Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Việc tuyển chọn và sử dụng quan lại thời trần (1226 1400)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

======

LÝ THỊ THU HÀ

VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG
QUAN LẠI THỜI TRẦN (1226 – 1400)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
Th.S. NGUYỄN VĂN NAM

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Khóa luận này là kết quả của sự tận tình, sự góp ý chân thành của tất cả
các thầy giáo, cô giáo và sự nỗ lực của bản thân tôi trong suốt thời gian học tập
trong Khoa Lịch Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong Khoa Lịch
Sử đã truyền đạt cho chúng tôi một kho tàng kiến thức hết sức bổ ích và nhiều
điều thú vị trong quá trình học tập tại ngôi trường này. Đặc biệt là tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc của mình đến Th.S Nguyễn Văn Nam đã tận tình chu đáo
hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Với nhận thức và khả năng còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên
bài khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong được


sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Đó sẽ là
hành trang quý giá giúp tôi hoàn thiện kiến thức sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Lý Thị Thu Hà


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài là do chính tôi thực hiện, những tài liệu tham
khảo có nguồn liệu trích dẫn rõ ràng, cụ thể. Tôi cũng xin cam đoan đề tài này
không trùng với bất kỳ đề tài nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn với nội dung của đề tài.
Ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Lý Thị Thu Hà



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận .................................................................................... 5
6. Kết cấu khóa luận .............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ ĐỂ TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI TRIỀU
TRẦN (1226 -1400) .............................................................................................. 6
1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA - TƯ
TƯỞNG, GIÁO DỤC ........................................................................................... 6
1.1.1. Tình hình kinh tế ......................................................................................... 6
1.1.2. Tình hình chính trị - xã hội ....................................................................... 10
1.1.3. Văn hóa - Tư tưởng, Giáo dục .................................................................. 14
1.2. VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI TRƯỚC THỜI TRẦN
............................................................................................................................. 17
1.2.1.Thời nhà nước Văn Lang - Âu Lạc ............................................................ 17
1.2.2. Thời Kỳ Bắc thuộc .................................................................................... 17
1.2.3. Thời phong kiến tự chủ ............................................................................. 19
CHƯƠNG 2: VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI THỜI TRẦN
(1226-1400) ......................................................................................................... 25
2.1. CÁC HÌNH THỨC TUYỂN CHỌN ........................................................... 25
2.1.1. Tiến cử ....................................................................................................... 25
2.1.2. Nhiệm tử .................................................................................................... 27
2.1.3. Khoa cử ..................................................................................................... 28
2.1.4. Các hình thức tuyển chọn khác ................................................................. 33
2.2. VIỆC SỬ DỤNG QUAN LẠI .................................................................... 34



2.2.1. Sử dụng theo chuyên môn ......................................................................... 34
2.2.2. Sử dụng theo vai trò và địa vị trong bộ máy nhà nước ............................. 37
2.2.3.Sử dụng theo phạm vi lãnh thổ .................................................................. 38
2.2.4. Sử dụng theo chức năng ............................................................................ 41
2.2.5. Chế độ đãi ngộ đối với quan lại ................................................................ 42
2.2.6. Chế độ thanh tra, giám sát quan lại ........................................................... 44
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ SỬ
DỤNG QUAN LẠI THỜI TRẦN (1226 -1400) ................................................ 46
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI
THỜI TRẦN........................................................................................................ 46
3.2. TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN
LẠI THỜI TRẦN ................................................................................................ 53
3.2.1. Tích cực ..................................................................................................... 53
3.2.2. Hạn chế ...................................................................................................... 57
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 63


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và cùng với đó là sự xuất hiện của nhà
nước thì chính trị và con người chính trị cũng ra đời. Con người chính trị có vai
trò rất to lớn, họ là nhân tố quyết định đến sự vận động và phát triển của chính
trị nói riêng và toàn xã hội nói chung. Nếu quyền lực chính trị được xác lập trên
thực tế thông qua bộ máy nhà nước hay tổ chức chính quyền nhà nước thì nhà
nước đó hoạt động như thế nào, có thực hiện được chức năng của nó hay không
lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người chính trị.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta thường xuyên phải đối mặt
với nhiều mối đe dọa của thiên tai, địch họa và các vấn nạn ngoại xâm. Bởi thế
mà việc tập hợp và sử dụng người tài của quốc gia, xây dựng bộ máy chính trị

thống nhất, củng cố khối đại đoàn kết quân dân phải đặt lên hàng đầu. Để giải
quyết được nhiệm vụ ấy các triều đại phong kiến Việt Nam cần phải có một đội
ngũ quan lại có đủ năng lực, việc tuyển chọn và sử dụng quan lại là vấn đề cần
thiết nhằm xây dựng lên một hệ thống quan trường vững chắc, góp phần củng cố
và phát triển hơn nữa quyền lực của triều đại. Tuyển chọn và sử dụng quan lại,
đưa họ tham gia vào bộ máy hành chính, cống hiến những tài đức được coi là
“nguyên khí” xây dựng quốc gia.
Trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam, nhất là vào thời thịnh trị có
“vua sáng tôi hiền’’ luôn coi trọng nhân tài. Nhân tài được xem là “quốc bảo’’ là
“tinh hoa của dân tộc’’, là “rường cột’’ là “nguyên khí’’ của quốc gia. Thân
Nhân Trung từng nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất
nước càng mạnh và lớn lao, nguyên khí suy thì nước yếu mà càng xuống thấp.
Bởi vậy bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo, nuôi
dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí’’. Từ đây, chúng ta có thể
thấy được vị trí, vai trò của nhân tài trong xã hội là cực kỳ quan trọng, họ là một
phần của lịch sử dân tộc.
1


Đến thời Trần, kế thừa các triều đại trước đó việc tuyển chọn quan lại đã
dần đi vào quy củ, có quy định rõ ràng. Phương thức tuyển dụng quan lại thời
Trần khá phong phú. Quan lại được tuyển chọn bằng nhiều hình thức và cốt yếu
là tuyển chọn người có thực tài tham gia vào bộ máy nhà nước, điều này đã giúp
cho vương triều Trần trong suốt thời gian tồn tại của nó đã đạt được nhiều thành
tựu rực rỡ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội.
Nghiên cứu quá trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần không chỉ
góp phần làm rõ các hình thức tuyển chọn, phân bổ và sử dụng đội ngũ quan lại
mà còn chứng minh tổ chức thi cử, phân bổ và sử dụng quan lại ở giai đoạn này
đã có bước phát triển hơn hẳn so với các giai đoạn trước đó. Thông qua các kết
luận của công trình nghiên cứu về những đặc điểm và những tác động của quá

trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời nhà Trần, liên hệ và rút ra những kinh
nghiệm cần thiết vận dụng vào công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Xuất phát từ lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Việc tuyển chọn và sử
dụng quan lại thời Trần (1226-1400)” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay, dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã có không ít tác
giả đề cập đến vấn đề đào tạo và sử dụng đội ngũ quan lại cũng như việc dùng
người trong chính trị của các nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử. Tiêu
biểu có các công trình nghiên cứu sau đây:
Tác phẩm thông sử “Đại Việt sử kí toàn thư’’ của Ngô Sĩ Liên do Nhà xuất
bản Văn học ấn hành năm 2009 đã cung cấp tư liệu về cách thức tuyển chọn
quan lại thời Trần. Nhưng do tác phẩm chỉ đặt vấn đề trong mối quan hệ với các
lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa, xã hội nên chỉ cung cấp một cách sơ lược
những tư liệu về việc tuyển chọn quan và sử dụng quan lại của các triều đại chứ
chưa có nhận xét đánh giá về cách thức tuyển chọn quan lại, tác động của các
chính sách tuyển chọn và sử dụng với lịch sử vương triều Trần.
2


Cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí’’ của Phan Huy Chú là cuốn chính
sử cung cấp những sự kiện xác thực nhất về việc tuyển chọn quan và sử dụng
quan lại của các triều đại phong kiến trong đó có nhà Trần. Trong đó có hẳn
phần “Quan Chức Chí” chép về danh hiệu, chức vụ, phẩm tước, lương bổng và
cách tuyển cử quan lại dưới các triều đại.
Tài liệu sách chuyên khảo: “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ
XIX’’ của Đào Duy Anh, của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản (2002).
Cuốn “Lịch sử văn hóa Việt Nam’’ của Huỳnh Công Bá - Nhà xuất bản Thuận
Hóa (2008). Và cuốn “Lịch sử Việt Nam’’ tập I do tác giả Phan Huy Lê chủ
biên, Nhà xuất bản Giáo dục ban hành. Đây là những cuốn sách viết đầy đủ và

sâu sắc nhất về các triều đại phong kiến Việt Nam trong đó có đề cập đến hình
thức tuyển chọn và sử dụng quan lại thời nhà Trần.
Nổi bật hơn nữa có bài trích “Phương thức tuyển dụng quan lại thời Trần”
của tác giả Nguyễn Thị Phương Chi, năm 2006 - số 7 - trang (19 - 26) - Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử. Bài trích này có trình bày về các phương thức tuyển dụng
quan lại dưới thời nhà Trần tuy nhiên vẫn chưa đề cập rõ đến các phương thức
phân bổ, sử dụng số quan lại đã được tuyển chọn.
Các công trình đều có liên quan hay ít nhiều đề cập đến vấn đề tuyển chọn
và sử dụng quan lại thời nhà Trần. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm và bài viết
đó mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh hoặc trình bày một cách khái quát chứ
chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống bức tranh lịch sử về
quá trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần từ năm 1226 -1400.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Khóa luận tập trung nghiên cứu chính sách tuyển chọn và sử dụng quan lại
thời Trần (1226-1400) để rút ra đặc điểm và tác động của chính sách tuyển chọn
và sử dụng quan lại dưới thời Trần.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3


Để đạt được mục đích trên, Khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở để tuyển chọn và sử dụng quan lại triều Trần.
+ Trình bày một cách có hệ thống các chính sách, biện pháp thực hiện và
kết quả đạt được trong quá trình đào tạo và sử dụng quan lại thời Trần.
+ Rút ra những đặc điểm và những tác động của quá trính tuyển chọn và sử
dụng quan lại thời nhà Trần.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu quá trình tuyển chọn và sử

dụng quan lại trong phạm vi lãnh thổ nước Đại Việt dưới thời Trần.
Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu quá trình tuyển chọn và sử dụng quan
lại trong thời gian triều Trần tồn tại từ năm 1226 đến 1400.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Những tài liệu thông sử và chuyên khảo nói về các triều đại phong kiến ở
Việt Nam, các cuốn sách viết về triều đại nhà Trần được lưu trữ ở Thư viện
Quốc Gia, Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội, Thư viện trường Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Thư viện trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Tài liệu giáo trình Đại học: Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, Tiến trình
lịch sử Việt Nam, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1858…
Những bài viết viết triều Trần đăng trên các Tạp chí Nghiên cứu lịch sử;
Tạp chí Văn, Sử, Địa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Khóa luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Về phương pháp nghiên cứu: Công trình nghiên cứu dựa trên hai phương
pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử với phương pháp lôgic. Ngoài ra, khóa

4


luận còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, đối chiếu, so sánh, liên
ngành.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã tập hợp và xử lý các tư liệu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó
dựng lại quá trình tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần (1226-1400).
Rút ra những đặc điểm và những tác động của việc tuyển chọn và sử dụng
quan lại thời Trần, từ đó liên hệ và rút ra những kinh nghiệm cần thiết vận dụng
vào công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đặc biệt là cải cách giáo dục và cải

cách hành chính.
Thông qua nghiên cứu, khóa luận góp phần cung cấp những luận cứ khoa
học cho việc đánh giá những giá trị tiêu biểu trong đường lối trị nước của các vị
vua nhà Trần. Khóa luận cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu về vương triều Trần, cung cấp tư liệu học tập môn Lịch sử Việt Nam
cổ trung đại cho các bạn sinh viên Khoa lịch sử.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khoá
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở để tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần (1226 1400)
Chương 2: Việc tuyển chọn và tuyển chọn và sử dụng quan lại thời Trần
(1226 - 1400)
Chương 3: Đặc điểm và tác động của việc tuyển chọn và sử dụng quan lại
thời Trần (1226 - 1400)

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ ĐỂ TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI TRIỀU TRẦN
(1226 -1400)
1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA - TƯ
TƯỞNG, GIÁO DỤC
1.1.1. Tình hình kinh tế
1.1.1.1. Trong nông nghiệp
Thời Trần có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên cũng giống như các
triều đại trước đó, các vua nhà Trần luôn quan tâm, chăm lo tới sản xuất nông
nghiệp. Hằng năm vào mùa xuân, các vua nhà Trần thường thân chinh cày vài
đường trong lễ cày “tịch điền” để khuyến khích nông nghiệp. Nhà nước có
những biện pháp bảo vệ sức sản xuất và sức kéo. Để bảo vệ sức sản xuất, nhà

Trần đã chú ý tới bảo vệ nhân đinh - nguồn lao động chủ yếu trong xã hội cũng
như lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhà nước có những luật lệnh để bảo vệ trâu bò
nhằm bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp, chính vì vậy tội trộm trâu hay giết trâu
thường bị xử lí rất nặng. Chính sách “ngụ binh ư nông” được nhà Trần áp dụng
giúp cho nhân lực được phân phối đều ở cả hai nhiệm vụ là canh tác nông
nghiệp và nghĩa vụ quân sự, đây là một trong những chính sách hợp lí và phù
hợp với tình trạng dân số ít ỏi của Đại Việt. Chính sách này đã vừa cung cấp
được lực lượng tham gia vào lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nông nghiệp, vừa cung ứng được nhu cầu binh lính cho quân đội
khi có giặc ngoại xâm.
Triều đình cho phép các vương hầu chiêu tập những người nghèo khổ, lưu
lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang ruộng nương. Dưới thời nhà Trần, chính
sách khẩn hoang được nhà nước chú trọng và tăng cường đẩy mạnh. Năm 1344,
Nhà Trần cho đặt các cơ quan và các chức quan chuyên lo việc mộ dân, khai
hoang lập đồn điền. Những đối tượng tham gia lập đồn điền chủ yếu là tù binh
6


(Chăm), những người tù tội, dân xiêu tán và binh lính. Các điền trang, thái ấp
giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp thời Trần. Sự phát triển
của thái ấp điền trang đã góp phần hình thành nên các quý tộc có thế lực lớn, các
thái ấp trở thành vùng đất riêng của quý tộc thời Trần. Dưới sự lớn mạnh của
các quý tộc ở các thái ấp đã đặt ra yêu cầu buộc các vua nhà Trần phải đoàn kết
các quý tộc lại, không để họ thoát li khỏi chính quyền địa phương, tránh phân
tán quyền lực ở chính quyền trung ương, tập trung quyền lực vào trong tay các
quý tộc. Việc tuyển dụng, bổ nhiệm các quý tộc có địa vị và năng lực vào các vị
trí quan trọng trong bộ máy nhà nước cũng được triều đình cất nhắc.
Ruộng đất công làng xã chiếm số lượng tương đối lớn, nhà Trần đã có chế
độ tô thuê cho loại ruộng công làng xã. Phép định tô thuế đầu tiên được ban
hành vào năm 1242, nhân đinh có ruộng thì nộp tiền thóc. Có 1 - 2 mẫu ruộng

thì nộp một quan, 3 - 4 mẫu ruộng thì nộp hai quan tiền, từ 5 mẫu trở lên nộp 3
quan tiền; tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc. Do chính sách của nhà Trần
cho phép mua bán ruộng đất nên bộ phận ruộng đất tư ở thời Trần tương đối
phát triển, tuy nhiên đa số ruộng đất tư nằm trong tay quý tộc, quan lại, cường
hào. Đây cũng là lý do buộc nhà Trần phải tăng cường bộ máy quan lại để làm
nhiệm vụ thu thuế cũng như quản lí ruộng đất.
Chính sách trọng nông của nhà Trần còn được thể hiện ở chỗ nhà nước
quan tâm, chăm lo đến công việc trị thủy, thủy lợi nhằm phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp và công cuộc khai hoang. Ở thời Lý, công việc trị thủy do các địa
phương tự lo liệu, tự góp tiền của, nhà nước chỉ đóng vai trò chỉ đạo và quản lí
một số đê xung quanh Thăng Long; nhưng khi nhà Trần vừa lên nắm chính
quyền đã nhanh chóng có những biện pháp phục hồi sản xuất nông nghiệp, phục
hồi diện tích canh tác trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước.
Các cơ quan chuyên phụ trách công tác trị thủy, thủy lợi cũng được ra đời.
Việc nhà Trần rất quan tâm phát triển nền kinh tế nông nghiệp chứng tỏ
các chức quan phụ trách nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong bộ máy nhà
7


Trần. Đồng thời chính sách khuyến khích, phát triển nông nghiệp đã góp phần
làm tăng thêm tích lũy cho nhà nước, đời sống nhân dân ổn định, nhờ đó đã tạo
nên cơ sở vững chắc cho công cuộc xây dựng đất nước cũng như góp phần làm
nên thắng lợi trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.
1.1.1.2. Trong thủ công nghiệp
Dưới thời Trần có hai bộ phận là thủ công nghiệp nhà nước và thủ công
nghệp dân gian. Trong thủ công nghiệp nhà nước, nhà Trần đã trưng tập các thợ
khéo, thợ giỏi về làm trong các quan xưởng, bao gồm nhiều ngành nghề khác
nhau: nghề gốm, nghề dệt, xưởng chế tạo vũ khí, đúc tiền, ...“Thợ làm việc
trong quan xưởng đều có thân phận thấp kém. Với phương thức lao động cưỡng
bức, người thợ bị trói buộc vào chính quyền. Sản phẩm làm ra thỏa mãn nhu

cầu sử dụng trong cung đình và cho quan lại, không phải là thương phẩm. Sự
tồn tại của nó không có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
hàng hóa” [10, tr.205]. Thủ công dân gian là bộ phận quan trọng và phổ biến
của thủ công nghiệp, của tiểu nông, những người nông dân cũng đồng thời là
những người thợ thủ công. Chợ, phố, lị , sở, các phủ lộ và kinh đô Thăng Long
là địa điểm trao đổi các sản phẩm thủ công nghiệp.
Có thể nói thủ công nghiệp thời Trần rất phát triển. Nhiều nghề thủ công
mà sản phẩm của nó đạt đến trình độ tinh xảo như nghề sản xuất gốm, nghề chế
tác kim hoàn, nghề chạm khắc gỗ...hình thành nên các làng nghề thủ công,
những trung tâm sản xuất có tiếng, sản phẩm của nó đã trở thành hàng hóa có
mặt ở các khu vực lân cận. Điều này đòi hỏi nhà nước cần có một đội ngũ quan
lại điều hành các hoạt động sản xuất, đặc biệt là bộ phận quan lại điều hành các
hoạt động sản xuất ở các quan xưởng.
1.1.1.3. Trong thương nghiệp
Ngay từ những ngày đầu thành lập nhà Trần đã kiến tạo một hệ thống giao
thông đường thủy và đường bộ trong cả nước. Hệ thống giao thông sông, biển
và trên bộ của thời Trần với mục đích chính phục vụ yêu cầu quân sự nhưng
8


cũng có nhiều tác động đối với thương nghiệp. Sông ngòi là mạch giao thông
quan trọng, truyền thống giao thông vận tải của người Việt là vận tải bằng
thuyền. Biển, sông, kênh đào đều dùng thuyền đi lại để phục vụ chuyên chở.
Tuyến đường biển thời Trần đã góp phần tích cực để phát triển thương nghiệp,
thuyền các nước Diệp Điểu (Giava), Thiện (Mến Điện), Thiên Trúc (Ấn Độ)
từng cập bến các hải cảng nước ta. Dưới thời Trần đã hình thành những trung
tâm thương mại lớn như Thăng Long và Vân Đồn. Vân Đồn là thương cảng
quốc tế, phát triển phồn thịnh từ cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIV và duy trì hoạt
động trong những thế kỷ sau. Trung tâm thương mại Thăng Long lớn nhất nước,
nơi tập trung nhiều hàng hóa chất lượng cao phục vụ cho cuộc sống của nhiều

tầng lớp ở kinh đô, trong đó có nhiều hoàng gia, quan lại cao cấp, thương nhân,
nho sĩ, thợ thủ công...Với sự phát triển phồn thịnh của thương nghiệp nên triều
đại Lý – Trần đã xác định “ Tiền là phương tiện lưu thông hàng hóa. Các vua
Đại Việt thời Lý - Trần đều có đúc tiền. Ngoài ra trên thị trường còn sử dụng
nhiều tiền Trung Quốc. Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp
tiền để lấy quan chức” [11, tr. 207]. Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống
chính trị và tín ngưỡng của tầng lớp nhân dân cũng như tầng lớp quan lại lúc bấy
giờ.
Để phát triển nền kinh tế thương nghiệp nhà Trần cần bộ phận quan lại phụ
trách các mạng lưới giao thông, trông coi các thương cảng, việc đúc tiền cũng
cần phải có một đội ngũ quan lại phụ trách, điều này đã tác động tới việc tuyển
chọn và sử dụng quan lại thời Trần.
Như vậy có thể thấy dưới triều đại nhà Trần nền kinh tế nước ta hết sức
được quan tâm chú ý, do đó mà nền kinh tế đất nước đã có những bước phát
triển quan trọng, đáp ứng được nhu cầu trao đổi trong nước, ngoài nước. Dưới
tác động của nền kinh tế đã ảnh hưởng ít nhiều đến việc tuyển chọn quan lại của
nước ta. Với một nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ đạo cũng đã quy định đến

9


việc tổ chức chính quyền đó là nhà nước luôn quan tâm nhiều hơn đến các chức
quan phụ trách nông nghiệp.
Sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã tạo nên nền tảng vững chắc để
triều đại nhà Trần có thể ổn định, phát triển bền vững, cũng như có tiềm lực để
củng cố bộ máy chính quyền, tăng cường khả năng quốc phòng, chống giặc
ngoại xâm thông qua các phương pháp tuyển chọn và sử dụng người tài.
1.1.2. Tình hình chính trị - xã hội
1.1.2.1. Chính trị
Ngoài việc phải đối phó với kẻ thù xâm lược từ bên ngoài thì nhìn chung

chính trị thời Trần tương đối ổn định. Cuộc thay đổi triều đại, chuyển giao chính
quyền từ dòng họ Lý sang họ Trần diễn ra trong hoàng cung và triều đình mà
hầu như không có tác động gì trong xã hội, không một ảnh hưởng gì lan xa.
“Tập đoàn quý tộc Trần rất khôn khéo trong việc thâu tóm và nắm giữ chính
quyền nhanh gọn. Cả họ Lý bị suy yếu và tê liệt, không một phản ứng gì đáng
kể” [11, tr.175]. Nhà Trần đã thay nhà Lý mở ra một thời kỳ phát triển cao hơn
của xã hội Đại Việt, chính quyền nhà Trần trong thế kỷ XIII vững vàng mà năng
động đã đưa đất nước thống nhất và ổn định cho đến giữa thế kỷ XIV.
Về bộ máy nhà nước, vua là người nắm trong tay toàn bộ quyền lực như:
ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, giữ quyền xét xử tối cao, đồng thời đứng
đầu quân đội, ngoại giao và chính sách thuế. “Triều đình Thăng Long dưới thời
gian này trước hết là tổ chức chính quyền của dòng họ Trần. Vua Trần tự mình
đề cao vị trí của bản thân, đồng nhất ngôi vua với đất nước. Năm 1250, Thái
Tông xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quốc gia, nâng cao hơn tính chuyên
chế và tập trung của triều đình” [11, tr.176]. Để đảm bảo vững chắc vị trí và
khả năng chính quyền trong tay vua, tránh những hành vi tranh ngôi trong hoàng
tộc và để cho vua trẻ điều khiển chính quyền vững vàng, nhà Trần áp dụng chế
độ Thái thượng hoàng. Vua cha chỉ ở ngôi một thời gian rồi truyền cho con, còn
bản thân lui về Tức Mặc (thành phố Nam Định) giữa tư cách cố vấn. Nhà Trần
10


rất coi trọng quyền lợi của dòng họ mình, thời gian đầu họ trần nắm giữa hầu hết
các chức vụ quan trọng trong triều, sự liên kết dòng họ nắm chính quyền là điều
mà các vua Trần cố gắng thực hiện. Nhà Trần áp dụng lối kết hôn đồng tộc với ý
đồ là muốn khép kín, không muốn tạo dựng một tập đoàn quý tộc khác ngoài
dòng họ mình. Để quản lí họ hàng nhà Trần cho đặt phủ Tông nhân. Tuy nhiên
do số người và năng lực có hạn, nhà Trần vẫn phải tuyển chọn quan lại từ những
người thuộc tầng lớp thân hào sĩ phu, tuy nhiên việc tuyển chọn quan lại vẫn
phải giữ nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của dòng họ Trần. Nhà nước này là khối

liên kết của dòng họ Trần với bộ phận quan liêu ở các cấp chính quyền khác
nhau và ngày càng mở rộng. Những năm đầu nhà Trần duy trì bộ máy chính
quyền của thời Lý, năm 1230 nhà Trần quy định lại bộ máy nhà nước có kỷ
cương hơn, phù hợp hơn với hoàn cảnh đất nước.
Chính quyền từ trung ương đến địa phương về cơ bản vẫn kế thừa thời Lý.
Giúp việc cho vua là các quan đại thần và các cơ quan viện, sảnh đài. Thời Trần
phát triển hơn ở chỗ đã hình thành nên lục bộ là bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình,
Công để quản lí các công việc của triều đình. Nhà nước này là khối liên kết của
dòng họ Trần với bộ phận quan liêu ở các cấp chính quyền khác nhau và ngày
càng mở rộng. Những năm đầu nhà Trần duy trì bộ máy chính quyền của thời
Lý, năm 1230 nhà Trần quy định lại bộ máy nhà nước có kỷ cương hơn, phù hợp
hơn với hoàn cảnh đất nước. Chính quyền địa phương, nhà Trần tổ chức chính
quyền theo ba cấp phủ lộ, huyện châu, hương xã. Nhà Trần đổi 24 lộ thời Lý
thành 12 lộ gồm có: “ Thiên Trường (Hà Nam), Long Hưng (Thái Bình), Quốc
Oai (Hà Tây), Bắc Giang (Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Đông (Quảng Ninh và
một phần Hải Dương), Trường Yên (Ninh Bình), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng
(phần Hải Dương), Khoái (phần Hưng Yên), Thanh Hóa (Thanh Hóa), Hoàng
Giang (phần đất Hà Nam), Diễm Châu (Bắc Nghệ An)” [11, tr.178].
Nhà Trần đã tiếp gót nhà Lý xây dựng một thể chế chính trị phù hợp với
vương triều mình là chế độ quân chủ thân dân, vua quan có mối quan hệ gần gũi
11


và mật thiết với nhau. Với chế độ chính trị như vậy đã quy định phương thức
tuyển chọn quan lại của triều đại này, không phải là thi cử tuyển chọn chặt chẽ,
gắt gao như các triều đại về sau này mà ngược lại hệ thống quan lại nắm giữ vị
trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước đều là tầng lớp quý tộc, tôn thất, sau này có
thêm những người tài năng bên ngoài dòng họ.
Đầu thế kỷ XIII, đế chế mông cổ hình thành. Bản đồ chính trị vùng Đông
Bắc Á thay đổi. Quý tộc phong kiến Mông Cổ đã lôi kéo phần lớn thế giới vào

cuộc chiến tranh khủng khiếp. Gươm giáo, máu lửa, tính dã man và óc bành
trướng của quý tộc Mông Cổ đã tạo nên một đế chế rộng lớn từ bờ Thái Bình
Dương đến bên kia Hắc Hải. Trước áp lực của quân đội Mông Cổ đã buộc nhà
Trần phải ra sức củng cố và mở rộng quân đội, trong đó tuyển chọn và đưa
những võ quan có tài vào dùng trong quân đội là nhiệm vụ thiết yếu. Quân đội
nhà Trần gồm có cấm quân và quân ở các lộ. Cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh
thành, triều đình, nhà vua, là nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm. Ở các
làng xã có hương binh. Khi có chiến tranh, còn có quân đội của các vương hầu.
Quân đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách "ngụ binh ư nông" và theo
chủ trương : "Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông”, xây dựng tinh thần đoàn
kết trong quân đội. Binh lính nhà Trần được học tập binh pháp và luyện tập võ
nghệ thường xuyên. Nhà Trần còn cử nhiều tướng giỏi cầm quân đóng giữ các vị
trí hiểm yếu, nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần thường đi tuần tra việc
phòng bị ở các nơi này.
Luật pháp thời Trần được xem là một trong những luật cổ thành văn đầu
tiên ở nước ta (trước đó có luật Hình Thư thời nhà Lý). “Năm 1230 Trần Thái
Tông ban hành bộ Quốc triều thông chế (20 quyển) quy định về tổ chức chính
quyền. Sau đó vài lần sửa chữa và bổ sung, nhà Trần lại ban hành bộ Quốc
triều hình luật” [11, tr.178]. Luật pháp thời Trần mang giá trị răn đe to lớn, nó
góp phần quan trọng trong việc ổn định xã hội, giữ vững và bảo vệ sức sản xuất
cũng như những quy định về kỷ cương phép nước.Cơ quan phát luật của nhà
12


Trần cũng được tăng cường và hoàn thiện hơn, việc tuyển chọn quan chức phụ
trách hình án lấy tiêu chuẩn thanh liêm, thẳng thắn.
Thời Trần, bằng cuộc hôn nhân giữa vua Chăm là chế Mân với công chúa
Huyền Chân, vua Chế Mân đã cắt hai châu là châu Ô và châu Lý làm sính lễ
cưới, biên giới nước ta được mở rộng đến đèo Hải Vân hiện nay, sự mở rộng
biên giới lãnh thổ đã cũng buộc các vua Trần tiến hành việc di dân, mở rộng

tuyển chọn quan lại đến trấn trị các vùng đất mới.
Như vậy, với nền chính trị thân dân tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước
tương đối phù hợp và nền chính trị tương đối ổn định đã tạo điều kiện cho đất
nước phát triển, ổn định đời sống nhân dân. Cũng nhờ đó đã tạo điều kiện cho
việc thi tuyển và lựa chọn quan lại được tiến hành một cách thường xuyên và
nghiêm ngặt. Việc tuyển chọn quan lại thời Trần luôn nhất quán một vẫn đề đó
là quyền lực nằm trong tay họ Trần. Tuy nhiên do yêu cầu phát triển của đất
nước và củng cố chính quyền, nhà Trần đã phải mở rộng mở rộng và tuyển chọn
những người ngoài họ, bộ phận quan lại thông quan khoa cử ngày càng đông và
đảm nghiệm nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
1.1.2.2. Xã hội
Đại Việt dưới thời Trần là một xã hội tương đối ổn định với sự phân tầng
đẳng cấp trên quy mô quốc gia với hai đẳng cấp chính là vua quan và thứ dân,
ngoài ra dưới thứ dân là tầng lớp nô tỳ. Tuy nhiên sự phân hóa xã hội còn chưa
sâu sắc như các triều đại về sau và giữa các đẳng cấp trong xã hội vẫn còn mối
quan hệ gần gũi. Các cộng đồng làng xã còn khá thuần nhất, lúc này sự phân hóa
các hạng dân chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng nam, đại hoàng nam, lão, long
lão). Tục trọng lão trọng xỉ (thiên tước) còn rất đậm trong làng xã. Nhà vua là
người đứng đầu, đại diện cho quốc gia dân tộc, trên danh nghĩa có uy quyền tối
thượng và toàn năng. Cũng giống như thời nhà Lý, các vua nhà Trần coi mình là
cha mẹ của nhân dân, thi hành chính sách thân dân kiểu gia trưởng với tư tưởng

13


từ bi, bác ái của đạo phật. Các vua Trần thường xuyên quan tâm, chăm lo tới đời
sống nhân dân, quan tâm chú trọng phát triển đất nước.
Đẳng cấp thứ dân bao gồm nhiều bộ phận nông dân tự do trong các làng xã,
họ cày ruộng công và có một ít ruộng tư, có nghĩa vụ nộp tô thuế, lao dịch và
binh dịch cho nhà nước. Ngoài ra còn có nô tỳ, tuy không là một đẳng cấp riêng

biệt nhưng lại là một tầng lớp xã hội khá đông đảo. Các tầng lớp trong xã hội
được kết nối bới tinh thần hòa đồng, tinh thần nhân ái, từ bi của đạo phật, bởi
tinh thần thân dân của thể chế chính trị nhà Trần.
Như vậy dựa trên tình hình chính trị - xã hội thời Trần có thể thấy việc
tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới thời Trần chịu ảnh hưởng sâu sắc của các vị
vua, vua là người trực tiếp quyết định tới việc dùng người trong bộ máy nhà
nước chính vì vậy đất nước có “vua sáng” thì mới có “tôi hiền” nếu vua kém anh
minh thì việc dùng người sẽ bị ảnh hưởng. Việc tuyển chọn và sử dụng quan lại
thời Trần cũng luôn dựa trên sự ưu tiên của nhà nước đối với quý tộc trong họ,
đảm bảo lợi ích của quý tộc Trần. Tình hình chính trị - xã hội thống nhất cũng
chính là điều kiện để các vua Trần củng cố khối quan lại thống nhất từ trung
ương đến địa phương, tăng cường khả năng lãnh đạo, quản lí đất nước.
1.1.3. Văn hóa - Tư tưởng, Giáo dục
1.1.3.1. Văn hóa - tư tưởng
Thời Lý đã để lại những thành tựu rực rỡ về văn hóa như: Việc xây dựng
Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt, văn
học chữ Hán bước đầu phát triển với các tác phẩm nổi tiếng như Chiếu dời đô
của Lý Công Uẩn, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt,… bắt đầu từ thời Lý,
truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển trong các giai
đoạn sau, Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc
chuông...Hoạt động ca hát, nhảy múa, trò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc...
đều phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu
biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng…
14


Thời Trần đã kế thừa và phát triển cao hơn nữa những thành tựu văn hóa
mà thời Lý để lại. Dưới thời Trần đã trải qua ba lần chính quyền chung sức với
nhân dân chống giặc ngoại xâm, đó chính là cảm hứng sáng tác văn thơ cho các
nhà văn, nhà thơ đồng thời cũng là nguồn cảm hứng cho văn học dân gian phát

triển. Tất cả các tác phẩm đều ngợi ca lòng yêu nước, ý trí bất khuất chống giặc
ngoại xâm, tinh thần đoàn kết, quật cường của dân tộc. Khoa học lịch sử cũng đã
cùng với những biến động của lịch sử và những thành tựu oai hùng mà thời Trần
đã đạt được trong công cuộc chống giặc ngoại xâm mà phát triển.
Nhà Trần đã rất quan tâm phát triển nền văn hóa đất nước, đội ngũ những
nhà văn, nhà nho giỏi có cơ hội để thể hiện mình. Ngược lại thông qua quá trình
thể hiện mình những người có tài tất yếu sẽ được cất nhắc và trọng dụng.
Vào thời Trần là sự tồn tại song song của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Sau khi thay thế nhà Lý, triều Trần tiếp tục truyền thống sùng tín đạo Phật và
đồng thời phát huy Nho giáo như là một hệ triết lý chính trị cần thiết để cai trị
đất nước. Phật giáo vẫn là loại tôn giáo có thế lực nhất trong tất cả các tôn giáo
tồn tại dưới thời ấy và có ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp và trong mọi
lĩnh vực. Vua Trần Thái Tông là một nhà nghiên cứu uyên thâm về Phật học, khi
lên làm Thái thượng hoàng ông đã chú tâm nghiên cứu thuyết nhà Phật và là tác
giả của tác phẩm cảo luận Thiền học Khóa hư lục. Trần Nhân Tông - vị vua thứ
3 nhà Trần đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với lý thuyết đề cao thái
độ hướng tâm, đi tìm sự giác ngộ bằng cái tâm tĩnh lặng của mình, là Phật tại
tâm chứ không cần gò bó trong giáo điều nào, nhà vua đã để lại một ảnh hưởng
rất lớn trong phát triển đạo Phật thời Trần. Dưới sự phát triển của Phật giáo, các
nhà chùa cũng theo đó mọc lên vô kể, các hội hè Phật giáo được tổ chức không
ngừng, các nhà chùa có cả ngàn đệ tử, sở hữu hàng ngàn mẫu ruộng, ảnh hưởng
của Phật giáo lan mạnh trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, Phật giáo đã là
một yếu tố liên kết nhân tâm quan trọng. Tinh thần Phật giáo đã khiến cho các
nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ.
15


Đạo Phật dưới thời Trần rất hưng thịnh, vì vậy tăng ban dưới thời Trần giữ một
vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền.
Nho giáo khác hẳn với Phật giáo, nếu như Phật giáo có lý thuyết thiên về

nội tâm, về sự giác ngộ, về giải thoát con người ra khỏi bể khổ cuộc đời thì Nho
giáo đòi hỏi con người phải nhập thế. Lý thuyết Nho giáo dùng làm khuôn mẫu
cho việc trị nước, cho việc tổ chức gia đình và cho việc tu thân đã gặp môi
trường thuận lợi trong xã hội Việt Nam dưới thời Trần, một xã hội đang phát
triển đòi hỏi một thái độ nhập thế thiết thực. Dưới thời Trần tầng lớp nhà Nho
được đào tạo qua các trường, các kỳ thi ngày càng đông sỹ tử, hàng ngũ nhà
Nho ngày càng có uy tín quan trọng và vai trò quan trọng trong đời sống chính
trị đất nước.
1.1.3.2. Giáo dục
Nhà Trần đã chính quy hóa, tạo nề nếp và quy củ cho việc học hành thi cử.
Trường Quốc tử giám ngày càng được củng cố và mở rộng đối tượng học tập.
Tại các phủ lộ, châu chức học quan được đặt ra. Không chỉ những trường học
của nhà nước các nhà nho còn lập các trường học ở thôn, xóm đây chính là yếu
tố tích cực đưa nhân dân đến gần hơn với việc học hành. Giáo dục thời Trần đã
được mở rộng và tổ chức quy củ hơn so với thời Lý. Thể lệ thi cử cũng được
quy định rõ ràng. Với mong muốn tăng nhanh trình độ học vấn của các quan
chức, ngay từ năm 1232, nhà Trần đã mở khoa thi đầu tiên cho triều đại mình.
Sự phát triển của nền giáo dục khoa cử chính là nền tảng cơ bản và quan trọng
trong việc tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới thời Trần.
Sự phát triển của văn hóa - tư tưởng, giáo dục đã góp phần làm nên sự tồn
tại lâu dài của nhà Trần, đồng thời nó đã tạo nên đặc điểm riêng mang đậm bản
sắc dân tộc ta trong lịch sử. Cũng như đưa giáo dục của Đại Việt ta đi lên một
tầm cao mới là thông qua phép thi cử để tuyển chọn nhân tài phục vụ đất nước.
Như vậy có thể thấy, dưới thời đại nhà Trần đã xây dựng được một chính
quyền độc lập với một thể chế chính trị rõ ràng, chính trị - xã hội ổn định, bộ
16


máy nhà nước chặt chẽ và quy củ, kinh tế - văn hóa phát triển, đời sống nhân
dân yên ổn và ấm no. Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp

để đưa Đại Việt tuần tự phát triển đi lên thoát khỏi âm mưu nhòm ngó xâm lược
của phương Bắc cũng như để ra uy với phương Nam. Các yếu tố đó cũng chính
là cơ sở, tiền đề để nhà Trần tiến hành tuyển chọn và bổ sung đội ngũ nhân tài
phục vụ cho đất nước.
1.2. VIỆC TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI TRƯỚC THỜI
TRẦN
1.2.1.Thời nhà nước Văn Lang - Âu Lạc
Nhà nước phôi thai Văn Lang, tiếp đến là Âu Lạc gắn liền với tên tuổi của
Hùng Vương, Thục Vương không có đủ tài liệu để khôi phục và tìm hiểu rõ nét.
Một vài chức quan làm việc cho Hùng Vương như Lạc Hầu, Lạc Tướng cùng
các quan coi việc là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Chu Đạo, tất cả
chỉ là những nét chung chung về một nhà nước sơ khai được lưu lại trong truyền
thuyết để rồi được cố định lại bằng văn bản trong sử sách. Sử gia Phan Huy Chú
khi khảo về “quan chức” đã từng nhận định “Nước ta mở đầu từ thời Hùng
Vương dựng kinh đô, đặt quan trường, bấy giờ Lạc Hầu, Lạc Tướng không rõ
chức ty’’.
Có thể thấy chế độ chính trị thời kỳ này là sản phẩm của thời kỳ bắt đầu
dựng nước, mở màng cho buổi bình minh của lịch sử dân tộc,bộ máy nhà nước
thời Văn Lang - Âu Lạc là bộ máy đơn giản, sơ khai, tính chuyên chế chưa cao,
tính dân chủ còn sâu rộng. Tuy còn sơ khai nhưng bộ máy nhà nước ấy đã góp
phần làm nền mong cho sự phát triển của đất nước ta, tác động đến tổ chức
chính quyền ở các triều đại về sau mà đặc biệt là tư tưởng thân dân thời Lý Trần.
1.2.2. Thời Kỳ Bắc thuộc
Thời Bắc thuộc là thời kỳ đất nước bị chia cắt, đô hộ bởi các thế lực phong
kiến phương Bắc. Thời kỳ này kéo dài hơn 1000 năm, từ thế kỷ thứ III trước
17


công nguyên đến thế kỷ thứ X. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua
Trung Quốc từ Hán đến Đường, thông qua chính quyền đô hộ nước ta khi ấy, đã

kế tiếp nhau thi hành chính sách cai trị tàn bạo, chính sách đồng hoá, Hán hoá
đối với người Việt và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn thôn
tính nước ta vào đế quốc phong kiến phương Bắc. Chúng cho di thực mô hình tổ
chức chính trị và sinh hoạt xã hội Trung Hoa sang đất Việt. chúng xóa bỏ chính
quyền trung ương của vua Thục và chia nhỏ miền đất nước ta thành các đơn vị
hành chính địa phương theo hệ thống hành chính địa phương ở Trung Quốc là
châu, quận, huyện, hương, xã và đến thời Đường bao trùm lên các châu ở các
miền đất nước ta chúng đặt thành một phủ (An Nam đô hộ phủ). Từ một quốc
gia độc lập, nước ta trở thành một địa phương của Trung Quốc. Chúng thiết lập
bộ máy quan lại, xây dựng hệ thống quân đội và áp đặt hệ thống pháp luật để
thống trị nhân dân ta, tiến hành cống phẩm, bắt lao dịch và bóc lột về kinh tế.
Quan lại giữ vị trí chủ chốt đều được cử từ Trung Quốc sang, ngoài ra chúng
còn đặt bộ máy tay sai người bản xứ nhằm với tay đến các làng xã của người
Việt.
Từ thế kỷ thứ X, với sự xuất hiện của họ Khúc, tuy giành được quyền độc
lập tự chủ nhưng vẫn duy trì danh nghĩa Tiết độ sứ - một chức quan do nhà
Đường đặt ra cho những người đứng đầu các châu. Chẳng những họ Khúc mà cả
họ Dương - Dương Đình Nghệ , sau khi đánh thắng quân Nam Hán vào năm 931
giành lại quyền quản lí vẫn duy trì danh Tiết độ sứ. Phải đến khi Ngô Quyền sau
khi chiến thắng quân Nam Hán vào năm 938, đóng đô ở Cổ Loa và xưng Vương
thì một nhà nước độc lập tự chủ mới được khôi phục, mở đầu cho kỷ nguyên
mới của lịch sử dân tộc.
Có thể thấy trong thời kỳ Bắc thuộc, đất nước ta chịu sự chi phối hoàn toàn
của chính quyền phương Bắc. Hệ thống quan lại cũng được triều đình phong
kiến phương Bắc cắt cử, chỉ định và phần lớn là những chức vụ quan trọng đều
do người Trung Quốc nắm giữ. Cũng trong thời gian này chúng ta đã học được
18


cách tổ chức chính quyền của phong kiến phương Bắc, trong đó có cách cách

tuyển chọn và sử dụng quan lại để đến khi giành được độc lập các triều đại của
nước ta đã có một bước tiến mới trong việc tổ chức chính quyền độc lập của
riêng mình.
1.2.3. Thời phong kiến tự chủ
1.2.3.1. Triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê
Năm 938, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền kéo đại quân trở về
Cổ Loa. Ông quyết định đóng quân ở Cổ Loa để tỏ ý tiếp tục sự nghiệp dựng
nước và giữa nước đời Hùng Vương, Thục Vương; cũng từ đây một nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền được thành lập và từng bước được củng cố, hoàn
thiện. Song song với việc xây dựng bộ máy quản lý đất nước thì việc tuyển chọn
và sử dụng quan lại tất yếu được đặt ra và đã từng bước từ chập chững ban đầu
trở thành quy củ và phát triển ở các triều đại sau. Ngô Quyền kiên quyết từ bỏ
chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự mình xưng vương cũng như
đặt ra các chức quan văn võ, quy định lễ nghi trong triều đình và màu sắc đồ
mặc của quan lại các cấp. Mặc dù tổ chức chính quyền nhà nước lúc bấy giờ còn
đơn giản, sơ sài nhưng nó thể hiện đây là một chính quyền quốc gia độc lập,
đúng như nhận xét của nhà sử học Ngô Sỹ Liên ở thế kỷ thứ XV: “Tiền Ngô
vương nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc trăm quan, chế định
triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương” [5, tr.120].
Ngay từ thời Ngô triều đình đã chia làm hai bên quan văn và quan võ, tuy nhiên
việc tuyển chọn và sử dụng quan lại thời kỳ này thì không được ghi chép cụ thể.
Chủ yếu là do bổ nhiệm những người có công đánh giặc làm quan và theo hình
thức tiến cử người tài.
Năm 944 Ngô Quyền mất. Lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung
ương, các thế lực địa phương nổi dậy cát cứ gây ra loạn mười hai sứ quân, đi
ngược lại nguyện vọng thống nhất đất nước của nhân dân. Trước tình hình đó,

19



năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại các sứ quân , thống nhất đất nước, lập ra
nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh xưng là Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, dựng đô mới
ở Hoa Lư. Về tổ chức nhà nước, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu định giai phẩm cho
các quan văn võ và tăng đạo. Trong triều đình, có một số quan văn võ như: sĩ sư,
tướng quân, nha hiệu, phó mã đô úy… Và các chức tăng quan đại sứ, tăng lục
đạo sĩ, sùng chân uy nghi.
Theo “Lịch triều hiến chương loại chí” và một số tài liệu lịch sử khác, triều
đình có Lưu Cơ làm đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm thập đạo tướng quân, Giang
Cự Vọng làm nha hiệu, Nguyễn Bặc làm đinh quốc công, Ngô Chân Lưu làm
không việt đại sư, Trương Ma Ny làm tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm
sùng chân uy nghi… Các hoàng tử được phong vương: con cả Đinh Liễn được
phong làm Nam Việt vương, con thứ Đinh Toàn làm Vệ vương… Thời Đinh,
nhà nước lấy đạo Phật làm quốc giáo nên ngạch tăng quan có vai trò lớn trong
việc tham dự triều chính. Đại sư Ngô Chân Lưu - người đứng đầu tăng quan có
quyền hành như tể tướng, là một cố vấn cho nhà vua.
Năm 979 Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám sát. Đinh Toàn mới 6 tuổi
lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính. Nhà Tống lâm le chớp lấy cơ hội đương
lúc nước ta gặp khó khăn kéo quân sang xâm lược, nguy cơ cát cứ và nạn ngoại
xâm đồng thời uy hiếp đất nước. Trước tình hình cấp bách đó, được sự ủng hộ
của bá quan văn võ, Thái hậu Dương Vân Nga đã cử Lê Hoàn làm tổng chỉ huy
quân đội và khoác áo long bào mời ông lên làm vua. Sau khi đánh đuổi quân
xâm lược nhà Tống, Lê Hoàn vẫn đóng đô ở Hoa Lư và giữ nguyên tổ chức bộ
máy nhà nước thời Đinh.Về sau, ở trung ương, Lê Hoàn mô phỏng theo quan
chế của triều Tống. Trong triều đình có các chức Thái sư, Thái úy, Tổng quản,
Đô chỉ huy sứ… “Việc tuyển chọn quan lại đương thời vẫn chưa có chế độ cụ
thể, buổi bấy giờ người nắm quyền trong triều đình chủ yếu là những võ tướng
đã từng tham gia cuộc đánh dẹp các sứ quân hoặc là các hoàng tử. Về sau một
20



×