Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tư tưởng giáo dục của khổng tử và ảnh hưởng của nó đối với đổi mới giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.03 KB, 86 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------

TRẦN ĐỨC DUY

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
ThS. NGUYỄN THỊ GIANG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các
thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị - trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc
biệt là sự hướng dẫn tận tình và quan tâm của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Giang.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô và cô giáo hướng dẫn trực tiếp
đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên


Trần Đức Duy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận tốt
nghiệp này là kết quả của quá trình nghiên cứu mà bản thân tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn chỉ bảo của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Giang -

iảng vi n

trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Những nghiên cứu này không hề trùng lặp với kết quả nghiên cứu của
các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Trần Đức Duy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghi n cứu vấn đề .......................................................................... 3
3. Mục đích nghi n cứu của khóa luận, đối tượng, phạm vi nghi n cứu ........ 5
4. Phương pháp nghi n cứu............................................................................. 6
5.Kết cấu khóa luận ......................................................................................... 6
Chương 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUN ........................................................ 7
1.1. Cơ sở nảy sinh tư tưởng giáo dục của Khổng Tử .................................... 7
1.2. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử .......................................................... 17
1.3. Quan điểm đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay ............................... 42

Chương 2. ẢNH HƯỞN TƯ TƯỞN

IÁO DỤC CỦA KHỔN TỬ ĐỐI

VỚI ĐỔI MỚI IÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................... 49
2.1. Tích cực .................................................................................................. 49
2.2. Hạn chế................................................................................................... 56
2.3. Ý nghĩa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với sự nghiệp đổi mới giáo
dục ở Việt Nam hiện nay............................................................................... 58
KẾT LUẬN CHUN ...................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khổng Tử là một nhà tư tưởng kiệt xuất của lịch sử Trung Quốc, tư
tưởng và nhân cách của ông trong lịch sử nhân loại không chỉ là một nhà hiền
triết phương Đông mà còn là một nhà giáo dục, một người thầy của mọi thời
đại, được người đời tôn vinh là “Vạn thế sư biểu”. Học thuyết của ông - Nho
giáo đã từng thống trị đất nước Trung Hoa suốt 2500 năm và có ảnh hưởng
sâu sắc đến một số nước khác tr n thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nho giáo đã tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ tư
tưởng chính trị đến đạo đức, từ kinh tế cho đến văn hóa, giáo dục. Dưới tác
động của tư tưởng giáo dục của Khổng học, chế độ phong kiến ở nước ta đã
đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước. Cuộc đời của Khổng Tử là bài học
lớn, là tấm gương sáng ngời về giáo dục. Tư tưởng của Khổng Tử, trong đó
có tư tưởng về giáo dục vẫn còn nhiều ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn
đối với việc dạy và học ở nước ta hiện nay.
Ở nước ta sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển cả về quy
mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Chất lượng, hiệu quả của

giáo dục và đào tạo đã có những chuyển biến nhưng nhìn chung còn thấp so
với y u cầu, chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa
thật phù hợp , khả năng chủ động sáng tạo của học sinh, sinh vi n ít được bồi
dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh vi n còn yếu. Cơ cấu và trình
độ của lực lượng lao động còn bất hợp lý, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp
làm cho khả năng tiếp thu kĩ thuật công nghệ mới gặp nhiều khó khăn. B n
cạnh đó, việc giáo dục đạo đức, chính trị trong các trường học chưa được
quan tâm đúng mức. Trong một bộ phận học sinh, sinh vi n có tình trạng suy
thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão
lập than, lập nghiệp vì tương lai bản thân và đất nước. Đó là một khó khăn

1


không nhỏ trong việc hình thành đội ngũ những người lao động có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có trình độ văn hóa và chuy n môn kĩ thuật tốt đáp ứng
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế qua các kì Đại
hội, Đại hội XI của Đảng vẫn khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đây là vấn đề có tính chất chiến
lược, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước, trở thành mối
quan tâm hàng đầu của Đảng, toàn dân ta. Trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, phát huy nguồn lực của con người Việt Nam càng trở n n có ý
nghĩa quan trọng, là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. iáo
dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi
mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính
năng động, sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác
làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chủ
trương, chính sách nhằm phát triển con người, đổi mới giáo dục và đào tạo.

Những chủ trương, chính sách đó xây dựng tr n cơ sở không chỉ là sự tiếp thu
có chọn lọc những cái mới mà còn kế thừa, phát huy các giá trị tinh hoa trong
lịch sử văn minh nhân loại, trong đó có Nho giáo.
Kế thừa và nhìn nhận thực tiễn cho thấy, việc dạy và học ở nước ta hiện
nay cũng cần phải có một cách nhìn, một hướng đi cho phù hợp với thực tế.
B n cạnh việc chúng ta tiếp thu những thành tựu giáo dục ti n tiến, việc kế
thừa những kinh nghiệm giáo dục truyền thống là hết sức bổ ích. Tuy rằng tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử có những hạn chế nhất định trong điều kiện
lịch sử và lập trường giai cấp, nhưng nếu kế thừa một cách chọn lọc thì tư
tưởng đó vẫn có những tích cực đối với công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.

2


Từ cơ sở lý luận và thực tiễn n u tr n, với mong muốn khẳng định những
tư tưởng tiến bộ và quý báu trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và làm rõ
giá trị của những tư tưởng ấy đối với việc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện
nay, tác giả chọn vấn đề: “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và ảnh hưởng
của nó đối với đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu trong lịch sử thế giới, Phương Đông cũng như Phương Tây,
Khổng Tử đã trở thành đề tài vô tận cho các nhà nghi n cứu hàng nghìn năm
qua. Với tư cách là nhà chính trị, chủ trương đức trị, Khổng Tử đã được giới
chính khách và các nhà nghi n cứu chính trị quan tâm tìm hiểu từ lâu dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Với tư cách là nhà đạo đức, Khổng Tử đã thu hút sự quan tâm, nghi n
cứu của các nhà đạo đức học. Với tư cách người sáng lập học thuyết Nho
giáo, Khổng Tử đã được các nhà nghi n cứu tôn giáo đi sâu, phân tích, đối

chiếu. Với tư cách một bậc hiền triết, Khổng Tử đã được các học giả dày công
tìm hiểu, khai thác dưới góc độ triết học. Các công trình nghi n cứu về tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử có thể phân loại thành các nhóm sau đây:
Sách và các công trình chuy n khảo: Các bài viết về con người, sự
nghiệp, tư tưởng giáo dục và nhân cách của ông.
Nguyễn Hiển L (1992), “Nhà giáo họ Khổng”, Nxb TP Hồ Chí Minh.
Trong đó trình bày chủ yếu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử về mục đích giáo
dục, về nội dung dạy học, cách ông dạy, thái độ của ông đối với môn đồ và
đặc biệt đã nhấn mạnh những công lao của Khổng Tử với nền giáo dục Trung
Hoa và ảnh hưởng của Khổng Tử đến hậu thế.
Tác giả Đỗ Anh Thơ trong cuốn “Khổng Tử cùng học trò đối thoại về
giáo dục”, (2006), Nxb Hà Nội cũng đã giới thiệu về nền giáo dục cổ đại

3


Trung Quốc thông qua những câu danh ngôn bất hủ, cổ văn của Khổng Tử
qua các chủ đề giáo dục, tu dưỡng đạo đức, hiếu thảo gia đình…
Cũng li n quan đến đề tài, Sào Nam trong “Khổng học đăng”, (1998),
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. Với một quan điểm hết sức tiến bộ, Sào
Nam đã đúc kết được tinh hoa của Khổng học thể hiện qua Tứ Thư: Luận
Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử - bốn cuốn sách pháp bảo của Khổng
môn, đồng thời n u rõ những bước thăng trầm của Khổng học qua các triều
đại Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi. Tác giả đã chứng minh rằng bản
than tư tưởng Khổng học chính thống là một hệ thống triết học mang tính
nhân bản rất sâu sắc, phát huy được những phẩm chất cao cả của con người và
nhằm phục vụ cho cuộc sống tốt đẹp của một xã hội bình đẳng.
Có thể nói, các công trình tr n về cơ bản đã đề cập khá đầy đủ những nội
dung trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Tuy nhi n, những công trình đó
chưa tập trung đi sâu nghi n cứu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử mà chỉ xem

xét nó một bộ phận cấu thành của hệ thống triết học của Khổng Tử.
Các bài viết in tr n tạp chí chuy n nghành: Về phương pháp dạy học
của ông.
Quan niệm giáo dục của Khổng Tử của Nguyễn Đăng Tiến đăng tr n tạp
chí Dạy và học ngày nay, số 7, năm 2012. Tuy nhi n tác giả chỉ đề cập đến
một số tư tưởng giáo dục của Khổng Tử mà chưa đi sâu vào phân tích sự ảnh
hưởng của tư tưởng đó đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Bàn về phương pháp dạy và học hiện nay theo tư tưởng của Khổng Tử
của Ngô Quang Thái đăng tr n tạp chí Dạy và học ngày nay, số 3, năm 2012.
Vài nét về tư tưởng giáo dục của “Vạn thế sư biểu” của TS. Bùi Hồng
Vạn đăng tr n tạp chí Dạy và học ngày nay, số 11, năm 2013
Nhưng trong phạm vi hẹp của một bài báo cáo không cho phép những
công trình đó đi sâu vào toàn bộ nội dung trong tư tưởng giáo dục của Khổng
Tử mà chỉ dừng lại ở những nét cô đọng và khái quát nhất.

4


Một số luận văn nghi n cứu về Khổng Tử, tư tưởng giáo dục và đào tạo
con người của ông:
Luận văn: “Tư tưởng tự học của Khổng Tử và biện pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động tự học cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế” của Nguyễn
Thanh Hùng - chuy n ngành

iáo dục học - Đại học Sư phạm Hà Nội - 2009.

Trong đó, tác giả đã phân tích, hệ thống hóa và khẳng định tư tưởng của Khổng
Tử về việc tự học. Khảo sát nhận thức và thực trạng hoạt động tự học của sinh
vi n trường Đại học Sư phạm Huế. Tr n cơ sở đó đề xuất biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả tự học cho sinh vi n trường Đại học Sư phạm Huế.

Như vậy, nhìn chung các tác giả đã quan tâm khai thác những đóng góp
của Khổng Tử về mặt giáo dục, từ số năm dạy học và số môn sinh đã được
ông đào tạo đến quan điểm và nguy n tắc giáo dục của Khổng Tử và cách
thức Khổng Tử tác động đến học trò. Những công trình đã dày công nghi n
cứu sâu sắc với những kiến giải mới mẻ, hầu hết các nhà nghi n cứu n u tr n
đều thống nhất một nhận định chung là: Về mặt giáo dục, Khổng Tử là một
nhà giáo lớn không chỉ của Trung Quốc mà còn của Phương Đông và của cả
thế giới nữa, không chỉ của một thời, thời phong kiến mà còn nhiều tư tưởng
mới mẻ, rất mới mẻ, xuy n suốt thời gian và hiện vẫn còn nguy n giá trị đối
với thời đại chúng ta hiện nay.
Tất cả những công trình, bài viết n u tr n là những cơ sở quan trọng về
mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị khoa học để tác
giả đi sâu nghi n cứu đề tài. Tác giả sẽ cố gắng khái quát một cách hệ thống
tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và đánh giá ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp
đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của khóa luận, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu

Khóa luận tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu trong tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử, tr n cơ sở đó phân tích, chỉ ra những mặt tích cực và ti u
cực của tư tưởng đó đối với việc đổi mới giáo dục của Việt Nam hiện nay.

5


 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghi n cứu của khóa luận là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
và ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

 Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện và khả năng cho phép, khóa luận chỉ tập trung nghi n
cứu một số nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và khẳng
định giá trị của những tư tưởng đó đối với việc đổi mới giáo dục ở nước ta
hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tr n cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, khóa
luận này sử dụng các phương pháp chủ yếu như: Phương pháp logic và lịch
sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch,
phương pháp chứng minh. . .
5.Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung
Chương 2: Ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với đổi mới
giáo dục hiện nay ở Việt Nam

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Cơ sở nảy sinh tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử
Mỗi học thuyết, tư tưởng xuất hiện không phải một cách ngẫu nhi n hay
từ hư vô mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Một trong những cơ sở khách
quan quan trọng mà tr n đó một hệ tư tưởng nào đó ra đời, tồn tại và phát
triển là những điều kiện về kinh tế - chính trị - xã hội, bối cảnh lịch sử mà tr n
đó tư tưởng nảy sinh. Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử thì tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội.Ý thức xã hội chỉ có thể nảy sinh tr n một nền
tảng kinh tế - xã hội nhất định. C.Mác từng viết: “Các triết gia không mọc lên

như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà
dòng sữa tinh tế nhất, quý giá vô và vô hình được tập trung lại trong những tư
tưởng triết học” [21, 156].
Là một bộ phận cấu thành trong hệ thống tư tưởng của Khổng Tử, quá
trình hình thành và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về giáo dục không phải
là một ngoại lệ, nằm ngoài quy luật tr n. Dó đó, muốn nghi n cứu, tìm hiểu tư
tưởng của Khổng Tử chúng ta không thể không đi vào nghi n cứu, tìm hiểu
điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị của thời Xuân Thu - Chiến Quốc
- thời đại mà tư tưởng Khổng Tử nói chung cũng như tư tưởng về giáo dục
của Khổng Tử nói ri ng nảy sinh, hình thành và phát triển.
Khổng Tử sống trong thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 T.CN).
Đây là thời kì xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản
và lớn lao. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là
chế độ “tông pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong ki n sơ kì đang hình
thành. Trong xã hội Trung Quốc thời kì này diễn ra những biến đổi hết sức
sâu sắc tr n tất cả các mặt của đời sống xã hội. Kinh tế phát triển, xã hội

7


chuyển mình dữ dội, tạo điều kiện cho sự giải phóng tư tưởng của con người
thoát khỏi thế giới quan mang tính chất thần bí, ảnh hưởng sâu sắc đến sự
phát triển của tư tưởng triết học.
Thời kì Xuân Thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đô
về phía Đông đến Lạc Ấp (năm 771 T.CN).
1.1.1 Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của Trung Quốc thời Xuân Thu
- Chiến Quốc
1.1.1.1 Điều kiện kinh tế
Thời kì này, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kì đồ đồng
sang đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách mạng trong công cụ

sản xuất. Nó thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng tr n
nhiều lĩnh vực. Trong đó nông nghiệp là một ngành kinh tế có truyền thống
lâu đời và giữ vai trò hết sức quan trọng. Với sự xuất hiện của đồ sắt, đã đem
lại cho người Trung Quốc những tiến bộ mới trong cải tiến công cụ sản xuất
và kĩ thuật sản xuất nông nghiệp. . . Chính nhờ vậy, vào thời kì này, hệ thống
thủy lợi đã trải khắp khu vực Trường iang, diện tích canh tác được mở rộng,
kĩ thuật trồng trọt được cải tiến đã giảm được đáng kể sức sản xuất trong nông
nghiệp và năng suất lao động tăng.
Với sự ra đời của đồ sắt và những cải tiến mạnh mẽ trong công cụ sản
xuất nông nghiệp tất yếu dẫn đến những thay đổi trong quan hệ sản xuất cổ
truyền. Người ta thấy không cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định
kì căn cứ vào đất tốt hay xấu như trước nữa.

iờ đây công xã giao hẳn đất

công cho từng gia đình nông nô cày cấy trong thời gian lâu dài. Vì vậy, nông
nô có thể dung phương pháp lưu canh hay luân canh để tăng năng suất cây
trồng. Mặt khác, một số người bình dân do có chút công trạng trong chiến trận
mà có quyền lực đã ỷ vào đó để chiếm ruộng đất công thành tư, một số khác
là nhà buôn giàu có đã giành tiền để mua ruộng đất, một số khác nữa là những

8


người nghèo khổ đã tập hợp nhau lại để tiến hành khai khẩn ruộng hoang và
trở thành chủ sở hữu lớn về ruộng đất. . . Tình hình tr n, một mặt, đã làm cho
chế độ “tỉnh điền” dần tan rã, chế độ tư hữu từng bước được hình thành và
được nhà nước thừa nhận, mặt khác, đã hình thành trong xã hội một giai cấp
mới - giai cấp địa chủ.


iai cấp này vừa giàu có về kinh tế, vừa đòi hỏi về

quyền lực chính trị. Họ tham gia vào giai cấp thống trị xã hội, sánh vai cùng
giai cấp chủ nô.
Cùng với việc thay đổi quan hệ sản xuất, phương thức thu thuế cũng
được thay đổi. Trước đây, theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã
được chia đều cho nông nô, nông nô phải nộp phần sản lượng nông phẩm thu
hoạch được cho công xã để nộp l n triều đình. Khi chế độ tư hữu ruộng đất
phát triển, số lượng ruộng đất của nông dân sở hữu không bằng nhau, nhà
nước đã bãi bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ thuế mới, đánh thuế
vào từng mẫu ruộng. Nước đầu ti n thi hành chế độ thuế mới là nước Lỗ vào
năm 594 T.CN
Đồ sắt ra đời không chỉ thúc đẩy nền nông nghiệp Trung Quốc phát triển
mà còn thúc đẩy nền thủ công nghiệp phát triển. Đồ sắt được sử dụng phổ
biến làm cho sự phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp đạt tới
trình độ cao hơn, chuy n nghiệp hơn, thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ
công nghiệp phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc,
nghề làm đồ gốm. . . Vào cuối thời Xuân Thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt
với hơn 300 thợ. Nước Tấn trưng thu sắt để đúc đỉnh hình. Trong sách Chu Lễ
có viết về sự phát triển của các ngành thủ công nghiệp rằng: “Thợ mộc chiếm
bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu phần, thợ thuộc da chiếm năm phần, thợ
nhuộm chiếm năm phần, thợ nề chiếm hai phần. . .” [2, 25].
Về mặt kinh tế, sự phát triển đa dạng của nhiều ngành nghề thủ công đã
có ý nghĩa tích cực trong việc giải phóng sức lao động, góp phần phá vỡ nền

9


kinh tế thuần nông, nâng cao đời sống của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại,
nhưng về mặt chính trị, mặc dù số thợ thủ công nghiệp đông nhưng do trình

độ còn thấp n n họ chưa có ảnh hưởng lớn trong xã hội.
Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở n n phổ
biến còn tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơn trước, hoạt động giao lưu
buôn bán diễn ra sôi động. Tiền tệ đã xuất hiện. Do nhờ buôn bán mà giàu có,
trong xã hội hình thành một tầng lớp thương nhân ngày càng có thế lực như
Huyền Cao nước Trịnh, Tử Cống. . .Tầng lớp này thường kết giao với các bậc
chư hầu, công khanh địa phu, tìm cách leo l n giành quyền lực với tầng lớp
quý tộc cũ, gây nhiều ảnh hưởng đối với chính trị đương thời. Tuy nhi n do
tình trạng xã hội rối ren, lãnh thổ chia năm xẻ bảy do nạn chư hầu cát cứ,
phương tiện giao thông thô sơ, đường xá đi lại khó khăn, do đó việc kinh
doanh không phải ai cũng làm được mà chỉ những người nào quen biết kết
giao với quan lại, người có đầu óc tháo vác và lòng quả cảm thì mới làm
được. Hơn nữa, trong quan niệm của người Trung Quốc luôn xem thường,
khinh rẻ thương nhân, “trọng nông, ức thương”. Chính vì thế, nghề buôn bán
ở Trung Quốc thời kì này chưa thực sự phát triển. Nhưng sự hình thành của
thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp xã hội một tầng lớp
mới - tiền than của một bộ phận giai cấp địa chủ sau này.
1.1.1.2 Điều kiện chính trị
Những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về mặt
chính trị trong thời Xuân Thu. Nếu như trong thời Tây Chu chế độ tông pháp,
“phong hầu, kiến địa” vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt
chính trị ràng buộc về huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ
được sự hưng thịnh trong một thời gian dài, thì đến thời Xuân Thu, chế độ
tông pháp nhà Chu không còn được tôn trọng, đầu mối các quan hệ kinh tế,
chính trị, quân sự giữa Thi n tử và các nước chư hầu trở n n lỏng lẻo, huyết

10


thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được duy trì như

trước. Thi n tử nhà Chu hầu như không còn quyền uy gì đối với các nước chư
hầu. Các lãnh chúa nhỏ và vừa xưa nay vẫn dựa vào quyền uy của Thi n tử thì
giờ đây đã trở n n thất vọng, không còn muốn phụ thuộc vào Thi n tử nữa.
Nhiều nước chư hầu mượn tiếng khôi phục lại địa vị tông chủ của nhà Chu đã
đưa ra khẩu hiệu “tôn vương bài di”, nhưng thực chất là mưu đồ lợi ích cá
nhân, mở rộng thế lực và đất đai, thôn tính nước nhỏ, tranh giành địa vị bá
chủ thi n hạ đã đua nhau xuất binh đánh nhau suốt mấy trăm năm. Thời Xuân
Thu có khoảng 242 năm nhưng xảy ra tới 483 cuộc chiến tranh lơn nhỏ. Đầu
thời Tây Chu có hàng ngàn nước, đến cuối thời Xuân Thu chỉ còn hơn một
trăm nước. Trong đó có những nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ thay nhau
làm bá chủ thi n hạ như nước Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô, Việt, Tần. Để tập
trung tất cả tài lực và vật lực cho các cuộc chiến tranh, các quốc gia này đều
thi hành chính sách “bá đạo” dựa tr n sức mạnh và ra sức bóc lột nhân dân
và các nước khác, điều này hoàn toàn khác với các chính sách nhân nghĩa
“vương đạo” của thánh nhân xưa. Chính sách “bá đạo” đã làm cho đời sống
nhân dân hết sức khổ cực. Người dân phải tham gia quân đội thực hiện các
cuộc chinh phạt của các tập đoàn quý tộc, đồng thời phải chịu sưu cao thuế
nặng, phu phen, lao dịch nặng nề. Thi n tai thường xuy n xảy ra, nạn cướp
bóc lại hoành hành khắp nơi. Đồng ruộng bỏ hoang, cuộc sống nhân dân trăm
bề khốn khổ.
Cùng với các cuộc thôn tính lẫn nhau của các quốc gia thì ngay b n trong
mỗi quốc gia cũng nổ ra không ít các cuộc tranh giành quyền lực và đất đai
giữa quý tộc với nhau. Điển hình là nước Tấn, năm 403 (T.CN) có ba dòng họ
lớn là Hàn, Ngụy, Triệu đã nổi l n bỏ vua Tấn, dựng l n ba nước là Hàn,
Ngụy, Triệu.
Hậu quả của những cuộc tranh giành, thôn tính, chinh phạt lẫn nhau của
tầng lớp quý tộc đã dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt các nước chư hầu nhỏ,

11



đạo đức xã hội bị suy đồi, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, mâu thuẫn
giai cấp trong xã hội trở n n sâu sắc, kể cả mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
và nhân dân cũng như giữa giai cấp thống trị với nhau, làm cho xã hội ngày
càng them rối loạn. Lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại, đặc biệt những nghi lễ chặt
chẽ, tôn nghi m trước đây đã từng góp phần bảo vệ và làm hung thịnh chế độ
tông pháp nhà Chu, thì đến nay cũng bị xem thường. Hậu quả tất yếu là một
vài nơi đã nổi l n các cuộc khởi nghĩa nông dân và nô lệ. Đẩy mâu thuẫn xã
hội thời Xuân Thu l n đỉnh cao, đưa chế dộ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc đi
nhanh đến suy tàn và cáo chung.
Thời Chiến Quốc, b n cạnh sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, như sự
xuất hiện của nhiều trung tâm luyện sắt lớn ở Hàm Đan nước Triệu, Đường
Kh nước Hàn, Lâm Truy nước Tề. . . kéo theo sự phát triển của nghề thủ
công như nghề làm đồ gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, . . . tiền tệ bằng
kim loại ra đời, thương nghiệp cũng vì thế mà hưng thịnh. . . thì về mặt chính
trị, chiến tranh vẫn xảy ra li n mi n, với quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn.
Mạnh Tử viết: “đánh nhau tranh thành, giết người thây chết đầy thành, đánh
nhau giành đất, giết người thây chết đầy đồng” [35, 405 - 406]. Sự phát triển
của kinh tế hàng hóa và chiến tranh li n mi n làm cho chế độ công xã nông
thôn nhanh chóng tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất dần dần trở
thành mối quan hệ thống trị. Việc mua bán ruộng đất được tự do và sự phổ
biến của chế độ tư hữu đã mở đường cho sự tập trung ruộng đất một số ít lãnh
chúa, còn đa số nông dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi làm tá điền. Chế độ
bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Trong xã hội đã xuất hiện những yếu
tố của quan hệ sản xuất mới đó là chế độ phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn
giai cấp đã ngày càng gay gắt hơn, đẩy xã hội tới nguy cơ tan rã nghiêm
trọng, đưa chế độ tông pháp nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc
đi nhanh vào hồi kết. Với việc Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc đã

12



đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của nhà Chu và chế độ chiếm hữu nô lệ, và
mở ra một chế độ mới ở Trung Quốc - chế độ phong kiến.
1.1.1.3 Điều kiện xã hội
Đầu thời Tây Chu, giai cấp thống trị xã hội chủ yếu là chủ nô. Họ là quý
tộc, được hưởng vô số đặc quyền đảm đương những nhiệm vụ của các Thi n
Tử, chư hầu, khanh đại phu. Nhưng đến thời Xuân Thu, tình hình có khác.
Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi
chế độ thành thị thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới
l n. Đó là hiện tượng trong Kinh Thi nói: “Hai đô thi sánh nhau trong nước”.
Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến
hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu như vào đầu
thời Chu, “đất đai ở khắp dưới gầm trời này không đâu không phải là đất của
nhà vua, người dân nào cũng là bề tôi của vua” (Kinh Thi - Chu Tụng) thì
nay cái quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và dân ấy đã bị một lớp người mới
l n chiếm làm tư hữu. Họ là những người bình dân có công trong chiến trận
mà trở n n có quyền lực, ỷ vào quyền đó đã bao chiếm ruộng đất công và biến
thành ruộng hữu, một số người khác là nhà buôn giàu có đã dành tiền mua
ruộng đất và mua chức tước, bước vào thang bậc của xã hội, một số người
khác do bản thân hoặc tập hợp được những người nghèo khổ tiến hành phát
hoang, khai phá ruộng đất mới và trở thành người chủ sở hữu lớn về ruộng
đất, . . . Tất cả họ hợp lại thành giai cấp địa chủ, vừa giàu có về kinh tế, vừa
đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ tham gia vào giai cấp thống trị xã hội, sánh
vai cùng giai cấp chủ nô.
Đến cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc, do chiến tranh khốc liệt mà giai
cấp quý tộc do được nuôi dưỡng trong điều kiện khá thuận lợi đã mất đi tính
tiến bộ, tính tranh đấu. iai cấp này ngày càng mục nát, hủ bại, nhân tài ngày
càng ít. Chính vì vậy mà đến thời Chiến Quốc, vua các nước thường bắt giết
các quý tộc. Chế độ tông pháp nhà Tây Chu đi đến chỗ suy kiệt.


13


Những hiện tượng tr n cho thấy những tôn ti trật tự được hình thành từ
thời Tây Chu theo thang bậc từ tr n xuống dưới, đối với đương thời chỉ còn là
danh nghĩa, hình thức. Trong thực tế ít người có ý thức tuân thủ địa vị và danh
phận đã quy định. Những thang bậc trong xã hội đang đứng trước những thử
thách của sự biến lịch sử.
Chính trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kì Xuân Thu - Chiến
Quốc đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chính
trị, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự, . . . đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có
những tìm hiểu, nghi m cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải
pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy, trong thời
kì này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Có thể
nói, đây là thời kì phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc, nhiều nhà
nghi n cứu gọi đây là thời kì “bách hoa đề phóng, bách gia tranh minh”
(trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng).

iáo sư Nguyễn Tài Thư đã nhận xét:

“Có một thời kì lịch sử Trung Quốc mà ngày nay nhớ đến có người còn xốn
xang bởi sự sôi động của nó, bởi nhiều sự kiện lịch sử xuất hiện dồn dập,
nhiều học thuyết triết học và chính trị - xã hội ra đời, nhiều khối óc tài ba làm
nên sắc thái văn hóa và tư tưởng của Trung Quốc sau này” [32, 13]. Mỗi học
thuyết đều cố gắng đưa ra những lý giải và giải pháp của ri ng mình để giải
quyết vấn đề thực tiễn của xã hội đặt ra. Thuyết Mặc gia, đại biểu là Mặc
Định đã đề xướng thuyết “Kiêm ái”, giải thích nguồn gốc của chiến tranh và
mâu thuẫn xã hội là do người ta không y u nhau. Do đó, đã làm người phải
y u người khác, “vì yêu người tất được người yêu”, “vì người cũng là vì

mình”. Phái Pháp gia, mà đại diện là Hàn Phi, thì cho rằng: nguy n nhân gây
rối loạn xã hội xuất phát từ chỗ pháp luật không nghi m. Vì vậy, để lập lại
trật tự xã hội thì phải dung pháp trị. Đạo gia, mà đại biểu là Lão Tử, Trang Tử
lại cho rằng: con người sống không phải lo gì cả vì sự vật phát triển theo tự

14


nhi n. Vì vậy, trong cuộc sống là không n n tranh giành, vì “mình không
tranh giành với ai, thì không ai tranh giành với mình”. Nho giáo - một học
thuyết lớn nhất trong các học thuyết thời bấy giờ (đứng đầu là Khổng Tử),
cho rằng xã hội rối loạn là do con người vô đạo, không theo đạo lý, không có
nhân nghĩa, n n xã hội ổn định thì phải làm cho xã hội có đạo, dẫn dắt con
người về với đạo lý, với đức nhân, với chính danh của mình. Với lý do đó,
Khổng Tử đã đề cao giáo dục, lấy giáo dục làm phương tiện nhằm thay đổi xã
hội từ “loạn” thành “trị”.
1.1.2 Một vài nét về Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 T.CN) là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại
trong lịch sử, là người sáng lập phái Nho gia. Ông có công rất lớn trong việc
chỉnh lí, nghi n cứu và truyền bá văn hóa cổ Trung Quốc. Tư tưởng và học
thuyết của ông đã cống hiến cho nền văn hóa Trung Quốc nói ri ng và nền
văn minh nhân loại nói chung những giá trị bất hủ.
Khổng Tử t n là Khâu, tự là Trọng Ni, người ấp Trâu nước Lỗ cuối thời
Xuân Thu ( làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay).
Cha là Thúc Lương Ngột, làm quan võ ở nước Lỗ, từng đảm nhiệm chức đại
phu Trâu ấp. Mẹ là Nhan Thị. Xuất thân trong một gia đình nghèo khó, quý
tộc đã sa sút, lại mồ côi cha từ bé, lúc mới l n ba tuổi, mười bảy tuổi mất mẹ,
n n phải làm nhiều nghề, đảm đang, tháo vát.
Khổng Tử từ nhỏ đã thông minh, hiếu học. Trong các trò chơi tuổi thơ,
Khổng Tử thường bày các trò tế lễ, bắt chước nghi lễ cúng tế của người lớn.

Đến năm mười một tuổi từng học Chu lễ với Lỗ Thái Sư. Đến năm hai mươi
tuổi đã nắm vững nhiều tri thức văn hóa, được ca ngợi là “bác học hiếu lễ”
(học rộng chuộng lễ nghi). Khổng Tử đã từng làm tướng lễ (giúp việc cúng tế
lễ nghi) và theo nghề “Nho”.
Năm 517 T.CN, Khổng Tử 35 tuổi, nước Lỗ xảy ra nội loạn, ông rời Lỗ
đến Tề làm gia thần cho quý tộc Cao Chi n Tử. Được họ Cao tiến cử. Vài

15


năm sau, trong hàng đại phu nước Tề có kẻ muốn hại Khổng Tử, ông bèn rời
nước Tề trở về Lỗ. Đương thời, nước Lox đứng trước sự rối loạn về chính trị,
giai cấp quý tộc tranh quyền đoạt vị. Khổng Tử không muốn làm quan chỉ
chuy n tâm vào chỉnh lý thư tịch văn hóa như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch. . .
Đồng thời mở trường dạy học, thu nhận học trò, nỗ lực trấn hưng sự nghiệp
giáo dục.
Khổng Tử là người sáng lập Nho gia. Ông kế thừa tiền nhân, phát huy
quan điểm của đạo nhân, lấy quan niệm đạo đức làm trung tâm trong học
thuyết xây dựng triết học đạo nhân, cũng tức là triết học nhân văn mang tính
nhân bản chủ nghĩa. Hoài bão lớn nhất của Khổng Tử là chính trị song thành
công lớn nhất trong cuộc đời ông lại là lĩnh vực giáo dục. Khổng Tử đã đào
tạo được hàng ngàn học trò, trong đó có 72 người được đời sau gọi là hiền
triết. Từ đó nhiều thế hệ học trò nối tiếp nhau dạy học tạo thành tầng lớp Nho
Sĩ - tầng lớp giữ vị trí then chốt trong nhiều triều đại về sau của Trung Hoa.
Đặc biệt hơn nữa, Khổng Tử còn để lại cho hậu thế một di sản vô giá về giáo
dục, từ quan điểm tiến bộ đến mục đích giáo dục rõ rang, nội dung phong
phú, nguy n tắc rạch ròi đặc biệt là về phương pháp giáo dục. Không dừng lại
ở đó Khổng Tử còn san định kinh Dịch, kinh Thi, kinh Xuân Thu. Quyển
“Luận Ngữ” là một trong bốn quyển sách kinh điển của Nho gia.
Mạnh Tử nhận xét về Khổng Tử: “Khổng Tử có thể nói là tập hợp được

tất cả nết tốt. Tập hợp tất cả cũng ví như tiếng chuông đồng mở đầu, tiếng
khánh ngọc kết thúc cuộc hòa nhạc. Tiếng chuông đồng để điều tiết lúc đầu,
tiếng khánh ngọc để điều tiết lúc cuối. Điều tiết lúc đầu là công việc của bậc
trí giả, điều tiết lúc sau là công việc của thánh nhân” (Khổng Tử chi vị tập
đại thành. Tập đại thành dả ngã, kim thanh nhi ngọc chấn chi dã. Kim thanh
dã giả, thủy điều lý dã, ngọc chấn chi dả ngã, chung điều lý dã. Thủy điều lý
giả: trí chi sự dã, chung điều lý giả: thánh chi sự dã) [35, 1152 - 1154].

16


Như vậy có thể thấy rằng thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử lưu lại
cho đời sau những giá trị bất hủ. N n người đời sau mới tôn tặng ông danh
hiệu Nhà giáo dục ti u biểu cho muôn đời “Vạn thế sư biểu”.
1.2 Tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử
1.2.1 Đối tượng giáo dục của Khổng Tử
Khổng Tử là người đầu ti n trong lịch sử giáo dục thế giới “chuyển nền
văn hóa từ trên xuống dưới và nâng trình độ dân trí từ dưới lên trên”. Nói
cách khác, Khổng Tử đã Bình dân hóa giáo dục.
Là người đầu ti n mở trường tư và mở với quy mô lớn, có chỗ nội trú và
phòng đọc sách cho học trò, Khổng Tử luôn mở rộng cửa trường đón nhận
mọi người với quan điểm cực kì tiến bộ:
“Hữu giáo vô loại” - quyền được giáo dục là quyền của mọi người không
phân biệt đẳng cấp, thành phần xã hội [18, 38].
Với chúng ta hiện nay, điều này quá bình thường, nhưng thời Khổng Tử
thì đó quả là một quan điểm cách mạng tận nền móng. Ngay ở Âu Mỹ mà mãi
đến 1850 mới mở cửa giáo dục cho toàn dân [9, 30].
Như vậy, theo quan điểm của Khổng Tử, văn hóa vốn nằm “trên chop
cao” của xã hội mà chỉ có tầng lớp quý tộc thời bấy giờ mới được hưởng, đã
chuyển xuống cho mọi tầng lớp xã hội, bằng con đường giáo dục.

Và bằng con đường giáo dục theo quan điểm bình dân hóa ấy, trình độ
dân trí được nâng l n.
Tr n thực tế đã có những học trò nghèo khó đến xin học. Khổng Tử đều
nhận dạy. Ông không phân biệt người giàu kẻ nghèo, ai xin học, muốn dâng
vật gì làm lễ nhập môn, dù chỉ là chục chiếc nem, ông cũng vui nhận [18, 7].
Khổng Tử cũng không để ý đến quá khứ của người học. Một thanh niên
ở làng Hồ Hương xin đến học, ông nhận; các môn sinh cũ có vẻ ái ngại, vì
làng ấy nổi tiếng là “khó dạy”. Khổng Tử bảo với môn sinh: “Người ta lấy

17


lòng trong sạch mà đến với mình thì mình vì tấm lòng đó mà thu nhận người
ta. Còn việc cũ của người ta ra sao, đừng nghĩ tới”. [18, 27].
Trước Khổng Tử, trong mỗi xóm hai mươi lăm nhà có một trường học,
gọi là “thục”; mỗi thị trấn gồm 500 nhà có một trường học cao hơn gọi là
“tường”; trong mỗi châu gồm 2500 nhà có một trường cao hơn nữa gọi là
“tự”; tại kinh đô mỗi nước có một trường cao hơn cả gọi là “học”. Đó là
những trường công lập; thầy giáo cũng do triều đình bổ nhiệm, học sinh đa số
là những con em tầng lớp quý tộc. Trong lịch sử, trước thế kỉ (VI TCN)
không thấy có một trường nào thu nhận học sinh từ mọi tầng lớp xã hội khác.
Khổng Tử là người đầu ti n làm việc đó. Và ông ấy đã thành công trong quan
điểm bình dân hóa giáo dục ấy: lập trường tư để dạy học, Khổng Tử chủ
trương bất kể là quý tộc hay bình dân, bất kể là dân tộc Hoa hay Di Địch, đều
có thể nhập học để được giáo dục. Đề xuất tư tưởng Hữu giáo vô loại (được
giáo dục không kể hạng người gì) là một cống hiến vĩ đại của Khổng Tử đối
với nền giáo dục cổ đại.
Rất tiếc sang đ m trường Trung đại, và cả Cận đại, tư tưởng cực kì tiến
bộ này đã không được thực hiện.


iáo dục dần dần trở thành đặc quyền, đặc

lợi của một số người.
Sau Khổng Tử, ngay tại Trung Hoa “trong nhiều triều đại, giai cấp
thống trị còn ra lệnh cấm các trường tư nhận con em tầng lớp lao động vào
học; làm trái lệnh sẽ bị xử tử” [27, 18].
Trường tư - tương đối mở rộng cửa mà còn như vậy huống hồ là trường
công do chính giai cấp thống trị mở ra!
Thế mới biết tư tưởng “Hữu giáo vô loại” của Khổng Tử là tiến bộ đến
ngần nào!
Ngày nay, ta chủ trương “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường” để mọi
người “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” theo lời Bác, là
tiếp nối tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử vậy.

18


Chính trị hóa giáo dục: Làm cho giáo dục mang lý tưởng chính trị; và
mục ti u chính trị được thể hiện bằng con đường giáo dục.
Về chính trị, Khổng Tử chủ trương “Lễ trị”, nghĩa là dùng lễ để trị dân,
mà thực chất là dùng đạo đức để cảm hóa con người, n n còn gọi là “Đức
trị”. Mà muốn có lễ trị, đức trị thì phải học, phải được giáo dục, trước hết là
phải tu than để chính danh: vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con.
“Nói cho cùng, một người dốc sức vì sự nghiệp giáo dục, sớm muộn
người đó phải quan tâm đến chính trị. Khổng Tử, Chu Văn An, Pythagore,
Lomonosov. . . tất cả đều như vậy. Việc khai sáng trí tuệ thường đồng hành
với sự cải cách xã hội” [22, 15]. iáo dục không thể tách rời chính trị.
Về giáo dục, Khổng Tử chủ trương học để n n người có văn, có chất để
làm quan, để mang tài ra giúp nước, xây dựng một xã hội có tôn ti trật tự.
Nghĩa là mục đích cuối cùng của sự học là để tham gia chính trị. Do vậy mà

Khổng Tử luôn chú trọng đến sự học để cứu đời, cốt đào tạo những con người
có đức hạnh, có đầu óc sáng suốt, có li m sỉ để làm chính trị, cải tạo xã hội.
Đồng thời, Khổng Tử ph phán lối học thoát ly cuộc sống, học không vì đời là
cái học vô ích “Học hết ba trăm bài Kinh Thi, được vua giao cho việc trị dân
mà không được việc, sai sứ đi bốn phương mà không biết ứng đối, thì tuy học
nhiều mà có ích gì đâu ?”. Trái lại phải biết hành đạo giúp đời!
Khổng Tử chú trọng đến sự học để cứu đời, cốt đào tạo những con người
có đức hạnh, có đầu óc sáng suốt, có li m sỉ để làm chính trị, cải tạo xã hội.
Đạo đức hóa giáo dục: Làm cho giáo dục thống nhất với đạo đức.
Khổng Tử muốn xây dựng một xã hội có tôn ti trật tự và cái tôn ti đó
phải dựng tr n một nền tảng đạo đức, trước hết là người tr n phải làm gương
cho kẻ dưới: “quân quân; thần thần; phụ phụ; tử tử; phu phu; thê thê”.
Ngay chữ “quân tử” trong quan niệm của Khổng Tử cũng đã mang một
nội dung mới, khác hẳn nghĩa thông dụng thời bấy giờ. Quân tử, theo Khổng

19


Tử là người có tài, có đức, chứ không phải chỉ là người có địa vị cao như
người ta thường nghĩ.
Ở một góc độ nào đó, có thể nói Khổng Tử muốn thực hiện một thứ bình
đẳng dựa tr n chân giá trị của con người. Cái quyết định địa vị của mỗi người
chính là giá trị thực của con người đó.
Khổng Tử tin rằng người dân một nước mà biết hiểu dễ - quan hệ xã hội
đầu đời giữa người với người - thì nước đó sẽ có trật tự, trị an. Cho n n ông
rất chú trọng đến chữ “hiếu”. Khổng Tử quan niệm chữ hiếu có nhiều nội
dung mà tùy theo trình độ của mỗi người, ông giảng giải một cách khác nhau.
“Nhà sư phạm chân chính, không chấp nhận một xã hội không có kỉ
cương” [22, 15]. iáo dục trước hết là Đức dục
Ngoài xã hội Khổng Tử dạy lấy lòng nhân ái mà đối đãi với mọi người;

phải cẩn thận và thành thực, thương y u mọi người và gần gũi người nhân
đức! [18, 6]
Ông đòi hỏi học trò phải luôn tự xem xét mình, làm chủ lấy mình: Người
quân tử có 9 mối xét nét để tự tu sửa bản than [18, 10]. Và tu thân là nhiệm vụ
trọng yếu cơ bản của mỗi người không phân biệt đẳng cấp hay địa vị xã hội
“Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”.
1.2.2 Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử
Đối với Khổng Tử, học trước hết là để biết, để làm người có tri thức.
Ông nói:
Ngọc bất trác bất thành khí
Nhân bất học bất tri đạo
Ngọc mà không mài giũa không n n vật trang sức quý; người không
học không có tri thức (đạo thời bấy giờ là tri thức, là hiểu biết quy luật vận
hành của vạn vật). Tức là thành người tri thức (Trí). Muốn vậy phải tìm hiểu
cho thấu triệt ngọn nguồn sự vật (cách vật tri trí). Có tri chân mới có thể

20


hành thiện. Đó là chữ trí. B n cạnh chữ Trí. Khổng Tử con nhấn mạnh đến
chữ Nhân.
Thứ nhất: Học để làm ngƣời có lòng nhân: Hạt nhân trong tư tưởng
của Khổng Tử là “nhân”. Nhân là quan hệ lẫn nhau giữa người với người
trong sinh hoạt xã hội. Nội dung của chữ Nhân bao hàm cả: Hiếu, Đễ và
Trung, Thứ. Ông nói: “Hiếu, đễ là cái gốc để làm người” [18, 9].
Học trò ông lại nói: “Tư tưởng của thầy nói tóm lại một từ, chẳng qua là
TRUN

THỨ mà thôi”. Trung biểu đạt tình cảm chân thành xuất phát từ


trong long mình. “Nghĩa là nhất thiết xử việc, tiếp người, đều móc ở trong
long mình ra, không một tí gì dối long, ấy là TRUNG, là cái “thể” của chữ
NHÂN”.[19, 52]. Nghĩa là hết lòng, nghĩa là “quên mình” vì người, là
TRUN THÀNH vậy.
Suy ở trong lòng mình mà đo lường đến lòng người thời biết được lòng
người cũng như lòng mình mà đối đãi bằng một cách bình đẳng, bác ái. Ấy là
nghĩa chữ Thứ mà chính là cái “dụng” của chữ Nhân vậy. Nói cách khác, theo
lời Khổng Tử “Thứ” là “việc mà mình không thích, chớ áp đặt cho người”.
Như vậy, mục ti u giáo dục của Khổng Tử là đào tạo cho con người vừa
DŨN , vừa TRÍ, vừa NHÂN - người quân tử.
“Bồi dưỡng những chí sĩ thương người có biết tháo cao thượng và những
quân tử Nho gia có tri thức uyên bác, đó là mục đích giáo dục mà Khổng Tử
rất nhấn mạnh” [24, 232].
Ông kể rằng kẻ sĩ phải có chí truy tìm chân lý, không xấu hổ vì phải ăn
đói mặc rách, ngay cả tính mạng thậm chí cũng có thể coi nhẹ, “sáng nghe
được đạo, chiều chết cũng vui” [18, 8].
Thứ hai: Học để làm quan: Chiều sâu trong mục đích giáo dục của
Khổng Tử không phải chỉ là “biết”, chỉ là Tri thức, mà còn phải là “làm”,
phải “hành đạo”. Người quân tử phải học để thấu đạo (trí đạo). Thấu đạo rồi
mới hành đạo, giúp đời, cứu người. Tri chân, hành thiện: biết cho thấu triệt,

21


×