Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với tăng cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại Vietcombank Thành Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.44 KB, 110 trang )

i

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hệ thống các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay đang phát triển nhanh
chóng với nhiều cơ hội và thách thức đặc biệt trong điều kiện các ngân hàng nước ngoài
mở ngày càng nhiều chi nhánh. Ngân hàng là một trong những mắt xích rất quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân với việc nhận tiền gửi nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh
tế... đồng thời tham gia tài trợ cấp tín dụng cho các nhu cầu, các dự án cần vốn. Trong
nền kinh tế thị trường, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm
chế và đẩy lùi lạm phát để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng gắn liền với rất nhiều rủi ro như: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín
dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, …Trong các loại rủi ro của ngân hàng thường gặp
thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro thường xuyên nhất và gây tổn thất nặng nề nhất cho kinh
doanh ngân hàng. Hoạt động tín dụng đã và đang là nguồn thu chủ yếu nhưng cũng
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thực tế đã chỉ ra rằng các ngân hàng có thể tránh được thiệt hại
nếu duy trì một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả thực hiện kiểm soát trên tất cả các
mặt hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, việc tăng
cường kiểm soát hoạt động tín dụng hiện nay đang là vấn đề bất cứ ngân hàng nào cũng
phải quan tâm đặc biệt. Để làm được điều này, vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ
trong các ngân hàng thương mại hiện nay góp phần không nhỏ.
Đối với Ngân hàng Vietcombank Thành Công – là một trong các Chi nhánh cấp 1
của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đang quản lý một khối lượng lớn vốn và tài sản
của ngân hàng và khách hàng thì hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ được Ban
lãnh đạo Vietcombank Thành Công hết sức chú trọng để đảm bảo an toàn trong hoạt
động kinh doanh nói chung và đối với hoạt động tín dụng nói riêng. Nhận thức được
vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với
tăng cƣờng kiểm soát hoạt động tín dụng tại Vietcombank Thành Công” làm đề
tài luận văn của mình.


ii



Mục đích nghiên cứu của Đề tài là nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn
hệ thống kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với kiểm soát hoạt động tín dụng tại
VietComBank Thành công từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động
của hệ thống này với tăng cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại Chi nhánh.
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm soát
hoạt động tín dụng tại VietCombank Thành Công trong mối quan hệ chung với hệ
thống kiểm soát nội bộ của VietCombank. Phạm vi nghiên cứu là tập trung vào hệ
thống kiểm soát nội bộ với tăng cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại VietComBank
Thành Công.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ với kiểm soát hoạt động tín dụng
trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ với kiểm soát hoạt động tín dụng tại
VietcomBank Thành Công
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với tăng
cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại VietcomBank Thành Công
Trong chƣơng 1, Luận văn trình bày cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ trong
các NHTM bao gồm khái niệm, các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ và
mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trước hết Luận văn nêu các vấn đề cơ bản về
NHTM như khái niệm, các hoạt động cơ bản của NHTM trong đó tác giả tập trung phân
tích hoạt động tín dụng từ khái niệm tín dụng NHTM, hiệu quả của hoạt động tín dụng
và các rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng. Mặt khác Luận văn trình bày quy
trình tín dụng trong NHTM gồm các giai đoạn: lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, phân
tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát khoản vay. Từ đó luận văn đi sâu
vào phân tích đặc điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với kiểm soát hoạt động tín
dụng ở các NHTM thông qua bốn yếu tố cấu thành nên hệ thống bao gồm: môi trường
kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.



iii

Thứ nhất là môi trường kiểm soát: Môi trường kiểm soát bao gồm các nhân tố
bên trong và bên ngoài ngân hàng có tính chất môi trường tác động đến việc thiết kế,
vận hành và xử lý dữ liệu của hệ thống kiểm soát nội bộ như đặc thù quản lý, cơ cấu tổ
chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, ủy ban kiểm soát. Thứ hai là hệ thống kế
toán: Hệ thống kế toán của ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể thiếu trong
hệ thống kiểm soát nội bộ. Sự kiểm soát chỉ có thể thực hiện nếu các thông tin trung
thực đáng tin cậy, chính xác và kịp thời. Thông qua việc quan sát, đối chiếu, tính toán
và ghi chép các giao dịch phát sinh, hệ thống kế toán không những cung cấp thông tin
cho các cấp quản lý ra quyết định mà còn có tác dụng kiểm soát nhiều mặt hoạt động
của ngân hàng. Thứ ba là các thủ tục kiểm soát: Các thủ tục kiểm soát do ban lãnh đạo
ngân hàng thiết lập và thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể trong từng hoạt
động kinh doanh của mình. Các thủ tục kiểm soát này được thiết lập dựa trên ba nguyên
tắc: nguyên tắc phân công phân nhiệm rõ ràng, nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc
ủy quyền và phê chuẩn. Kiểm soát nội bộ thực hiện được là nhờ hai yếu tố. Một là có
các thủ tục ấn định trong các quyển cẩm nang và các nhân viên phải làm theo. Hai là
khi ấn định các thủ tục ấy, người ta đã đưa vào đó những sự kiểm soát lẫn nhau và
chúng trở thành nguyên tắc. Thứ tƣ là kiểm toán nội bộ: Kiểm toán nội bộ được hiểu là
một bộ phận trong hệ thống kiểm soát nội bộ của một đơn vị có chức năng kiểm tra,
đánh giá tính phù hợp, hiệu quả, sự tuân thủ pháp luật và các quy định của hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị đó. Theo Liên Đoàn Kế toán Quốc tế kiểm
toán nội bộ là một hoạt động đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một
loại dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra đánh giá và giám sát thích hợp
và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu
hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt
động trong doanh nghiệp, chất lượng của hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh
và bổ sung các qui chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả. Kiểm toán nội bộ cũng xem
xét việc tuân thủ luật pháp, các quy định chính sách quản lý của đơn vị, đánh giá tính
hiệu quả các hoạt động qua đó phát hiện những sơ hở yếu kém trong hoạt động và đưa

ra các đề xuất, tư vấn giải pháp cho lãnh đạo đơn vị.


iv

Trong chƣơng 2: Trước hết Luận văn khái quát quá trình hình thành và phát
triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và sự ra đời của Vietcombank
Thành Công nói riêng. NHNT được chính thức thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1963,
Trải qua gần 50 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm 2009,
NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 4 Công ty con trực
thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài. Ngoài ra,
NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước
trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ
đầu tư... Tổng tài sản của NHNT tại thời điểm cuối năm 2009 lên hơn 255 nghìn tỷ
VND, tổng dư nợ đạt gần 137 nghìn tỷ VND. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương
Thành Công (VietComBank Thành Công) được thành lập ngày 21/12/2001 trên cơ sở
Chi nhánh cấp hai trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội. Tính đến
nay VietCombank Thành Công đã chính thức đưa vào hoạt động 7 phòng giao dịch là
phòng giao dịch với tổng huy động vốn của cả Chi nhánh đạt 4,574 tỷ đồng, tăng
26,46% (tương đương 957 tỷ đồng) so với năm 2008, vượt 6.46% so với kế hoạch được
giao và đạt 95,07% kế hoạch mục tiêu, tổng dư nợ tín dụng đến 31/12/2009 đạt 1,604 tỷ
quy đồng, tăng 51% so với năm 2008. Tác giả tập trung vào việc phân tích thực trạng
của hệ thống kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với việc tăng cường kiểm soát hoạt
động tín dụng của VietCombank Thành Công bao gồm việc phân tích môi trường kiểm
soát, hệ thống kế toán và thông tin kinh tế, các thủ tục kiểm soát trước, trong và sau khi
cho vay và công tác kiểm toán nội bộ. Từ thực trạng đó Tác giả đánh giá những kết quả
đạt được, những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó của hệ thống
kiểm soát nội bộ với kiểm soát hoạt động tín dụng tại VietCombank Thành Công.
Những kết quả đạt đƣợc: Ban lãnh đạo Chi nhánh đã xây dựng được bộ máy
kiểm soát hoạt động tín dụng khá phù hợp với 3 bộ phận: Quan hệ khách hàng, Quản lý

rủi ro và Quản lý nợ. Việc phân chia như vậy sẽ giúp phân tách rõ chức năng, nhiệm vụ
giữa công tác marketing khách hàng và Quản lý rủi ro, từ đó giúp nâng cao chất lượng
tín dụng của VietCombank Thành Công, kiểm soát tốt hơn rủi ro cho Ngân hàng và


v

tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế. Các thủ tục
kiểm soát gắn liền trong quy trình tín dụng được thiết kế vừa ngăn ngừa gian lận thông
qua việc kiểm duyệt của các tầng kiểm soát đảm bảo sự giám sát lẫn. Công tác kiểm tra
sau sau của Tổ kiểm tra giám sát tuân thủ đối với hoạt động tín dụng ngày một quan
tâm, cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh có sự chuyển biến tích cực bằng cách giảm dần tỷ lệ
cho vay các doanh nghiệp nhà nước mà hoạt động còn kém hiệu quả, ngày một đầu tư
nhiều hơn cho các doanh nghiệp Cổ Phần, công ty TNHH, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đặc biệt các dự án đầu tư hợp vốn đã được ngân hàng nhắm tới, hướng tới mục tiêu đa
dạng hóa các thành phần kinh tế, ưu tiên các loại hình phục vụ cho sự phát triển cho đất
nước. Đồng thời Chi nhánh thực hiện nghiêm quy trình cho vay theo quy định của Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam và đạt nhiều kết quả khả quan trong việc xử lý nợ tồn
đọng.
Những hạn chế còn tồn tại: Thứ nhất, cơ cấu tổ chức của hệ thống kiểm soát nội
bộ đối với hoạt động tín dụng còn yếu kém trong việc phát hiện gian lận và sai sót trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thứ hai, nguồn nhân lực của hệ thống kiểm soát nôi
bộ và hoạt động tín dụng được bố trí không hợp lý chưa thực hiện được chức năng của
mình trong việc kiểm soát hoạt động tín dụng. Cán bộ kiểm tra, giám sát tín dụng còn
kiêm nhiệm nhiều công việc, trình độ chuyên môn chưa cao nên chất lượng kiểm tra
còn kém. Thứ ba, hoạt động của Tổ kiểm tra giám sát tuân thủ của VietComBank
Thành Công chỉ có tác dụng hoàn thiện chưa có vai trò cảnh báo rủi ro: Tổ kiểm tra
giám sát tuân thủ của VietComBank Thành Công chỉ tiến hành kiểm tra sau việc tuân
thủ nghiệp vụ của các phòng ban. Đối với hoạt động tín dụng thì các kiểm tra viên chưa
thể hiện chức năng quan trọng của mình là phát hiện ra các nguy cơ tiềm ẩn rủi ro để từ

đó đề ra các biện pháp phòng ngừa. Thứ tư, thủ tục kiểm soát không chặt chẽ, chưa phát
huy được tác dụng: việc áp dụng các thủ tục kiểm soát tại VietComBank Thành Công
thiếu đồng bộ, lỏng lẻo. Thứ năm, chính sách tín dụng áp dụng tại VietComBank Thành
Công dựa vào việc chấm điểm phân loại khách hàng và xác định hạn mức tín dụng cho
từng khách hàng mang tính cứng nhắc, chưa thực sự linh hoạt. Thứ sáu, chưa xây dựng


vi

được hệ thống cung cấp thông tin trong hoạt động tín dụng: VietComBank Thành Công
chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu thống nhất ngay trong nội tại chi nhánh, tình trạng
từng cán bộ tín dụng cho vay và quản lý khoản vay, tình hình trả nợ của khách hàng và
không lưu lại những thông tin về khách hàng đó là khá phổ biến.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là Thứ nhất, hệ thống kiểm soát nội bộ đối
với hoạt động tín dụng chưa phân định được rõ chức năng quản lý rủi ro và quản trị tín
dụng. Thứ hai, nhân sự kiểm soát quá ít, trình độ và ý thức của cán bộ tín dụng, cán bộ
quản lý tín dụng, kiểm soát viên tín dụngchưa cao. Hầu hết các cán bộ còn rất trẻ, họ
có chuyên môn nhưng lại thiếu trải nghiệm thực tiễn, thiếu đào tạo một cách bài bản
chuyên sâu. Thứ ba, hoạt động kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng không tập
trung, thẩm quyền phê duyệt tín dụng tập trung lớn trong tay giám đốc Chi nhánh. Thứ
tư, hoạt động tín dụng chưa tuân thủ đúng quy trình: với quy trình được nêu ở trên, có
thể thấy là quy trình được áp dụng đầy đủ khi đối tượng vay là doanh nghiệp lớn, hay
một món vay lớn. Đối với quy trình tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng
cá nhân của ngân hàng khá đơn giản, dẫn tới việc khi cho vay các nhóm khách hàng chỉ
xét mục đích vay đơn thuần, các phương án hoàn trả nợ, năng lực hoạt động của khách
hàng không được chú trọng thay vào đó là yếu tố tài sản đảm bảo, tuy nhiên lại chưa
quan tâm đúng mức công tác thẩm định tài sản thế chấp.
Trong chƣơng 3: Sau khi trình bày phương hướng phát triển tín dụng và phương
hướng hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với tăng cường kiểm soát hoạt động tín
dụng, Tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ để tăng cường

kiểm soát hoạt động tín dụng tại VietComBank Thành Công.
Nhóm giải pháp hoàn thiện môi trƣờng kiểm soát: Môi trường kiểm soát có tác
động trực tiếp đến việc thực hiện và kết quả của các thủ tục kiểm soát được áp dụng.
Một môi trường kiểm soát tốt có thể hạn chế được phần nào sự thiếu hụt của một số các
thủ tục kiểm soát. Thứ nhất, hoàn thiện cơ cấu tổ chức để phân định rõ chức năng
nhiệm vụ của các bộ phận tham gia quy trình tín dụng. Mô hình tổ chức hoạt động tín


vii

dụng của Chi nhánh cần tách bạch, phân định rõ chức năng khởi tạo tín dụng, chức
năng quản lý rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
Thứ hai, sắp xếp và tăng cường chính sách đào tạo đối với cán bộ tín dụng, cán bộ
quản lý tín dụng, cán bộ kiểm soát và thiết lập chế tài thưởng phạt. Một là, nâng cao
năng lực và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành. Hai là, nâng
cao chất lượng cán bộ tín dụng và kiểm soát viên tín dụng trong quá trình tuyển dụng và
đào tạo. Ba là, thiết lập chế tài thưởng phạt để tạo chính sách động lực đối với người lao
động
Thứ ba, xây dựng lại mô hình tính điểm trong phân tích tín dụng và xác định giới
hạn tín dụng: khi Chi nhánh áp dụng mô hình tính điểm trong phân tích đánh giá tín
dụng để xác định hạng của doanh nghiệp thì cần nghiên cứu và điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình thực tế cũng như đưa ra quan điểm đánh giá khác nhau đối với từng hạng
doanh nghiệp cụ thể. Sử dụng Giới hạn tín dụng trong cấp tín dụng cụ thể cho khách
hàng: khi đã có GHTD, các bộ phận thực hiện như tín dụng, bảo lãnh và đặc biệt là bộ
phận khách hàng sẽ nắm được quan điểm đánh giá của ngân hàng đối với khách hàng.
Quan điểm này được lượng hoá cụ thể bằng một mức giá trị cụ thể, đó là GHTD. Từ
đó, các bộ phận sẽ tiến hành đối chiếu GHTD với mức dư nợ thực tế của khách hàng.
Nếu GHTD lớn hơn mức giao dịch hiện tại của khách hàng thì phải tăng dư nợ và chi
nhánh sẽ tập trung các biện pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu này. Nếu GHTD bằng
mức giao dịch hiện tại thì chỉ cho vay mới khi đã trả nợ cũ và dừng tham gia vào các

phương án ít hiệu quả và chuyển sang tập trung các phương án có hiệu quả hơn. Nếu
GHTD nhỏ hơn mức giao dịch hiện tại thì chi nhánh tuyệt đối không cho vay mới mà
tập trung các biện pháp giảm dư nợ xuống mức GHTD. Chi nhánh phải chuẩn bị
phương án từ chối khách hàng trong giai đoạn này, sao cho vừa bảo đảm mục tiêu
giảm dư nợ, nhưng không gây ấn tượng xấu cho khách hàng. Đối với các khách hàng
có GHTD nhỏ hơn nhiều so với mức giao dịch hiện tại (do phải điều chỉnh giảm
GHTD so với kỳ trước) thì Chi nhánh phải có biện pháp theo dõi thường xuyên các
khách hàng loại này, bảo đảm thu hồi vốn nhanh, tránh thất thoát


viii

Nhóm giải pháp hoàn thiện thủ tục kiểm soát: Thứ nhất, xây dựng kế hoạch
kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng: việc kiểm tra kiểm soát thường xuyên sẽ góp
phần giúp cho hoạt động tín dụng thêm lành mạnh, chấn chỉnh ngay những vấn đề xảy
ra gây nguy cơ rủi ro cho hoạt động tín dụng. Tăng cường bổ xung thêm các thủ tục
kiểm soát để ngăn ngừa gian lận và phát hiện sai sót như: giữa các cán bộ tín dụng nên
có sự kiểm tra chéo định kỳ và thực hiện luân chuyển cán bộ tín dụng trong việc quản
lý khách hàng vay trong Chi nhánh. Thứ hai, hoàn thiện công tác phân công phân
nhiệm để phân chia trách nhiệm trong phân cấp quyền phán quyết tín dụng: những dự
án lớn vượt quyền phán quyết tín dụng của Giám đốc Chi nhánh và Hội đồng tín dụng
cơ sở thì thường được chuyển về Hội sở chính để thẩm định. Nhưng việc giải ngân, cho
vay thì lại do ngân hàng cấp dưới nên bộ phận kiểm soát dưới cơ sở thường chủ quan
không thấy được trách nhiệm của mình. Do đó trách nhiệm của bộ phận thẩm định, bộ
phận quản trị tại chi nhánh và tại Hội sở chính phải được thể hiện rõ trong báo cáo thẩm
định với từng chỉ tiêu, và ghi rõ nguồn số liệu được cung cấp và các kết luận. Thứ ba,
nâng cao khả năng xác định nguy cơ rủi ro của khách hàng trong việc cấp tín dụng: có
rất nhiều yếu tố có thể gây ra rủi ro đối với một doanh nghiệp. Tuy nhiên, một doanh
nghiệp thường không gặp phải tất cả các nguy cơ rủi ro mà chỉ có một số nguy cơ rủi ro
chính. Vấn đề quan trọng là phải xác định được các nguy cơ rủi ro chính đó là gì. Để

xác định các nguy cơ rủi ro, cán bộ tín dụng phải áp dụng kỹ thuật phân tích tổng hợp
tình hình doanh nghiệp: phân tích định tính, phân tích chỉ số tài chính,phân tích dòng
tiền. Thứ tư, tăng cường quản lý giám sát vốn vay để ngăn ngừa việc sử dụng vốn vay
sai mục đích: Chi nhánh cần phải tổ chức theo dõi chặt chẽ tiến độ hoàn thành từng
hạng mục dự án đầu tư, tiến độ thi công đối chiếu với hoạt động thanh quyết toán cho
từng công trình, cập nhật hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, theo dõi chặt chẽ
dòng tiền thanh toán, kiểm tra sử dụng vốn đúng quy định. Theo dõi tình hình trả nợ
của đơn vị, đảm bảo tiến độ trả nợ đúng cam kết. Đối với tài sản đảm bảo yêu cầu đơn
vị hoàn thiện thủ tục pháp lý theo đúng quy định hiện hành khi tài sản đảm bảo đáp ứng
đủ điều kiện cầm cố, thế chấp, và đăng ký giao dịch đảm bảo, khuyến nghị mua bảo
hiểm cho các cơ sở kinh doanh của đơn vị và ngân hàng là người thụ hưởng đầu tiên


ix

trong các hợp đồng bảo hiểm. Nếu phát hiện những vi phạm trong quá trình sử dụng
vốn vay sai mục đích, cán bộ giám sát có thể kiến nghị thu hồi nợ trước hạn hoặc
chuyển nợ quá hạn. Ngoài ra, việc nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo
cũng là một công việc quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh,
nó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải luôn theo dõi, giám sát khoản vay để phát hiện kịp thời
những dấu hiệu phát sinh rủi ro.
Nhóm giải pháp hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ: hoạt động của kiểm toán
nội bộ đối với hoạt động tín dụng là một công cụ hữu hiệu để phát hiện ngăn ngừa và
chấn chỉnh những sai phạm trong quá trình cho vay. Hiện nay bộ phận kiểm toán nội bộ
thuộc sự điều hành của ban kiểm soát thuộc hội đồng quản trị của ngân hàng ngoại
thương, còn bộ phận kiểm tra giám sát tuân thủ vẫn theo mô hình chịu sự điều hành của
Tổng giám đốc (Giám đốc chi nhánh) do đó tính độc lập chưa cao nên hiệu quả của hệ
thống không đạt được như mong muốn. Do đó để tăng cường vai trò của hoạt động
kiểm tra kiểm soát nội bộ thì Ngân hàng ngoại thương Việt Nam cần cơ cấu lại hệ
thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban kiểm soát Hội đồng quản trị do Hội

đồng quản trị quyết định bổ nhiệm miễn nhiệm và đánh giá hiệu quả công việc. Đồng
thời quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ kiểm tra nội bộ phải được quy định rõ ràng để
từ đó quy định trách nhiệm của cán bộ thực hiện công việc kiểm soát hoạt động tín
dụng. Ngân hàng Ngoại thương cần xây dựng các chương trình kiểm tra để giám sát
phòng ngừa các gian lận và sai sót đồng thời kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm
và hoàn chỉnh ban hành quy chế, quy trình về kiểm tra kiểm toán nội bộ.
Nhóm giải pháp hoàn thiện ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm
soát tín dụng: các loại báo cáo phục vụ cho công tác quản lý của ban giám đốc, báo
cáo phục vụ yêu cầu của Ngân hàng nhà nước yêu cầu của khách hàng, báo cáo phục vụ
tác nghiệp của cán bộ tín dụng trong việc phân tích quản trị tín dụng đều phải lấy từ
phần mềm kế toán. Do đó việc xây dựng hệ thống báo cáo hợp lý sẽ giúp cán bộ tín
dụng có nhiều thời gian và nguồn lực tập trung cho việc kiểm soát hoạt động tín dụng.
Trong công tác tín dụng, thông tin là yếu tố đóng vai trò quyết định giúp cho Ngân hàng


x

ra quyết định có đầu tư hay không. Các thông tin từ phía khách hàng cung cấp nhiều khi
lại thiếu đầy đủ, chính xác, do vậy cán bộ tín dụng không thể chỉ dựa vào các luồng
thông tin do khách hàng cung cấp trong dự án mà cần phải nắm bắt, xử lý các thông tin
về mọi vấn đề liên quan đến phương án, dự án từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy việc
đầu tư và triển khai hệ thống lưu trữ dữ liệu tập trung cung cấp thông tin cho toàn hệ
thống là rất cần thiết. Đồng thời xây dựng hệ thống thông tin để quản lý danh mục tín
dụng, hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng vay vốn đảm bảo cho các cấp quản lý
có thể kiểm soát thông qua việc phê duyệt trên hệ thống máy tính.
Để các giải pháp đã đưa ra được hiệu quả, Tác giả cũng có một số kiến nghị với
Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng
Ngoại thương cần phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khóa
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, phân tích tín dụng, đo
lường rủi ro cho cán bộ. Ngân hàng nhà nước cần nâng cao chất lượng thông tin tại

Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng thương mại (CIT). Mặt khác tăng cường
hiệu quả thanh tra kiểm soát hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại với mô
hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng theo ngành dọc từ Trung ương xuống cơ sở
và có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ nhằm hạn chế và
phòng ngừa rủi ro tín dụng. Nhà nước cần tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý
bảo đảm an toàn tín dụng và Chính phủ cần giao cho Bộ Tài chính sớm ban hành
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Công ty xếp hạng tín nhiệm. Nhà nước cần quy
định cụ thể những vấn đề liên quan đến phát mại tài sản như: quyền và nghĩa vụ của
Ngân hàng, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, ban ngành có liên quan. Đồng thời
sớm ban hành khung giá nhà đất mới để làm cơ sở khách quan cho bộ phận thẩm định
tài sản đảm bảo hoặc thành lập một cơ quan chuyên trách định giá tài sản để đảm bảo
đầy đủ tính pháp lý và khách quan.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra kiểm soát luôn giữ
vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống
kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Đối với bất kỳ một ngân hàng thương mại nào thì
hệ thống kiểm soát nội bộ là một bộ phận không thể thiếu, nó là cơ sở để đảm bảo cho
hoạt động của ngân hàng an toàn và vững mạnh. Một hệ thống kiểm soát nội bộ vững
mạnh có thể giúp đảm bảo cho ngân hàng đạt được các mục tiêu lợi nhuận trong dài
hạn, duy trì công tác báo cáo tài chính và báo cáo quản trị đáng tin cậy. Hệ thống
kiểm soát nội bộ giúp cho các hoạt động của ngân hàng tuân thủ luật pháp, các quy
định chính sách, kế hoạch, các thủ tục và quy tắc nội bộ, giảm thiểu rủi ro gặp phải
những khoản lỗ không mong muốn hoặc gây tổn hại đến danh tiếng của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động sinh lời chủ yếu lại phải đối
mặt với rất nhiều rủi ro nên việc kiểm soát hoạt động này luôn là bài toán khó với các

ngân hàng. Mặc dù ngày nay, các ngân hàng hiện đại có xu hướng chuyển dịch sang
đầu tư vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhưng tín dụng vẫn là hoạt
động cơ bản, giữ vị trí quan trọng trong danh mục tài sản của các ngân hàng thương
mại. Kiểm soát hoạt động tín dụng là biện pháp quan trọng để đảm bảo an toàn tín
dụng. Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng nói chung và nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng nói riêng.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề trên trong thời gian làm
việc và tìm hiểu thực tế tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam –
Chi nhánh Thành Công (VietComBank Thành Công) tôi chọn đề tài: “ Hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ với tăng cƣờng kiểm soát hoạt động tín dụng tại
VietComBank Thành Công ” làm đề tài luận văn của mình.


2

2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn hệ thống kiểm soát nội
bộ trong mối quan hệ với kiểm soát hoạt động tín dụng tại VietComBank Thành công
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động của hệ thống này với tăng
cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại Chi nhánh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm
soát hoạt động tín dụng tại VietCombank Thành Công đặt trong mối quan hệ chung
với hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào hệ thống kiểm soát nội bộ với việc kiểm soát
hoạt động tín dụng tại VietComBank Thành Công.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài, học viên đã sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lenin. Các phương pháp cụ thể bao gồm: phương pháp phân tích tổng

hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp mô tả và khái quát
hóa đối tượng nghiên cứu. Các phương pháp này kết hợp chặt chẽ với nhau để rút ra
những kết luận phục vụ cho đề tài.
5. Đóng góp của Luận văn
Thứ nhất, Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống kiểm
soát nội bộ trong quan hệ với kiểm soát hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Thứ hai, Luận văn đã phân tích và đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn
thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại
VietComBank Thành Công. Từ đó giúp ban lãnh đạo ngân hàng nhận thức đúng về hệ
thống kiểm soát nội bộ và vận dụng để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.


3

6. Kết cấu Luận văn
Tên Luận văn : “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với tăng cƣờng kiểm
soát hoạt động tín dụng tại VietComBank Thành Công ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ với kiểm soát hoạt động tín
dụng trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ với kiểm soát hoạt động tín dụng tại
VietcomBank Thành Công
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với tăng
cường kiểm soát hoạt động tín dụng tại VietcomBank Thành Công


4

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM
SOÁT NỘI BỘ VỚI KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG TÍN

DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề cơ bản về hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1.1 Khái niệm và các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ
Hệ thống kiểm soát nội bộ có một vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại
của một doanh nghiệp nói chung và của một tổ chức tín dụng nói riêng. Cuối những
năm 80, khi một loạt các công ty của Hoa Kỳ bị đổ vỡ, người ta đã xác minh được
nguyên nhân chính của sự đổ vỡ là do hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty này
yếu kém. Kể từ đó, khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ ra đời và tất cả các doanh
nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng hiện đại trên thế giới ngày càng quan tâm đến mức
độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Theo định nghĩa của Viện Kiểm toán quốc tế, “Hệ thống kiểm soát nội bộ” là tập
hợp bao gồm các chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông lệ, cơ cấu tổ chức
của ngân hàng, được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu
của ngân hàng và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các rủi ro xảy ra.
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống
chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản
của đơn vị; đảm bảo độ tin cậy của các thông tin, đảm bảo việc thực hiện các chế độ
pháp lý và đảm bảo hiệu quả của hoạt động. Theo đó kiểm soát nội bộ là một chức
năng thường xuyên của đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra
trong từng khâu công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả
tất cả các mục tiêu của đơn vị.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như đảm bảo hiệu quả trong hoạt động của
đơn vị và tổ chức cần xây dựng và không ngừng củng cố hệ thống kiểm soát nội bộ
với bốn yếu tố chính: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục kiểm soát


5

và hệ thống kiểm toán nội bộ. Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên
trong và bên ngoài đơn vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và

xử lý dữ liệu của các loại hình kiểm soát nội bộ. Các nhân tố trong môi trường kiểm
soát bao gồm: đặc thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế
hoạch, ủy ban kiểm soát và môi trường bên ngoài. Hệ thống kế toán là hệ thống thông
tin chủ yếu của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ
thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng tổng hợp, cân đối kế toán. Các thủ tục kiểm
soát do các nhà quản lý xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc bất kiêm
nhiệm, nguyên tắc phân công phân nhiệm rõ ràng và chế độ ủy quyền. Kiểm toán nội
bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và
đánh giá các hoạt động phục vụ nhu cầu quản trị nội bộ đơn vị. Là mội trong những
nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp , bộ phận kiểm toán
nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách
và thủ tục về kiểm soát nội bộ.

1.1.2 Mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức được thiết lập nhằm thực hiện
các mục tiêu, chính sách lớn của tổ chức, thông qua việc thực hiện các mục tiêu cụ
thể, chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bảo vệ, quản lý và sử dụng tài sản và các nguồn lực một cách kinh tế
và hiệu quả. Đối với doanh nghiệp nói chung, tài sản của đơn vị bao gồm cả tài sản
hữu hình và tài sản vô hình, chúng có thể bị đánh cắp, bị lợi dụng vào những mục
đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu không được bảo vệ bởi các hệ thống kiểm soát
thích hợp. Điều tương tự cũng có thể xảy ra đối với các tài sản phi vật chất khác như
hệ thống sổ sách kế toán, các tài liệu quan trọng… Đối với các ngân hàng thương mại
nói riêng, ngoài tài sản của ngân hàng còn có tài sản của khách hàng là các khoản tiền
gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các giấy tờ có giá, các tài sản bảo đảm, tài sản cầm


6


cố thế chấp của khách hàng tại ngân hàng. Mặt khác, tài sản của ngân hàng không chỉ
ở trong ngân hàng mà còn nằm bên ngoài ngân hàng. Đó là các khoản tiền cho khách
hàng vay, các khoản đầu tư vào các dự án liên doanh liên kết…. Ngân hàng sử dụng
phần lớn nguồn vốn huy động được để cho vay, nên cho vay là khoản mục sinh lời
chủ yếu. Rủi ro từ những khoản mục cho vay này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng. Do đó ngoài bảo vệ tài sản hữu hình hiện có tại ngân hàng,
các ngân hàng thương mại còn phải bảo vệ tài sản của khách hàng bằng một hệ thống
công nghệ tin học hiện đại, đảm bảo sự bảo mật của hệ thống thông tin ngân hàng,
bảo vệ tài sản ngoài ngân hàng bằng cách kiểm soát chặt chẽ các rủi ro có thể xảy ra,
đặc biệt là rủi ro tín dụng.
Thứ hai, bảo đảm hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực,
hợp lý, đầy đủ và kịp thời. Thông tin kinh tế do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp là
căn cứ quan trọng cho việc hình thành các quyết định của nhà quản lý. Như vậy, các
thông tin cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời về thời gian, tính chính xác và tin cậy
về thực trạng hoạt động và phản ánh đầy đủ khách quan các nội dung chủ yếu của mọi
hoạt động kinh tế tài chính. Đối với ngân hàng thì ngoài thông tin được cung cấp của
bộ máy kế toán còn có thông tin về khách hàng như tình hình kinh doanh, tình hình tài
chính, tình hình về dự án đầu tư của khách hàng… do bộ phận quan hệ khách hàng
cung cấp, các thông tin này cần chính xác và tin cậy và được thẩm định xác minh
trước khi ban lãnh đạo đưa ra quyết định đầu tư hay cho vay.
Thứ ba, bảo đảm cho hoạt động của tổ chức tuân thủ pháp luật và các quy định,
quy trình nội bộ về quản lý và hoạt động, và các chuẩn mực đạo đức do tổ chức đặt ra.
Trong ngân hang thì hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế phải đảm bảo các quyết
định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh ngân hàng phải được tuân
thủ đúng mức. Cụ thể hệ thống kiểm soát nội bộ của một ngân hàng thương mại cần:
Một là duy trì và tuân thủ các chính sách có liên quan đến hoạt động của ngân
hàng bao gồm các quy chế, quy định về tín dụng, về nguồn vốn, ngoại hối của nhà
nước, ngân hàng nhà nước, và của từng ngân hàng nói riêng. Do đó ngoài việc đòi hỏi



7

phải chấp hành pháp luật của nhà nước thì ban quản trị tối cao của ngân hàng thương
mại cũng yêu cầu phải tuân thủ các quy chế nội bộ.
Hai là ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm và gian lận
trong mọi hoạt động của ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là kinh
doanh tiền tệ, do đó mọi hoạt động của từng nhân viên ngân hàng, từng bộ phận kinh
doanh cần tuân thủ triệt để quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo an toàn cho tài sản của
ngân hàng và của khách hàng. Hệ thống kiểm soát nội bộ đóng vài trò chủ chốt trong
quản trị rủi ro. Như ta đã biết hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ chú trọng tới công
tác hậu kiểm, tức là công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, tiến hành khi sự việc đã xảy
ra. Kiểm soát nội bộ mạnh phải ngăn chặn được sai phạm, dự báo và phòng ngừa rủi
ro chứ không đơn thuần là tìm ra nguyên nhân. Do đó hệ thống kiểm soát nội bộ cần
phát hiện các sai phạm trong quá trình tác nghiệp, xử lý nghiệp vụ, thực hiện các quy
trình nghiệp vụ của các nhân viên ngân hàng như nghiệp vụ kho quỹ, tiền gửi có kỳ
hạn, chuyển tiền, thanh toán quốc tế… và đề xuất các biện pháp xử lý các sai phạm
đó.
Ba là đảm bảo việc nghi chép kế toán đầy đủ, chính xác cũng như việc lập báo
cáo tài chính trung thực và khách quan. Việc ghi chép kế toán trong ngân hàng thương
mại do nhiều phòng thực hiện trên hệ thống phần mềm kế toán. Do đó số liệu trên sổ
kế toán ngân hàng cần phải được kiểm soát cẩn thận đảm bảo trung thực và chính xác
vì nếu có sai sót sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tài sản của khách hàng và từ đó làm giảm uy
tín của ngân hàng.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh sẽ đảm bảo mọi thành viên tuân thủ
nội quy, quy chế, quy trình mà ban giám đốc đã thiết lập, áp dụng cho từng lĩnh vực
hoạt động của ngân hàng cũng như các quy định của pháp luật trong những lĩnh vực
đó.
Thứ tƣ, đảm bảo hiệu quả hoạt động và năng lực quản lý. Các quá trình kiểm
soát trong một đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các tác



8

nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực
trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó định kỳ các nhà quản lý thường đánh giá kết quả
hoạt động trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế giám sát của hệ thống kiểm
soát nội bộ doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành của bộ máy
quản lý doanh nghiệp.
Ngày nay, kiểm soát nội bộ đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt
động kinh tế của các ngân hàng thương mại và tổ chức. Kiểm soát nội bộ giúp các nhà
quản trị quản lý hữu hiệu và hiệu quả hơn các nguồn lực kinh tế của công ty mình
như: con người, tài sản, vốn …,góp phần hạn chế tối đa những rủi ro phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp ngân hàng xây dựng được một nền tảng
quản lý vững chắc phục vụ cho quá trình mở rộng, và phát triển đi lên của mình. Đối
với hoạt động tín dụng của ngân hàng, do tính chất phức tạp của nó cùng với những
ảnh hưởng lớn mạnh của nó tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, ban lãnh đạo
ngân hàng càng đặc biệt chú trọng tới công tác quản lý chặt chẽ hoạt động này. Chính
sự kiểm soát này giúp hoạt động tín dụng của ngân hàng tăng trưởng, phát triển theo
đúng định hướng đã vạch ra, cung cấp cho nhà quản lý ngân hàng và cán bộ tín dụng
đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra quyết định cho vay. Thông qua hệ thống kiểm
soát tín dụng nội bộ các nhà quản lý đánh giá được sự hợp lý của các chính sách ngân
hàng đưa ra trong từng thời kỳ, điều chỉnh chính sách tín dụng phù hợp với thực tiễn,
từ đó hoàn thiện và xây dựng được một chính sách tín dụng tốt hơn, đồng thời giúp
các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn.
Một chính sách tín dụng rõ ràng sẽ mang lại nhiều lợi thế và thuận lợi cho ngân hàng.
Nó giúp cho ngân hàng hướng tới một danh mục cho vay hiệu quả, có thể đạt được
nhiều mục tiêu, chẳng hạn như tăng cường khả năng sinh lời, hạn chế rủi ro và đáp
ứng được những đòi hỏi của các cơ quan quản lý.



9

1.2 Ngân hàng thƣơng mại và hoạt động tín dụng trong ngân hàng thƣơng
mại
1.2.1 Khái niệm ngân hàng thƣơng mại
Ngân hàng thương mại được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước trên thế
giới. Ở một số nước thì khái niệm này dùng để chỉ một tổ chức tài chính tiền tệ mà
hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ các cá nhân hay tổ chức kinh
tế sau đó để cho các cá nhân hay tổ chức khác vay lại. Phạm vi hoạt động của các
ngân hàng thương mại có thể không được phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác
như đầu tư tài chính, cung cấp dịch vụ cho các nhóm ngành nghề riêng biệt. Trong khi
đó ở một số nước khác thì lại cho rằng ngân hàng thương mại là ngân hàng được phép
kinh doanh tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng.
Một cách tiếp cận khác lại cho thấy bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản
tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức
kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân hàng thương mại. Hay
ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam: Ngân hàng thương mại là một
tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với hoạt động thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Trên
thực tế, các ngân hàng thương mại ở nước ta ngoài việc thực hiện các hoạt động ghi
trong luật nêu trên thì còn phải thực hiện các hoạt động khác phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội thực hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, các
ngân hàng thương mại thường được hiểu như một tổ chức tín dụng thực hiện các dịch
vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận gửi của khách hàng để cho vay, cung cấp
lại vốn đầu tư, các dịch vụ thanh toán...và chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.



10

Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thƣơng mại: để thực hiện chức năng
kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại thực hiện tổng hợp nhiều hoạt động nghiệp
vụ, trong đó có thể chia thành 3 hoạt động nghiệp vụ chính, đó là: hoạt động nghiệp
vụ tài sản nợ (Nghiệp vụ tạo vốn), hoạt động nghiệp vụ tài sản có (Cho vay và đầu
tư), hoạt động trung gian (Dịch vụ ngân hàng).
Hoạt động nghiệp vụ tài sản nợ (Nghiệp vụ tạo vốn): đây là một trong hai
nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, Nghiệp vụ tài sản nợ của ngân
hàng thương mại là nghiệp vụ tạo vốn bằng nhiều hình thức khác nhau để tạo nguồn
vốn hoạt động cho ngân hàng. Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
Vốn tự có và coi nhƣ tự có: Nguồn vốn này của ngân hàng thương mại chiếm
tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nguồn vốn hoạt động nhưng nó lại có vai trò hết sức quan
trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại. Nguồn vốn này chính là cơ
sở để xác định lượng vốn được phép huy động, tỷ lệ được phép cho vay và khả năng
đảm bảo thanh toán của ngân hàng cho khách hàng. Nguồn vốn này có thể được cấp
từ Nhà nước (Ngân hàng thương mại quốc doanh) hoặc thu hút từ các cổ đông đóng
góp (Ngân hàng thương mại cổ phần). Nguồn vốn này bao gồm vốn pháp định, các
quỹ dự trữ, quỹ phúc lợi, khen thưởng và lợi nhuận chưa chia.
Vốn huy động: Nguồn vốn này được các ngân hàng thương mại huy động từ
các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội và từ dân cư theo các hình thức sau: Tiền gửi
không kỳ hạn là loại tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài khoản thanh toán của
khách hàng và có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Bộ phận tiền gửi này bao gồm: tiền gửi
thanh toán được bảo quản trên 3 tài khoản của ngân hàng là: tài khoản tiền gửi thanh
toán hay còn gọi là tài khoản séc và tài khoản vãng lai có thể dư có (thể hiện tiền gửi
của khách hàng) hoặc dư nợ (thể hiện tài khoản ngân hàng cho khách hàng vay). Ưu
điểm của tiền gửi không kỳ hạn là chi phí huy động thấp nhưng nhược điểm là tính ổn
định không cao nên các ngân hàng thương mại thường phải thực hiện một mức dự trữ
bắt buộc để đảm bảo khả năng thanh toán. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có quy

định cụ thể về thời hạn rút tiền của khách hàng. Nó có thể là tiền gửi có kỳ hạn của


11

doanh nghiệp khi có các khoản thu và xác định được thời gian chi trả hoặc các khoản
tiền tích luỹ của doanh nghiệp. Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn quan trọng của ngân
hàng. Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được ngân hàng giao cho một
quyển sổ tiết kiệm, sổ này coi như giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ của ngân
hàng. Hai loại tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có tính chất ổn định trong thời
gian dài nên rất được các ngân hàng thương mại chú trọng và có biện pháp kích thích
bằng việc tạo ra các sản phẩm huy động với thời hạn và mức lãi suất huy động khác
nhau với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất huy động càng cao.
Vốn vay: Ngân hàng có thể huy động vốn vay bằng cách vay ngắn, trung hoặc
dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác hoặc nhận quỹ uỷ thác đầu tư của
các tổ chức tài trợ (chính phủ hay quốc tế) để cho vay ưu đãi đối với một số đối tượng
được lựa chọn.
Vốn huy động khác: Ngân hàng có thể huy động vốn bằng cách phát hành các
loại chứng khoán (kỳ phiếu, trái phiếu...) để huy động vốn từ dân cư hay tổ chức,
công ty nào đó.
Hoạt động nghiệp vụ tài sản có: hoạt động nghiệp vụ tài sản có là hoạt động
nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn của ngân hàng thương mại vào các hoạt động kinh
doanh chủ yếu sau:
Hoạt động cho vay: Là việc ngân hàng thương mại cho khách hàng vay một
số tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định và khi hết hạn vay, người vay phải
hoàn trả ngân hàng một khoản tiền bao gồm cả gốc và lãi. Nghiệp vụ cho vay là hoạt
động nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại và cũng là hoạt động
nghiệp vụ có thể thúc đẩy hay kìm hãm các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân. Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại theo các tiêu thức khác nhau như: Theo
thời gian: gồm có cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn; theo đối tượng vay

gồm cho vay nông nghiệp, công nghiệp, công ích, cá nhân.


12

Hoạt động đầu tƣ: bao gồm đầu tư chứng khoán và đầu tư liên doanh, liên
kết.
Hoạt động trung gian (Dịch vụ ngân hàng): trong hoạt động ngân hàng, các
dịch vụ ngân hàng được coi là các hoạt động nghiệp vụ bên thứ ba bên cạnh các hoạt
động nghiệp vụ có và các hoạt động nghiệp vụ nợ. Thông thường ngân hàng cung cấp
các dịch vụ trung gian như: hoạt động bảo lãnh (là việc ngân hàng cam kết trả thay
cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán hoặc
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh), hoạt động thanh toán,
kinh doanh ngoại hối, vàng bạc đá quý... , nhận uỷ thác ký gửi, hoạt động tư vấn đầu
tư, hoạt động đại lý kinh doanh chứng khoán.
Các hoạt động của ngân hàng thương mại có quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho nhau.
Trong đó hoạt động nghiệp vụ nợ là cơ sở để thực hiện hoạt động nghiệp vụ có. Hoạt
động nghiệp vụ có làm tăng khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại, góp phần
mở rộng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng do được tăng vốn dự trữ, tăng khả năng
huy động vốn. Trên cơ sở hoạt động nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng thương mại có
thể thực hiện được các hoạt động nghiệp vụ trung gian. Nếu thực hiện tốt hoạt động
nghiệp vụ trung gian thì ngân hàng thương mại có điều kiện tăng nguồn vốn vì hoạt
động nghiệp vụ trung gian vừa gần hoạt động nghiệp vụ có lại vừa gần hoạt động
nghiệp vụ nợ.

1.2.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thƣơng mại
1.2.2.1 Khái niệm tín dụng của ngân hàng thƣơng mại
Trong lịch sử, quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên xã hội
chưa có sản phẩm dư thừa để dự trữ, chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống của chế độ

tư hữu. Trong xã hội này chưa có quan hệ trao đổi, mua bán và vay mượn. Cùng với
sự phát triển của xã hội loài người lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công
lao động được hình thành. Lúc này, con người sản xuất sản phẩm không chỉ đủ tiêu


13

dùng mà còn có một phần tích luỹ để dự trữ. Trong xã hội bắt đầu xuất hiện mầm
mống của chế độ tư hữu về tư liệu lao động và của cải làm ra. Xã hội có sự phân chia
giàu nghèo và các giai cấp hình thành. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với sự
phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất hàng hoá ra đời. Và những quan hệ
vay mượn đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của các quan hệ tín dụng. Như vậy có
thể khẳng định tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với
sự ra đời tồn tại và phát triển của của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tín dụng ra
đời là một yếu tố khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế tất yếu xuất hiện quan hệ tín dụng
giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sự luân chuyển dòng vốn giữa một bên
cần vốn và một bên có vốn nhàn rỗi đã xuất hiện quan hệ tín dụng. Tín dụng là một
trong những hoạt động quan trọng mang tính truyền thống và đem lại nguồn lợi nhuận
chủ yếu cho các ngân hàng thương mại. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh
tế, tín dụng được coi là một quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người
đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói
một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà
trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc
nhất định về số tiền hoàn trả (gốc và lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay
mượn và thu hồi... Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực
hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín
dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Trong quan hệ tín dụng
có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay tuân theo hai nguyên

tắc cơ bản:
Thứ nhất tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Điều này
giúp cho ngân hàng có thể quản lý, giám sát được nguồn tiền giải ngân và đảm bảo
rằng vốn của ngân hàng được an toàn, ngân hàng có khả năng thu lợi nhuận trong đầu


14

tư các dự án. Mặt khác chính sự giám sát này còn giúp khách hàng sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn vay của mình.
Thứ hai tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. Trong kinh tế thị
trường, tín dụng là giao dịch chuyển quyền sử dụng vốn đầu tư trong một thời kỳ nhất
định. Tiền vay phải được bảo đảm không bị giảm giá, nó phải được thu hồi đầy đủ và
có sinh lời. Nguyên tắc này đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội được ổn định,
các mối quan hệ của ngân hàng phát triển theo xu hướng an toàn và ổn định.
Như vậy, Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó
là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn
trả và có lãi.

1.2.2.2 Phân loại hoạt động tín dụng
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt động rộng lớn
và đa dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Trên cơ sở các căn cứ phân loại
khác nhau mà hình thành các hình thức tín dụng khác nhau.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: là các khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng (1
năm). Mục đích là đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp về mua nguyên vật liệu, chi phí sản xuất hoặc nhu cầu
tiêu dùng, thanh toán của cá nhân có giá trị nhỏ.
Tín dụng trung hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 12 tháng và không quá

60 tháng. Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định hoặc
cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng mới
những công trình loại nhỏ thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: là các khoản vay có thời hạn lớn hơn 60 tháng. Mục đích là
sử dụng vốn vay gần như tín dụng trung hạn nhưng với những công trình quy mô lớn,
thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.


15

Căn cứ vào mục đích tín dụng
Tín dụng cho sản xuất lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp cho
các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Nó đáp ứng nhu cầu về vốn trong quá trình
sản xuất kinh doanh để dự trữ nguyên vật liệu, cho vay chi phí sản xuất hoặc đáp ứng
nhu cầu thiếu vốn trong quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp.
Tín dụng tiêu dùng: Cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua chịu hàng
hoá, xây dựng nhà ở hoặc các phương tiện cần thiết khác.
Phân loại theo tính chất bảo đảm
Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức tín dụng đươc cấp phát trên cơ sở tài sản thể
chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng không cần có tài sản thế
chấp, cầm cố hay bảo lãnh mà dựa trên uy tín của khách hàng.
Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn
Tín dụng vốn lưu động: là loại cho vay được cấp để bổ sung nguồn vốn lưu động
của các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất như mua nguyên vật
liệu, hàng hóa dự trữ, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn. Cho vay vốn lưu động thường được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động
của doanh nghiệp.
Tín dụng vốn cố định: là loại cho vay được cấp để hình thành vốn cố định. Loại
cho vay này thường dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ

thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay
đối với loại cho vay này là trung và dài hạn.
Căn cứ vào mức độ rủi ro
Cách phân loại này cũng giống như hình thức xếp hạng tín dụng theo tiêu thức
rủi ro. Nó đóng vai trò rất lớn đối với các ngân hàng trong việc đánh giá tính rủi ro
của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Theo cách phân loại này,


×