phẩm trí tuệ do con người sáng tạo ra.
c. Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
Hiện nay ở Việt Nam cũng như phần lớn các quốc gia trên thế giới,
quyền sở hữu trí tuệ được chia thành hai nhánh: SHCN; quyền tác giả và quyền
liên quan đến quyền tác giả.
d. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Bảo vệ quyền SHTT có thể được hiểu là việc chủ thể quyền SHTT hoặc cơ
quan có thẩm quyền sử dụng các biện pháp cần thiết mà pháp luật cho phép để bảo
đảm quyền SHTT được thực thi trên thực tế.
Hoạt động bảo vệ quyền SHTT của mỗi quốc gia luôn dựa trên một số nền
tảng cơ bản: hệ thống văn bản pháp luật - khung pháp lý xác định và làm rõ quyền,
thủ tục; hệ thống cơ quan bảo vệ quyền và các biện pháp xử lý xâm phạm
1.1.2. Nội dung bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng nông sản
a. Đối tượng được bảo hộ
Do đặc tính của hàng nông sản thường gắn và mang những đặc thù của sản
xuất địa phương, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng địa phương... nên trong bảo hộ
quyền SHTT với hàng nông sản đối tượng được bảo hộ tập trung vào ba loại: nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý/ tên gọi xuất xứ, giống cây trồng.

b. Điều kiện bảo hộ và xác lập quyền
Căn cứ vào đối tượng bảo hộ trong bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản,
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ xây dựng hệ thống SHTT
để bảo hộ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể với các đối tượng này. Mục đích


iv

chính là chống lại việc sử dụng các dấu hiệu gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và
các hành vi gây nhầm lẫn nói chung. Những vấn đề này được nêu cụ thể trong các
Hiệp định/ công ước quốc tế cũng như trong Luật chuyên ngành của các quốc gia.
Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam:
1.1.3. Đặc điểm của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng nông sản
trong điều kiện Việt Nam
Do SHTT là một lĩnh vực đặc thù, với nhiều đối tượng bảo hộ và khá mới
mẻ nên có thể thấy việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản ở Việt Nam
hiện nay cũng có một số nét đặc thù do những đặc trưng của lĩnh vực SHTT và
việc bảo hộ quyền SHTT đối với hàng nông sản qui định. Mặt khác, đặt trong bối
cảnh chung, những đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ cũng
có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý nhà nước và tăng cường bảo hộ quyền
SHTT với hàng nông sản.
1.1.4. Vai trò của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng nông sản
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản đem lại những lợi ích giống
như bảo hộ cho các đối tượng quyền SHTT nói chung song cũng có những nét đặc
thù của đối tượng bảo hộ này như: tạo ra sự “đảm bảo xuất xứ” cho sản phẩm nông
sản đó, đảm bảo về chất lượng sản phẩm được cung cấp, đảm bảo về nơi sản xuất
và phân phối sản phẩm, nâng cao giá trị cho sản phẩm nông sản xuất khẩu….
1.2. Quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng nông sản
1.2.1. Yêu cầu và nguyên tắc của quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ đối với hàng nông sản

1.2.2. Nội dung của quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với hàng nông sản
Quản lý nhà nước về bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản Việt Nam là
một điều không đơn giản. Bởi mỗi một đối tượng bảo hộ khác nhau (nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý) lại có cách thức quản lý khác nhau. Mặt khác, những đối tượng này có
thể được các chủ sở hữu hàng hóa sử dụng lưu thông trên cả thị trường trong nước
và nước ngoài và sự phi phạm cũng có thể xảy ra ở cả hai phạm vi đó. Vì vậy,


v

ngoài việc xác định những nội dung quản lý chung như soạn thảo, ban hành văn
bản pháp luật; tổ chức thực thi; kiểm soát vi phạm, cần xác định hợp tác trong lĩnh
vực SHTT là một nội dung quan trọng. Tuy vậy, với các đối tượng bảo hộ này việc
quản lý và bảo hộ theo hướng quản lý từ tiếp nhận và xử lý đơn, công nhận quyền,
quản lý bảo hộ, giám sát vi phạm... trên cơ sở luật pháp quy định và sự phối kết
hợp của các bộ phận quản lý liên quan.
1.2.3. Phƣơng pháp quản lý, công cụ quản lý, bộ máy quản lý và biện
pháp thực thi trong quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với
hàng nông sản
a. Phương pháp quản lý trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ với hàng nông sản
Phương pháp quản lý có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng tới kết quả - thành
công hay thất bại của hoạt động quản lý. Các phương pháp quản lý thích hợp sẽ
khơi dậy sự sáng tạo, tạo động lực cho các chủ thể, tạo điều kiện khai thác tiềm
năng có lợi từ các hoạt động thương mại. Giống như trong quản lý nhà nước về
kinh tế, thương mại, trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền SHTT với hàng nông
sản, người ta cũng sử dụng chủ yếu 3 phương pháp: Phương pháp hành chính,
Phương pháp kinh tế, Phương pháp giáo dục, tuyên truyền
b. Công cụ quản lý trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền SHTT với

hàng nông sản: Công cụ luật pháp, Chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
Công cụ khác
c. Bộ máy quản lý trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền SHTT với
hàng nông sản
Các cơ quan QLNN về SHTT được chia theo ngành và theo cấp, trong đó:
Chính phủ thống nhất trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ. Chính phủ quy
định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ của Bộ
Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các cấp. Các cơ quan
quản lý nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng và thi hành là Bộ Khoa học và Công


vi

nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp, Bộ Công thương, Bộ Tài
chính, Tổng cục hải quan (thuộc Bộ Tài chính), Cục Sở hữu trí tuệ (thuộc Bộ Khoa
học và Công nghệ) và Cục Bản quyền tác giả văn học nghệ thuật (thuộc Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch). Cơ quan bảo đảm thực thi được giao cho cơ quan Hải
quan, Quản lý thị trường, Cảnh sát kinh tế, Thanh tra khoa học và công nghệ,
Thanh tra văn hóa, thể thao và du lịch, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/ thành phố và
quận/ huyện.
d. Biện pháp thực thi trong QLNN về bảo hộ quyền SHTT với hàng nông
sản
Trên phạm vi quốc gia, một số quốc gia - trong đó có Việt Nam, cũng đang
củng cố khung khổ pháp lý và cơ cấu tổ chức của mình để đáp ứng các chuẩn quốc
tế, dù rằng với các mức độ phù hợp khác nhau. Việc thực thi quyền SHTT nói
chung và trong QLNN bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản nói riêng có thể
được thực hiện dưới 4 hình thức cơ bản: thực thi hành chính, thực thi dân sự, thực
thi hình sự, thực thi bằng công nghệ.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu trí

tuệ đối với hàng nông sản
Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của EU, một số nước ASEAN, Ấn Độ…
trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản, thực phẩm, có
thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần nghiên cứu kỹ luật pháp WTO về sở hữu trí tuệ liên quan đến
hàng nông sản
Thứ hai, đảm bảo hài hòa luật Quyền SHTT với luật và hiệp định quốc tế.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tổ chức, thực thi, giám sát có hiệu quả với các
đối tượng SHTT nói chung và với bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản, thực
phẩm;
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế về SHTT với các nước trong khu vực và
trên thế giới; đặc biệt là thiết lập được các mối quan hệ gắn với việc công nhận lẫn
nhau liên quan đến bảo hộ quyền SHTT với hàng nông sản, thực phẩm.


vii

CHƢƠNG 2.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM

2.1. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam thời gian qua
2.1.1. Khái quát thực trạng quản lý nhà nƣớc về SHTT ở Việt Nam
Quá trình phát triển các hoạt động quản lý nhà nước về SHTT của Việt Nam
có thể điểm lại trên các mặt sau:
a. Thực trạng công tác pháp chế, chính sách quản lý hoạt động SHTT
b. Thực trạng xác lập quyền sở hữu trí tuệ
c. Thực trạng thực thi, xử lý vi phạm
2.1.2. Đánh giá chung thực trạng quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam

-

Hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam dần tiệm cận với thế giới. Các văn
bản pháp luật của Việt Nam về cơ bản đã phủ đầy các đối tượng bảo hộ; đã ban
hành được luật chuyên ngành đầu tiên điều chỉnh trong lĩnh vực SHTT. Tuy
nhiên, các luật điều chỉnh cụ thể cho từng đối tượng SHTT thì chưa có

-

Việc tổ chức thi hành và thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến bảo hộ
các đối tượng SHTT tiếp tục được cải tiến song tính hiệu quả chưa cao.

-

Việc phối hợp giữa cơ quan xác lập quyền với cơ quan bảo vệ quyền và các đối
tượng liên quan chưa tốt. Thực thi vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống SHTT ở
Việt Nam mà nguyên nhân: SHTT còn khá mới mẻ với các cơ quan có thẩm
quyền, năng lực của các cơ quan này chưa cao, hoạt động chưa được chuyên
môn hóa, cơ chế phối hợp chưa hoàn hảo, những chế tài chưa đủ mạnh… ;
nhận thức của các giới, các thành phần xã hội về SHTT chưa đúng mức.

-

Vi phạm về SHTT có xu hướng ngày càng tinh vi, phức tạp.

-

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về SHTT được đẩy mạnh, nhưng
hiệu quả còn hạn chế. Năng lực chuyên môn của hệ thống đảm bảo thực thi
SHTT còn chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.



viii

-

Hợp tác quốc tế về SHTT tiếp tục được tăng cường.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng
nông sản Việt Nam
2.2.1. Cơ sở pháp lý để xác lập và thực thi quyền
Các văn bản pháp luật chung: Phần VI Bộ Luật dân sự; Luật SHTT
- Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về việc bảo hộ SC,
GPHI, KDCN, NHHH và TGXXHH; cụ thể hóa các quy định nêu trong Chương 2
phần VI Bộ Luật dân sự nhưng cũng quy định thêm về những thủ tục, trình tự hành
chính - nhất là thủ tục đăng ký quyền
- Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 quy định việc bảo hộ bí mật
kinh doanh, CDĐL, tên thương mại và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Nghị định 06/2001/NĐ-CP  Các thủ tục đăng ký quyền đối với SC,
KDCN, NHHH và TGXXHH tiếp tục được đơn giản hóa.
- Các nghị định 103, 105, 106/2006/NĐ-CP; thông tư 01/2007/TT-BKHCN
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật SHTT
2.2.2. Phân công, phân cấp quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ với hàng nông sản Việt Nam
Cục SHTT thuộc Bộ Khoa học và công nghệ theo sự phân công thực hiện
trực tiếp QLNN về bảo hộ quyền SHTT với đối tượng địa danh sử dụng với hàng
nông sản. Ngoài ra, còn có một số cơ quan bảo đảm thực thi quyền theo quy định
pháp luật: Hải quan, Quản lý thị trường, Cảnh sát kinh tế, Thanh tra khoa học và
công nghệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/ thành phố và quận/ huyện
2.2.3. Thực trạng xác lập bảo hộ quyền SHTT cho hàng nông sản

Tính đến 3/2008, trong tổng số 220 địa danh được sử dụng cho các sản
phẩm địa phương, 48 địa danh đã được bảo hộ (12 nhãn hiệu, 25 nhãn hiệu tập thể,
11 chỉ dẫn địa lý), 30 địa danh đã được nộp đơn đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (11
nhãn hiệu, 10 nhãn hiệu tập thể, 9 chỉ dẫn địa lý)..
Cho đến hết năm 2007, đã có tổng cộng 32 đơn đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa
lý được được sử dụng cho các sản phẩm địa phương nộp cho cục sở hữu trí tuệ,


ix

trong số này có 31 đơn của Việt Nam và 1 đơn của nước ngoài. Số lượng đơn nộp
chỉ tăng đột biến trong năm 2003, với 12 đơn. Hai đơn đăng ký đầu tiên cho hai chỉ
dẫn địa lý Phú Quốc (cho nước mắm) và Mộc Châu (cho chè Shan tuyết) là vào
năm 2000 và đã được đăng bạ vào năm 2001.
Trong số những đơn đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý được nộp ở trên thì đã có
11 tên địa danh gắn với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được đăng bạ. Chiếm 9
trong số này là các chỉ dẫn địa lý gắn với hàng nông sản như chè, cà phê, gạo, cam.
Hiện ở Việt Nam còn có 2 chỉ dẫn địa lý nước ngoài được đăng ký bảo hộ tại là
Rượu Cognac (Pháp) - đăng ký ngày 13.05.2002 và Rượu Pisco (Peru) - đăng ký
ngày 23.05.2007 và đã được đăng bạ. Bảng 2.7 và Bảng 2.8 trang bên cho thấy
thực trạng đăng ký và đăng bạ chỉ dẫn địa lý sử dụng cho hàng nông sản Việt Nam.
Tuy nhiên, đến tháng 8/2008, đã có thêm 2 sản phẩm nông nghiệp nữa được đăng
bạ, nâng tổng số chỉ dẫn địa lý đăng bạ lên con số 15; trong đó mới đây nhất, vào
ngày 27/06/2008, chỉ dẫn địa lý “Lục Ngạn” cho sản phẩm vải thiều đã được trao
với số đăng bạ 00015.
Ngoài việc đăng ký bảo hộ theo hình thức CDĐL, các tổ chức, cá nhân cũng
nộp đơn cho Cục SHTT trong thời gian qua để đăng ký bảo hộ cho hàng nông sản
địa phương gắn với địa danh dưới hình thức nhãn hiệu và NHTT. Có một thực tế là
trong số tất cả các đơn đăng ký đã nộp, không có đơn nào đăng ký bảo hộ địa danh
sử dụng cho hàng nông sản dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận và một số địa

danh mặc dù trên thực tế là đáp ứng yêu cầu cho bảo hộ dưới hình thức chỉ dẫn địa
lý nhưng lại đăng ký bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu hay nhãn hiệu tập thể.
2.2.4. Thực trạng thực thi và xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản Việt Nam
Nếu so sánh về hình thức và mức độ của các vi phạm về việc nhái nhãn
mác, kiểu dáng công nghiệp… của các đối tượng bảo hộ trong sở hữu công nghiệp
thì việc vi phạm trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản thường chỉ
tập trung vào một vài dạng điển hình. Những vi phạm về việc sử dụng địa danh làm
cho người tiêu dùng hiểu lầm, gây tổn thất cho người sản xuất lẫn tiêu dùng hay


x

“nhái” nhãn hiệu... không phải hiếm gặp. Việc vi phạm cũng có thể xảy ra trên thị
trường nội địa nhưng cũng có thể diễn ra ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc xử lý vi
phạm và phát hiện sai phạm thường khó khăn hơn các đối tượng bảo hộ khác.
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối
với hàng nông sản Việt Nam thời gian qua
2.3.1. Mặt được
Hệ thống pháp luật về SHTT nói chung và pháp luật SHTT liên quan đến
bảo hộ quyền SHTT cho hàng nông sản ngày càng được hoàn thiện.
Hệ thống các cơ quan quản lý và thực thi nhằm bảo hộ quyền SHTT với
hàng nông sản thực phẩm đã được quy định cụ thể hơn, có sự tách bạch về chức
năng, nhiệm vụ. Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong tổ chức thực thi và kết
nối với các bộ phận phía dưới như UBND các cấp, các tổ chức, hiệp hội và các
đơn vị sản xuất kinh doanh liên quan ở dưới. Các chế tài xử phạt vi phạm cũng
ngày được hoàn thiện hơn và thể hiện rõ tính răn đe. Công tác thanh kiểm tra bước
đầu đi vào nề nếp. Mặt khác, vai trò của nhà nước trong công tác quản lý cũng thể
hiện ở việc đã bước đầu làm tốt chức năng “bà đỡ” và tạo cơ sở pháp lý cho việc
bảo hộ các sản phẩm nông sản, thực phẩm của Việt Nam ở nước ngoài. Công tác

đào tạo, bồi dưỡng cũng được chú trọng.
Việc tăng cường vai trò của nhà nước trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với
hàng nông sản đã góp phần nâng cao ý thức của người dân về việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ nói chung và cho các sản phẩm nông sản nói riêng của Việt Nam.
2.3.2. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân
Hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế. Các quy định về quy trình thực hiện
bảo hộ, đăng ký chưa cụ thể; Vẫn còn hiện tượng chồng chéo trong công tác thực
thi. Ngoài ra còn phải kể đến việc tiếp cận với các thông tin của các bộ phận bị
quản lý với các tổ chức, cơ quan thực thi còn khá hạn chế
Về thực thi
- Việc thực thi quyền SHTT trong QLNN về bảo hộ quyền SHTT với hàng
nông sản chưa hệ thống và thiếu hiệu quả. So với yêu cầu thực tiễn, hệ thống


xi

SHTT Việt Nam trong lĩnh vực này vẫn đứng trước nhiều thách thức, khó khăn,
trong đó đặc biệt là việc thiếu cán bộ, thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý các tranh
chấp và vi phạm quyền SHTT, hiểu biết xã hội về vấn đề này chưa cao.
- Việc tiến hành xác định và đánh giá chất lượng của sản phẩm nông sản
gặp nhiều khó khăn do còn thiếu nhiều điều kiện về trang thiết bị, phương pháp
phân tích; thiếu kinh nghiệm trong việc xác định các điều kiện địa lý quyết định
đặc tính sản phẩm nên việc thuyết minh các yếu tố tạo nên đặc tính sản phẩm gặp
nhiều khó khăn; khung pháp lý về vấn đề này chưa hòan chỉnh. Hiện chỉ dẫn địa lý
là một khái niệm mới được pháp luật quy định nên đa số từ cán bộ quản lý đến
người sản xuất kinh doanh đều chưa hiểu hết ý nghĩa và nội dung cũng như lợi ích
của việc bảo hộ này. Trong khi đó, các văn bản pháp lý, nhất là các văn bản hướng
dẫn cụ thể còn thiếu. Vì thế các vùng sản xuất nông nghiệp, các hiệp hội chưa có
đầy đủ các hướng dẫn để thực thi.
Vẫn có rất nhiều doanh nghiệp, địa phương vẫn chưa nhận thức được vai trò

quan trọng của các sản phẩm đặc sản và việc đăng ký bảo hộ cho sản phẩm này.
Trong quản lý việc đăng ký bảo hộ: một số địa danh đáp ứng các tiêu chuẩn
bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhưng đã được đăng ký bảo hộ dưới hình thức khác là nhãn
hiệu, từ đó, quyền lợi của các tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm tại
vùng địa danh bị ảnh hưởng, quyền sử dụng địa danh đó cho sản phẩm do mình
sản xuất bị ảnh hưởng và có nguy cơ bị chủ sở hữu nhãn hiệu ngăn cấm; dẫn đến
những tranh chấp không đáng có xảy ra.
Hiện chưa CDĐL nào của Việt Nam được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài, và
do thiếu kinh nghiệm, chưa chỉ dẫn địa lý nào đã đăng ký trong nước được tổ chức
khai thác, quản lý một cách có hệ thống

CHƢƠNG 3.
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU LỰC CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI


xii

3.1. Quan điểm, định hƣớng nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nƣớc
trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu lực công tác tác quản lý nhà nƣớc về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng nông sản Việt Nam
3.2.1.Từng bước thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản; phát huy vai trò chủ đạo của nhà nước
trong quản lý và thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ với hàng nông sản
Hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam nói chung, thời gian tới cần

tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng
nông sản nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ. Trong đó cần lưu ý đến các công việc:
- Kịp thời xây dựng, ban hành, trình ban hành và điều chỉnh chính sách,
pháp luật về SHCN để tạo điều kiện tốt nhất cho các hoạt động quản lý nhà nước
về sở hữu trí tuệ ở trung ương và địa phương. Thực hiện rà soát lại hệ thống luật lệ
và các chính sách có liên quan để tìm ra những bất cập cần phải chỉnh sửa hay có
những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Trên cơ sở đó, các cơ quan hữu quan sẽ xây
dựng kế hoạch và các bước đi phù hợp (sửa đổi, bổ sung kịp thời các quy định
pháp lý còn thiếu hay chưa phù hợp...)
- Nhanh chóng hoàn thiện Luật Sở hữu trí tuệ để từng bước nâng cao hiệu
lực và hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Chi tiết hóa và có hướng dẫn cụ thể các văn bản pháp luật liên quan đến
từng đối tượng bảo hộ trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với
hàng nông sản thực phẩm
- Từng bước xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn bảo hộ, các thủ tục xác lập
quyền và thủ tục đảm bảo thực thi


xiii

- Ban hành các văn bản pháp quy quy định rõ về trình tự, thủ tục khiếu nại
cũng như các khiếu kiện liên quan đến quyền sở hữu với nhãn hiệu và quyền sử
dụng chỉ dẫn địa lý dùng cho hàng nông sản thực phẩm.
- Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ với hàng nông sản thực phẩm cần chú ý đến khía cạnh các biện pháp pháp chế
có thể ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm khắc mọi hành vi xâm phạm
- Chủ động và tranh thủ các chương trình hợp tác quốc tế và sự trợ giúp
pháp lý từ bên ngoài
- Xúc tiến xây dựng Luật chỉ dẫn địa lý và Luật Nhãn hiệu.
3.2.3. Đổi mới và kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản
Bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có vai trò
là đầu mối trong các công việc: chủ trì, phối kết hợp với các cơ quan và bộ phận
hữu quan để tổ chức thi hành pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản thực phẩm nói riêng. Do vậy, công tác
thực thi và hiệu quả của nó sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả hoạt động của các cơ
quan quản lý này.
Để giải quyết vấn đề này và nhằm hướng tới một sự “đổi mới” và “kiện
toàn” trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ nói chung và
với hàng nông sản, thực phẩm nói riêng, nên quy các cơ quan quản lý nhà nước về
sở hữu trí tuệ này về một mối. Song song với đó là xây dựng được một cơ chế phối
hợp hữu hiệu giữa các bộ phận quản lý và thực thi.
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong
quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản
Cơ chế thực thi của ta chưa được hoàn thiện và phát huy đúng mức. Dù hiện
nay chúng ta đã có đủ ba biện pháp chế tài được quy định trong các văn bản pháp
luật là dân sự, hành chính, hình sự song chính trong bản thân các văn bản đó còn
thiếu những quy định cụ thể để áp dụng các biện pháp đó. Vai trò chủ đạo của biện
pháp chế tài dân sự chưa được phát huy tối đa mà chỉ mới thực hiện biện pháp


xiv

hành chính khiến cho cơ chế thực thi của ta chưa phát huy tác dụng. Vì thế, số vụ
việc được giải quyết trước tòa là rất ít. Ngoài ra, việc thực thi các biện pháp chế tài
còn gặp vướng mắc. Vướng mắc lớn nhất là các quy định mới chỉ dừng lại ở
nguyên tắc mà chưa đủ chi tiết, cụ thể. Hơn thế, một số vấn đề vẫn chưa được làm
rõ như: ranh giới áp dụng biện pháp hình sự và hành chính, bảo đảm tính đúng đắn
và công bằng, thỏa đáng khi áp dụng các biện pháp chế tài như thế nào, khả năng
áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời... Trước những vấn đề này, những giải

pháp hoàn thiện với cơ chế đảm bảo thực thi trong quản lý nhà nước về sở hữu trí
tuệ nói chung và với hàng nông sản Việt Nam sẽ tập trung vào việc hoàn thiện cơ
chế bảo đảm thực thi trong pháp luật hành chính, dân sự và hình sự:
Ngoài ra, để có thể thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý
nhà nước trong thực thi quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản, thời gian tới, nhà
nước cần phải quan tâm, giải quyết đồng bộ những vấn đề chủ yếu sau:
- Cần sớm hình thành nên một tòa án chuyên trách về sở hữu trí tuệ,
- Tăng cường năng lực thực thi của tòa án, cơ quan hữu quan có liên quan.
- Tăng cường công tác đào tạo
- Xây dựng cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa các cơ quan bảo đảm thực thi
hoặc hỗ trợ thực thi
- Xây dựng và thực hiện các chiến dịch kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm
3.2.5. Giải pháp hỗ trợ của nhà nước và các cơ quan quản lý nhà nước
cho các tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu quyền
Thứ nhất, hỗ trợ các chủ thể đăng ký, xác lập quyền
Thứ hai, hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể cho các hình thức bảo
hộ của hàng nông sản
Thứ ba, hỗ trợ và phối hợp trong công tác thực thi và thực tiễn quản lý để
có thể phát huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng nông sản địa phương.
Thứ tư, xúc tiến xây dựng và triển khai mô hình chuẩn về quản lý nhà nước
với các chỉ dẫn địa lý sử dụng cho hàng nông sản đã được bảo hộ


xv

3.2.6. Nâng cao sự nhận thức đầy đủ và tính chủ động của các tổ chức,
doanh nghiệp và cộng đồng dân cư xã hội về lợi ích của việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ với hàng nông sản
- Giúp cho các chủ thể quyền nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và với hàng nông sản thực phẩm nói riêng.

- Cho họ thấy ý thức, trách nhiệm và quyền lợi phải coi tài sản trí tuệ là tài
sản quan trọng.
- Trang bị cho họ những lý luận đầy đủ về pháp luật sở hữu trí tuệ nói
chung và thủ tục đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản thực phẩm;
- Tăng cường đổi mới trong việc cập nhật và phổ biến thông tin về sở hữu
trí tuệ, phục vụ hiệu quả cho các chủ thể quyền khai thác tài sản trí tuệ.
Trên cơ sở của việc tuyên truyền, phổ biến trên, chúng ta có thể hướng tới
việc xây dựng một nền văn hóa sở hữu trí tuệ trong xã hội.
3.2.7. Hội nhập tích cực hơn nữa trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
KẾT LUẬN
Từ nhận thức lý luận và phân tích thực tiễn, luận văn “Quản lý nhà nước về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản Việt Nam” đã bám sát mục tiêu, đối
tượng nghiên cứu và đã đạt được kết quả bước đầu trong một số điểm cơ bản sau:
- Hệ thống hóa và phát triển một bước những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu
trí tuệ, quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản thực
phẩm.
- Phân tích, đánh giá khái quát những nét cơ bản về công tác quản lý nhà
nước về sở hữu trí tuệ nói chung cũng như quản lý nhà nước bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ với hàng nông sản thực phẩm của Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước
nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với hàng nông sản thực phẩm Việt Nam.



×