Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tại huyện nam đàn, tỉnh nghệ an đến năm 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.23 KB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
--------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP
THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA TẠI HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH
NGHỆ AN ĐẾN NĂM 2025”

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên

Th.S Bùi Thị Thanh Huyền

:

MSV :
Lớp

:

Hà Nội 5/2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong chuyên đề này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ chuyên đề nào.
Mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện chuyên đề này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Tác giả



Bùi Thị Mai Anh

2


LỜI CẢM ƠN
Cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới tất cả các đơn vị, cá nhân đã tạo
điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bài
chuyên đề này. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới Th.S Bùi Thị Thanh
Huyền – giảng viên trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành bài chuyên đề này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Ban Giám hiệu Nhà
trường, Khoa Kế hoạch – phát triển, Phòng Đào tạo, cô giáo chủ nhiệm lớp cùng toàn thể
các thầy giáo, cô giáo của Trường Đại học Kinh tế quốc dân và các thầy, cô giáo khác
cùng tham gia giảng dạy đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam
Đàn, Phòng thống kê Nam Đàn, UBND huyện Nam Đàn, UBND các xã trên địa bàn
huyện Nam Đàn và toàn thể các hộ gia đình, cá nhân đã giúp đỡ tôi trong điều tra, thu
thập số liệu để hoàn thành chuyên đề này.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chuyên đề này cũng không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong được các thầy giáo, cô giáo tiếp tục chỉ bảo, giúp đỡ để luận văn được
hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Tác giả

Bùi Thị Mai Anh

3



MỤC LỤC

4


HỆ THỐNG TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
KH - CN
XHCN
CNH - HĐH
NPK
NTM
BVTV
GDP
GTSX
NTTS
TW
UBND
HTX
KH - KT

Giải thích nghĩa
Khoa học – Công nghệ
Xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Loại phân bón Đạm – Lân - Kali
Nông thôn mới
Thuốc bảo vệ thực vật

Tổng sản phẩm quốc nội
Giá trị sản xuất
Nuôi trồng thủy sản
Trung ương
Ủy ban nhân dân
Hợp tác xã
Khoa học – Kỹ thuật

DANH MỤC BẢNG BIỂU

5


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, thu nhập
từ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Nông nghiệp vẫn được coi là ngành kinh tế quan
trọng đối với nước ta hiện nay, là nơi cung cấp lương thực thực phẩm cho dân cư cả
nước, là nơi cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế Quốc dân, là thị trường tiêu
thụ quan trọng của công nghiệp và nhiểu ngành kinh tế khác. Do vậy, công cuộc Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước với mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh” được bắt đầu bằng việc phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn.
Từ Đại hội lần thứ V Đảng cộng sản Việt Nam (1982) nông nghiệp đã được coi là “ Mặt
trận hàng đầu”. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 do Đại hội Đảng XI
thông qua tiếp tục khẳng định quan điểm này. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế
- xã hội 2011 – 2015 của Đại hội Đảng XI nêu rõ: “ Phát triển nông nghiệp toàn diện
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới.
Trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng công nghệ hiện đại, bố trí lại
cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông
nghiệp, vùng chuyên môn hóa, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn.

Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến và thị trường,
mở rộng xuất khẩu. Giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch, bảo đãm vững chắc
an ninh lương thực Quốc gia và tăng giá trị sản xuất gạo. Mở rộng diện tích, áp dụng
công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công
nghiệp có lợi thế. Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán
công nghiệp với công nghệ tiên tiến”.
Nam Đàn là một trong 17 huyện, nằm về phía nam đông nam tỉnh Nghệ An, Việt
Nam; nằm ở hạ lưu sông Lam, diện tích đất nông nghiệp chiếm 48%, còn nữa là đất lâm
nghiệp và đồi núi, ao hồ. Nông nghiệp vừa là bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế của
huyện, vừa có điều kiện phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Vì vậy nông nghiệp là
ngành được đặc biệt chú trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của huyện Nam Đàn.
Trong những năm qua huyện Nam Đàn đã có những biện pháp để thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành ở địa phương. Nhờ vậy cơ cấu ngành nông nghiệp bước đầu đã
có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát
6


triển. Tuy nhiên là một huyện nông nghiệp truyền thống, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt,
lại phải chịu nhiều hậu quả do chiến tranh để lại. Ngành nông nghiệp ở Nam Đàn vẫn
nặng nề tự cung tự cấp, sản xuât hàng hóa chưa phát triển, ngành chăn nuôi chưa phát
huy hết lợi thế, dịch vụ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Cơ cấu ngành nông nghiệp
của huyện hiện nay chưa phù hợp với quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, chưa phát
huy hết tiềm năng về sản xuất hàng hóa, vì vậy chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn
và nâng cao hiệu quả ngành nông nghiệp. Đây là vấn đề thực tế khách quan và là yêu cầu
mang tính cấp thiết do đó tôi quyết định chọn đề tài “ Giải pháp chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An đến năm 2025” làm chuyên đề thực tập của mình.
II. Mục tiêu nghiên cứu

• Mục tiêu chung: Xác định những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tại huyện Nam Đàn đến năm 2025 để phù hợp với
nền kinh tế thị trường trong thời kỳ CNH, HĐH và xu thế hội nhập Quốc tế dựa trên
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân rút ra được thông qua các nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực trạng cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của
huyện giai đoạn 2011 – 2015.
• Mục tiêu cụ thể:
• Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa.
• Đánh giá thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tại huyện Nam Đàn trong những năm
qua, chỉ ra kết quả, tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng.
• Đề xuất giải pháp chủ yếu mang tính khả thi nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp trên địa bàn huyện
Nam Đàn.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn thuộc về chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
nhất là cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa giai đoạn 2011 – 2015.
• Phạm vi nghiên cứu
7


• Về không gian: Nghiên cứu, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tại huyện Nam Đàn.
• Về thời gian:
- Các số liệu, tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng địa bàn nghiên cứu được thu
thập trong khoảng thời gian 2011 – 2015.
- Phần định hướng tham khảo các tài liệu về mục tiêu, phương hướng phát triển
đến năm 2025.

• Về nội dung
Đề tài tập trung đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa của huyện Nam Đàn trong những năm qua dựa trên định hướng
và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp, tìm ra những căn cứ, đề xuất giải
pháp chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn tiếp theo.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: thông tin thứ cấp
Phần tổng quan tham khảo các tài liệu đã phát hành từ năm 2000 đến nay
Phần thực trạng thu thập từ các số liệu, tài liệu có sẵn tại Phòng nông nghiệp,
phòng thống kê UBND huyện Nam Đàn.
Phương pháp thống kê kinh tế
Dùng để phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố: lao động, đất đai, khí hậu, thời
tiết, thị trường, công nghệ, chính sách… tới quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Nam Đàn.
Phương pháp dự đoán, dự báo
Việc dự đoán, dự báo sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa huyện Nam Đàn đến năm 2025 chủ yếu dựa vào phương pháp dự báo
thành phần thông qua tốc độ tăng trưởng và sau đó tính lại cơ cấu.
V. Bố cục chuyên đề
Chương 1: Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hương sản
xuất hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa tại huyện Nam Đàn.
Chương 3: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa tại huyện Nam Đàn đến năm 2025.
8


9



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SẢN
XUẤT HÀNG HÓA.
1.1. Nông nghiệp và cơ cấu ngành nông nghiệp
1.1.1. Nông nghiệp và đặc điểm sản xuất nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi;
nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm ngành lâm nghiệp, nông nghiệp và ngư nghiệp.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng, chủ yếu trong suốt một thời gian dài của
lịch sử xã hội loài người, là khu vực duy nhất sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi
sống con người và cho đến nay sản phẩm của nông nghiệp vẫn chưa có một ngành sản
xuất nào có thể thay thế được.
Vào thế kỷ XXI, nông nghiệp vẫn tiếp tục giữ vững vị trí quan trọng và đóng góp
tích cực cho sự phát triển theo nhiều cách: Nông nghiệp đóng góp vào sự phát triển như
một hoạt động kinh tế, một sinh kế và một nơi cung cấp dịch vụ môi trường, điều này làm
nó trở thành một ngành sản xuất có một không hai cho phát triển. Vậy nông nghiệp có thể
được hiểu:
“Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu
lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp.
Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn
nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản”.
Nông nghiệp được phân ra hai loại chính, việc xác định sản xuất nông nghiệp
thuộc dạng nào cũng rất quan trọng:
-

-

Nông nhiệp thuần nông hay nông nhiệp sinh nhai là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có

đầu vào hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu phục vụ cho chính gia đình của mỗi người
nông dân. Không có sự cơ giới hóa trong nông nghiệp sinh nhai.
Nông nghiệp chuyên sâu: là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được chuyên môn hóa
trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, gồm cả việc sử dụng máy móc trong
trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản phẩm nông nghiệp. Nông
10


nghiệp chuyên sâu có nguồn đầu vào sản xuất lớn, bao gồm cả việc sử dụng hóa chất
diệt sâu, diệt cỏ, phân bón, chọn lọc, lại tạo giống, nghiên cứu các giống mới và mức
độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm đầu ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại, làm
hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu. Các hoạt động trên trong sản xuất
nông nghiệp chuyên sâu là sự cố gắng tìm mọi cách để có nguồn thu nhập tài chính
cao nhất từ ngũ cốc, các sản phẩm được chế biến từ ngũ cốc hay vật nuôi...
• Các giai đoạn phát triển nông nghiệp
- Nông nghiệp truyền thống.
Nét chung của nền nông nghiệp truyền thống là nông dân vẫn canh tác theo
phương pháp đã có cách đây hàng thế kỷ. Một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp truyền
thống là sản xuất mang tính tự cung, tự cấp với một hoặc hai cây lương thực chủ yếu như
lúa gạo, ngô, khoai, sắn.. Sản lượng và năng suất cây trồng thấp, chỉ sử dung các công cụ
đơn giản trong sản xuất. Vốn đầu tư rất ít, trong khi đất đai và lao đông là các yếu tố
chính của sản xuất. Tuy vậy nông nghiệp truyền thống hoàn toàn không phải là không có
tiến triển. Sự tiến triển diễn ra chậm chạp, từ du canh du cư đến định canh ổn định đất
trồng trọt và ổn định công nghệ sản xuất thủ công.
-

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp – đa dạng hóa cây trồng.

Đa dạng hóa nông nghiệp là bước chuyển đầu tiên trong sự quá độ từ sản xuất tự
cung tự cấp sang chuyên môn hóa. Trong giai đoạn này cây lương thực cơ bản không còn

là sản phẩm chính của nông nghiệp, bởi vì nông dân bắt đầu trồng các loại cây mới để
bán như cây công nghiệp, cây ăn quả, rau cùng với việc phát triển chăn nuôi các loại gia
súc. Việc đa dạng hóa cây trồng kết hợp với các biện pháp công nghệ, chủ yếu là công
nghệ sinh học làm cho năng suất và sản lượng lương thực gia tăng. Người nông dân có
thể bán sản phẩm dư thừa để nâng cao mức tiêu dùng cho gia đình và tăng đầu tư cho sản
xuất. Mục đích của người nông dân sản xuất ra sản phẩm không chỉ để phục vụ cho nhu
cầu của chính gia đình họ mà còn đưa những sản phẩm dư thừa đem đi trao đổi trên thị
trường. Những sản phẩm trao đổi trên thị trường này được gọi là sản phẩm hàng hoá. Tuy
vậy, khối lượng hàng hoá nông sản trao đổi, mua bán giữa những người sản xuất còn ít,
thị trường phân tán và chưa có nhiều thông tin, hàng hoá trao đổi chủ yếu diễn ra ở các
chợ nhỏ ở nông thôn, việc sản xuất, trao đổi, mua bán nông sản phẩm chưa trở nên
thường xuyên.
-

Chuyên môn hóa sản xuất – nông nghiệp thương mại hiện đại.

11


Nông nghiệp chuyên môn hóa là giai đoạn cuối cùng và tiên tiến nhất của hộ nông
dân cá thể. Đó là loại hình nông nghiệp phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển. Giai
đoạn này sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển, khối lượng nông sản hàng hoá lớn và
chủng loại hàng hoá phong phú, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, đã hình thành và phát triển các vùng sản xuất
cây, con có quy mô lớn, chuyên canh và thâm canh cao, khai thác tối đa lợi thế sản xuất
của từng vùng, từng địa phương, thị trường được mở rộng cả trong và ngoài nước.
Ở các trang trại chuyên môn hóa việc cung cấp lương thực cho gia đình với một
số dư thừa để bán không còn là mục tiêu cơ bản. Giờ đây sản xuất là hoàn toàn cho thị
trường và mục tiêu là lợi nhuận thương mại. Đặc điểm của các trang trại chuyên môn hóa
là chú trọng vào trồng trọt một hoặc hai loại cây nào đó. Sử dụng kết hợp các biện pháp

tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa tăng năng suất cây trồng và tăng
năng suất lao động không có phương thức tối ưu. Mọi kỹ thuật công nghệ áp dụng trong
nông nghiệp phải được điều chỉnh phù hợp với điều kiện khí hậu, điều kiện đất đai (diện
tích, thổ nhưỡng) cũng như điều kiện dân số từng vùng.
1.1.1.2. Đặc điểm sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt.
Đặc điểm trên cho thấy ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông
nghiệp. Thế nhưng ở mỗi vùng mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết – khí hậu rất
khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng các loại đất ở
các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không
giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng v.v…
trên từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất. Do điều kiện
đất đai khí hậu không giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông nghiệp mang tính khu
vực rất rõ nét. Đặc điểm này đòi hỏi quá trình tổ chức chỉ đạo sản xuất nông nghiệp cần
phải chú ý các vấn đề kinh tế – kỹ thuật sau đây:
+) Tiến hành điều tra các nguồn tài nguyên về nông – lâm – thuỷ sản trên phạm vi
cả nước cũng như tính vùng để qui hoạch bố trí sản xuất các cây trồng, vật nuôi cho phù
hợp.
+) Việc xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật phải
phù hợp với đặc điểm và yêu cầu sản xuất nông nghiệp ở từng vùng.
12


+) Hệ thống các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện từng vùng, từng khu vực
nhất định.
Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
được. Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng nội dung
kinh tế của nó lại rất khác nhau.
Trong công nghiệp, giao thông v.v… đất đai là cơ sở làm nền móng, trên đó xây

dựng các nhà máy, công xưởng, hệ thống đường giao thông v.v… để con người điều
khiến các máy móc, các phương tiện vận tải hoạt động. Trong nông nghiệp, đất đai có nội
dung kinh tế khác, nó là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Ruộng đất bị
giới hạn về mặt diện tích, con người không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan, nhưng
sức sản xuất ruống đất là chưa có giới hạn, nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu
của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của loài người về nông sản phẩm. Chính
vì thế trong quá trình sử dụng phải biết quý trọng ruộng đất, sử dụng tiết kiệm, hạn chế
việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi
dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên
mỗi đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên đơn vị sản phẩm.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống – cây trồng và vật nuôi.
Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh
trưởng, phát triển và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay
đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng,
vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là
tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng
trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình
sản xuất sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường
xuyên chọn lọc, bồi dục các giống hiện có, nhập nội những giống tốt, tiến hành lai tạo để
tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp với điều kiện từng
vùng và từng địa phương.
Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Đó là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt quá
trình sản xuất nông nghiệp là quá trình tái sản xuất kinh tế xoắn xuýt với quá trình tái sản
xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không
hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Tính thời vụ trong
13


nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được, trong quá trình sản xuất chỉ tìm cách hạn

chế nó. Mặt khác do sự biến thiên về điều kiện thời tiết – khí hậu, mỗi loại cây trồng có
sự thích ứng nhất định với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Đối tượng của
sản xuất nông nghiệp là cây trồng – loại cây xanh có vai trò cực kỳ to lớn là sinh vật có
khả năng hấp thu và tàng trữ nguồn năng lượng mặt trời để biến từ chất vô cơ thành chất
hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cơ bản cho con người và vật nuôi. Như vậy, tính thời vụ có tác
động rất quan trọng đối với nông dân. Tạo hoá đã cung cấp nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu
cho nông nghiệp như: ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí. Lợi thế tự nhiên đã ưu ái
rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nông sản với chi
phí thấp chất lượng cao. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối
với nông nghiệp đòi hỏi phải thực hiện nghiêm khắc những khâu công việc ở thời vụ tốt
nhất như thời vụ gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới tiêu v.v… Việc thực hiện kịp thời vụ
cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao
động hợp lý, cung ứng vật tư – kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp,
đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo
thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
1.1.2. Cơ cấu ngành nông nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm
Nền kinh tế quốc dân là một tổ hợp đa ngành, đa lĩnh vực. Trên góc độ không gian
lãnh thổ của mỗi nước, người ta phân chia ra thành kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị.
Sự phân biệt giữa kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị dựa vào sự khác nhau về địa lý,
gắn liền về trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và những
đặc thù của các ngành. Khu vực nông thôn bao gồm một không gian rộng lớn, ở đó cộng
đồng dân cư sinh sống và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (theo nghĩa
rộng) với các hoạt động kinh tế - xã hội gắn liền với lĩnh vực đó. Kinh tế nông nghiệp là
một tổng thể các ngành kinh tế trong khu vực nông nghiệp. Ngành nông nghiệp gồm các
ngành liên quan mật thiết với nhau: Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Các ngành
kinh tế đó quan hệ chặt chẽ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về số lượng và liên quan
chặt chẽ về mặt chất lượng. Cơ cấu ngành nông nghiệp là một bộ phận của hệ thống kinh
tế quốc dân, phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc dân, nhưng nó cũng mang tính độc lập
tương đối. Vậy cơ cấu ngành nông nghiệp được hiểu:


14


“Cơ cấu ngành nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ theo tỷ lệ về số lượng và
chất lượng tương đối ổn định của các yếu tố trong ngành nông nghiệp liên quan đến sản
xuất nông nghiệp trong một khoảng thời gian và không gian nhất định”.
Cơ cấu ngành phản ánh quá trình phát triển, sự phù hợp, hợp lý trong phát triển
kinh tế của mỗi Quốc gia, mỗi ngành. Muốn có một cơ cấu ngành hợp lý, cần có những
biện pháp cụ thể nhằm chuyển dịch cơ cấu đúng hướng để có thể khai thác tối đa những
tiềm năng và lợi thế của từng vùng, ngành và từng địa phương.
1.1.2.2. Đặc điểm cơ cấu ngành nông nghiệp.
Cơ cấu ngành nông nghiệp mang tính khách quan.
Cơ cấu ngành nông nghiệp tồn tại và phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Mỗi một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội tương ứng với một cơ cấu ngành nông
nghiệp cụ thể. C.Mác nói “Trong sự phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là tất yếu
không ai tránh khỏi, một sự tất yếu thầm kín, yên lặng”. Cơ cấu ngành nông nghiệp và cơ
cấu kinh tế cụ thể trong hệ thống ngành nông nghiệp cũng như xu hướng chuyển dịch của
chúng ra sao là tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội, những điều kiện tự nhiên
nhất định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Tuy nhiên, các quy luật
kinh tế lại được biểu hiện và vận động thông qua hoạt động của con người. Vì vậy, con
người phải nhận thức đầy đủ các quy luật kinh tế cũng như các ngành tự nhiên để từ đó
góp phần vào việc hình thành, biến đổi và phát triển cơ cấu ngành nông nghiệp sao cho
cơ cấu đó ngày càng hợp lý và đem lại hiệu quả cao. Trong điều kiện hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới hiện nay, cơ cấu ngành còn bị chi phối bởi sự phát triển kinh tế chung
của vùng và của thế giới. Như vậy, việc hình thành và vận động của cơ cấu ngành nông
nghiệp đòi hỏi phải tôn trọng khách quan và không được áp đặt chủ quan, duy ý chí.
Cơ cấu ngành nông nghiệp không cố định mà luôn luôn vận động và biến đổi.
Sự vận động biến đổi của cơ cấu ngành nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện

kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên và tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới. Sự tác
động của các điều kiện đó làm cho các bộ phận ngành kinh tế trong hệ thống ngành nông
nghiệp biến đổi, tác động lẫn nhau, tạo ra một cơ cấu ngành nông nghiệp mới. Cơ cấu ấy
vận động và phát triển, đến lượt nó phải nhường chỗ cho một cơ cấu mới khác ra đời.
Tuy vậy, để đảm bảo cho quá trình hình thành, vận động và phát triển của cơ cấu ngành
nông nghiệp một cách khách quan, yêu cầu đặt ra là cơ cấu ngành nông nghiệp phải đảm
15


bảo tương đối ổn định. Nếu cơ cấu ngành nông nghiệp thường xuyên thay đổi, xáo trộn sẽ
làm cho các quá trình sản xuất kinh doanh không ổn định, quá trình đầu tư lúng túng, lưu
thông hàng hoá trở ngại, làm cho ngành nông nghiệp phát triển què quặt và phiến diện,
gây lãng phí, tổn thất cho nền kinh tế.
Cơ cấu ngành nông nghiệp mang tính hợp tác và cạnh tranh.
Trong việc lựa chọn một cơ cấu ngành nông nghiệp hợp lý, có hiệu quả cao phải
xem xét đầy đủ các yếu tố từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc hình thành cơ cấu ngành và
mối liên hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Sự gắn bó được biểu hiện trong quá
trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong việc bố trí sản xuất, hoạch định các
chính sách, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tổ chức quá trình sản
xuất kinh doanh chế biến và tiêu thụ sản phẩm …
Cơ cấu ngành nông nghiệp được hình thành và phát triển trên cơ sở của điều
kiện tự nhiên và mức độ khai thác cải tạo điều kiện tự nhiên (đất đai, thời tiết, khí
hậu).
Thật vậy, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên vì vậy cơ cấu
ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên. Một nền nông
nghiệp tốt, một cơ cấu ngành nông nghiệp hiệu quả là phải đạt năng suất cây trồng, vật
nuôi cao với chi phí ít trên một đơn vị. Muốn vậy phải tận dụng tối đa các yếu tố của điều
kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất.
Cơ cấu ngành nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời và
phát triển của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.

Ngành nông nghiệp trải qua một quá trình phát triển từ nền kinh tế sinh tồn sang
kinh tế tự cung tự cấp, sự biến đổi của ngành nông nghiệp rất chậm chạp và trì trệ. Từ khi
chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa (kinh tế thị trường) thì cơ cấu ngành nông
nghiệp mới được hình thành đa dạng và có hiệu quả hơn.
1.1.2.3. Phân loại cơ cấu ngành nông nghiệp
Cơ cấu ngành nông nghiệp là sản phẩm của phân công lao động xã hội. Phân công
lao động xã hội diễn ra liên tục và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất
xã hội. Phân công lao động xã hội gồm hai hình thức cơ bản: Phân công lao động xã hội
theo ngành và phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Hai hình thức cơ bản của phân
công lao động xã hội đó gắn bó với nhau. Sự phát triển của phân công lao động xã hội
theo ngành kéo theo sự phát triển của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, ngược lại
16


mỗi bước tiến của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ lại góp phần quan trọng cho
bước phát triển mới cho phân công lao động xã hội theo ngành. Sự phát triển đó là thước
đo trình độ phát triển chung của mỗi dân tộc. Phân công lao động xã hội và chế độ sở hữu
tạo ra cơ cấu các thành phần kinh tế. Cơ cấu ngành hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất, làm cho người sản xuất kinh doanh năng động hơn, cho phép khai
thác các tiềm năng và lợi thế có hiệu quả hơn.
Nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh
học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Trên cơ sở sự phát triển của phân công
lao động xã hội trong quá trình sản xuất và công nghiệp hoá, các ngành đó được hình
thành và ngày càng phát triển cho phép tách sản xuất của các nhóm sản phẩm và các sản
phẩm thành ngành kinh tế cụ thể tương đối độc lập với nhau nhưng lại gắn bó mật thiết
với nhau.
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm các ngành: trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ
phục vụ nông nghiệp. Trong trồng trọt lại phân ra:Trồng cây lương thực, cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây cảnh…Ngành chăn nuôi gồm có:chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi
thuỷ, hải sản…Những ngành trên được phân ra thành những ngành nhỏ hơn. Chúng có

mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển tạo thành cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
Phát triển ngành lâm nghiệp và giải quyết mối quan hệ hợp lý giữa nông nghiệp
với lâm nghiệp, giữa lâm nghiệp với công nghiệp nông thôn là yêu cầu khách quan của sự
phát triển kinh tế nông thôn. Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng cấu thành
kinh tế nông nghiệp - nông thôn ở nước ta. Ngành thuỷ sản bao gồm: nuôi trồng, khai
thác, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Đó là một ngành kinh tế có lợi thế để phát triển,
góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng kết
hợp nuôi trồng thuỷ đặc sản với nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến và bảo
vệ môi trường sinh thái.
1.2. Sản xuất hàng hóa
1.2.1. Khái niệm và các hình thức sản xuất hàng hóa
1.2.1.1. Khái niệm về hàng hóa và sản xuất hàng hóa
Hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con
người và dùng để trao đổi với nhau. Hàng hoá có hai thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng.
17


Như vậy một sản phẩm sản xuất ra được đem trao đổi thì được coi là hàng hoá, và
muốn trao đổi được thì hàng hoá đó phải có một giá trị nhất định (giá trị của hàng hoá),
sản phẩm đó phải đáp ứng nhu cầu của người sử dụng (giá trị sử dụng). Sản phẩm, hàng
hoá trao đổi trên thị trường chịu sự chi phối của hai quy luật: Quy luật cung cầu và Quy
luật cạnh tranh.
Sản xuất hàng hóa
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức
kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ
chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị
trường. Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xoá bỏ nền kinh tế tự

nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Sản xuất hàng hoá khác với kinh tế tự cấp tự túc, do sự phát triển của phân công
lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày
càng mở rộng, mối liện hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển
của sản xuất hàng hoá đã xoá bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình
xã hội hoá sản xuất. Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ cả hai điều kiện là có sự phân
công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:
+) Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, do đó là chuyên
môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Do phân công lao đông nên mỗi
người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của
mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi
phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.
+) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Sự tách biệt
này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu
nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản
phẩm lao động. Như vậy, chính sự quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm
cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống
phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong
điều kiện đó người này muốn tiêu dùng sản phảm của người khá phải thông qua sự mua bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Như vậy sản xuất hàng hóa có thể được hiểu:
18


“Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất
hàng hóa là cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán”.
1.2.1.2. Các hình thức sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hoá giản đơn.
Đây là hình thức sản xuất hàng hoá ở trình độ thấp. Điều này được thể hiện trước

hết ở mục đích của người sản xuất. Việc tạo ra sản phẩm được gọi là hàng hoá trong hình
thức sản xuất hàng hoá giản đơn chỉ là ngẫu nhiên, không phải mục đích của người sản
xuất, hoặc ít ra, đó không phải mục đích chính của họ. Phần sản phẩm dư thừa được trở
thành hàng hoá chỉ là ngẫu nhiên, thừa ra ngoài nhu cầu tiêu dùng cho bản thân người sản
xuất. Trình độ sản xuất hàng hoá thấp còn được thể hiện ở trình độ của lực lượng sản xuất
xã hội trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Nói chung, trong hình thức sản xuất hàng
hoá giản đơn, trình độ kỹ thuật của sản xuất còn lạc hậu, phân công lao động xã hội chưa
phát triển. Sản xuất hàng hoá giản đơn được tiến hành bởi nông dân sản xuất nhỏ, thợ thủ
công cá thể, dựa trên chế độ sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân
nông dân, thợ thủ công là chính. Hình thức sản xuất hàng hoá giản đơn ra đời vào cuối
thời kỳ công xã nguyên thuỷ - thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất này, và bắt đầu ra
đời phương thức sản xuất chiễm hữu nô lệ. Đến thời kỳ phương thức sản xuất phong
kiến, sản xuất hàng hoá giản đơn vẫn còn chiếm vị trí phổ biến.
Sản xuất hàng hoá lớn.
Điều khác biệt cơ bản giữa sản xuất hàng hoá giản đơn và sản xuất hàng hoá lớn
trước hết thể hiện ở mục đích của người sản xuất. Trong sản xuất hàng hoá lớn, ngay từ
trước khi tiến hành sản xuất, mục đích sản xuất ra sản phẩm để bán được đã khẳng định;
sản phẩm trở thành hàng hoá đã được xác định từ trước khi quá trình sản xuất diễn ra, nó
là quá trình tất nhiên, không phải là sự kiện ngẫu nhiên. Sự khác nhau giữa hai hình thức
sản xuất hàng hoá còn được thể hiện ở trình độ kỹ thuật, trình độ phân công lao động cao
trong sản xuất hàng hoá lớn.
1.2.2. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
a) Đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán

19


Trong lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau: sản xuất tự
cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu sản phẩm được sản

xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất
của người nông dân trong thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những nông dân gia
trưởng dưới chế độ phong kiến… Sản xuất hàng hóa là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã
hội.
Tính chất xã hội được thể hiện ở chỗ sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu
cầu của người khác trong xã hội. Nhưng tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì lao
động của người sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tình chất tư nhân, vì việc sản xuất
cái gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư
nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Và nếu không phù hợp
thì nó sẽ là cơ sở dẫn đến mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội, là mầm
mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
b) Ưu thế của sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp:
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa
sản xuất
Sản xuất hàng hóa khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của
từng người từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời sự phát
triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công
lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các
ngành, các vùng ngày càng mở rộng, sâu sắc. Từ đó nó phá vỡ tình tự cung, tự cấp, bảo
thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội
tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao
đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia thì nó còn khai thác được lợi thế giữa các quốc
gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu
và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa
phương mà nó được mở rộng dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó
lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào
sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.

20


Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và
trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh… buộc người sản xuất hàng
hóa phải luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải thiện hình thức và chủng loại
hàng hóa, làm cho chi phí sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng ngày càng cao hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu
kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ làm cho đời sống vật
chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa
dạng hơn.
1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
1.3.1. Khái niệm
1.3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
“Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là sự thay đổi cơ cấu các ngành trong
khu vực nông nghiệp. Đối với khu vực nông lâm ngư (nông nghiệp theo nghĩa rộng), sự
chuyển dịch theo xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng lâm nghiệp, ngư
nghiệp”.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là một quá trình làm thay đổi cấu trúc và
mối liên hệ của các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp theo mục đích và phương
pháp nhất định. Không có một cơ cấu ngành cụ thể nào là hoàn thiện và bất biến, quá
trình chuyển dịch này xảy ra bởi sự phát triển và vận động không ngừng của chính cơ cấu
kinh tế đó. Cơ cấu ngành kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu ngành nông nghiệp nói
riêng vận động và chuyên hóa từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới nhưng đòi hỏi
phải có thời gian và những bước phát triển nhất định. Đầu tiên là sự chuyển đổi về số
lượng khi lượng được tích lũy đến độ nhất định sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất. Đó là quá
trình chuyển dần từ cơ cấu ngành cũ sang cơ cấu ngành mới hoàn thiện và hiệu quả hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là một quá trình tất yếu. Nhưng quá trình

đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con người cần phải có tác động để thúc
đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và hiệu quả hơn. Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt
được quy luật vận động khách quan, con người tìm và đưa ra các biện pháp đúng đắn tác
động để làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra đúng mục tiêu và định
hướng vạch ra.
21


Mục tiêu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là tạo ra một hệ thống các
tiểu ngành, nghề mới trong ngành nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội của mỗi vùng. Kết quả của sự chuyển dịch là tạo được mối quan hệ hữu cơ tương
hỗ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp với các ngành khác sao cho phù hợp
và có hiệu quả. Nó góp phần tác động tích cực tới quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp.
1.3.1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Trong kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa, sự thay đổi về tỷ lệ quy mô, giá trị
giữa các chuyên ngành, tiểu ngành của ngành nông nghiệp theo hướng tăng lên hoặc
giảm xuống đều có mục đích đáp ứng cao nhất các yêu cầu của người tiêu dùng về hàng
hóa lương thực, thực phẩm tươi sống và chế biến. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa chính là quá trình thích ứng của sản xuất nông
nghiệp với thị trường tiêu thụ các sản phẩm do ngành nông nghiệp làm ra trong từng giai
đoạn phát triển. Nói cách khác, kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa phản ánh mức độ thị trường hóa ở quy mô quốc gia, quốc tế của
ngành trong từng giai đoạn, và là mục đích chung nhất trong phát triển nông nghiệp ở tất
cả các quốc gia trên thế giới dưới tác động của CNH nền kinh tế và toàn cầu hóa và hội
nhập. Sự thích ứng của cơ cấu ngành nông nghiệp với nhu cầu của thị trường càng cao thì
tính ổn định của cơ cấu càng lớn. Trong trường hợp ngược lại ngành nông nghiệp rơi vào
tình trạng không ổn định, phải giảm thiểu quy mô sản xuất và giá trị các chuyên ngành,
tiểu ngành không có lợi thế hoặc không phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng quy mô
sản xuất, giá trị các ngành có lợi thế để đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường trong và

ngoài nước. Quá trình này diễn ra liên tục, thường xuyên theo sự thay đổi của thị trường.
Từ các phân tích trên đây, cách nhìn về chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa như sau: Là sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các chuyên ngành,
tiểu ngành của ngành nông nghiệp theo lợi thế so sánh và theo nhu cầu của thị trường tiêu
thụ nhằm đưa cơ cấu ngành nông nghiệp từ trạng thái nhiều bất cập sang trạng thái ít bất
cập hơn so với nhu cầu của thị trường và phát triển được các chuyên ngành có lợi thế,
giảm thiểu các chuyên ngành kém lợi thế trong nông nghiệp. Theo đó khái niệm về
chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trong điều kiện
hiện nay như sau:
“Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là quá
trình thay đổi (tăng hoặc giảm) về quy mô, giá trị của các chuyên ngành sản xuất thuộc
22


ngành nông nghiệp theo hướng thích ứng nhiều hơn với nhu cầu thị trường đồng thời
phát huy được lợi thế so sánh của từng chuyên ngành, tạo ra cơ cấu ngành nông nghiệp
mang tính ổn định cao hơn và phát triển bền vững hơn trong kinh tế thị trường và hội
nhập”.
1.3.2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá nhằm đáp
ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng và
xu thế phát triển kinh tế hội nhập quốc tế.
Thực trạng kém phát triển của nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, ngành nông nghiệp đang phải hứng chịu và đối mặt với nhiều
thách thức, bởi vì trong nền kinh tế thị trường thì thị trường luôn là yếu tố quyết định cho
sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó sẽ ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và biến
đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu nông nghiệp nói riêng. Trong khi xã hội không
ngừng phát triển, nhu cầu của con người về nông phẩm theo đó cũng tăng lên cả về số
lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả… Chính yêu cầu đòi hỏi của thị trường, buộc sản

xuất phải đáp ứng, dẫn tới yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ. Thị trường và nhu
cầu càng phát triển thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp càng phải biến đổi phong phú và đa
dạng hơn. Đương nhiên, nền kinh tế thị trường có thể thừa nhận những cơ cấu kinh tế
hiệu quả, nghĩa là cơ cấu đó có khả năng đem lại lợi nhuận và thu nhập cao nhất cho
người sản xuất.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp mang lại lợi ích kinh tế ngày
càng cao cho nông dân phù hợp với nguyện vọng thiết thực của họ. Mặt khác, với nhu
cầu ngày càng cao của người tiêu dùng hiện nay về nông sản thì chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp nhằm đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của thị trường về các mặt
hàng nông sản phẩm góp phần tích cực phát triển nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân
và ổn định chính trị xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là điều
kiện và yêu cầu để mở rộng thị trường, hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá bền vững
chính là điều kiện và yêu cầu để mở rộng thị trường nhằm cung cấp một khối lượng nông

23


sản hàng hoá ổn định cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu
nhằm mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp trên cơ sở vật chất kỹ thuật trong
nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp được đổi mới và tăng cường làm cho sức sản xuất
đạt mức tăng trưởng ổn định. Một số ngành nghề và dịch vụ phát triển đã thu hút một
lượng lao động nông nghiệp sang các ngành nghề khác, bởi vì quá trình chuyển dịch sẽ
thay đổi cơ cấu sản xuất hợp lý hơn, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng do đó tỷ lệ lao động
của ngành nông nghiệp giảm đi nhưng giá trị tuyệt đối ngành đó vẫn đạt mức sản xuất
cao. Khi đời sống nông dân được nâng lên thì đây cũng chính là nơi tiêu thụ chủ yếu các
sản phẩm công nghiệp và sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Công nghiệp chế biến
và dịch vụ thương mại phát triển lại là địa bàn thu hút lao động nông nghiệp. Hàng hoá

nông sản phẩm có điều kiện vươn ra thị trường thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá tạo cơ sở
cho việc thay đổi môi trường kinh tế xã hội nông thôn nói chung và bộ mặt nông thôn nói
riêng.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và bền
vững đòi hỏi nông nghiệp phải huy động tối đa các nguồn lực để xây dựng, phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng nông thôn (từ các nguồn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước, các tổ
chức quốc tế và huy động nội lực trong dân…), giao thông nông thôn được cải thiện và
mở rộng, mạng lưới điện nông thôn được phát triển phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt,
công trình phúc lợi được sửa sang và xây dựng mới đã nâng cao hơn đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân. Y tế, giáo dục ở nông thôn cũng được đầu tư vừa nâng cao sức
khỏe vừa nâng cao dân trí. Việc nâng cao dân trí sẽ giúp cho nông dân được tiếp xúc với
những tiến bộ khoa học kỹ thuật và nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã và đang từng bước góp phần tích cực tới quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và đô thị hoá nông thôn, xây dựng nông thôn
mới.
Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá nhằm tạo
ra một nền sản xuất chuyên môn hoá, thâm canh cao và các liên kết ngành nghề chặt chẽ
với nhau hơn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm tạo ra một nền sản xuất
chuyên môn hoá cao, thâm canh tạo ra nhiều nông sản hàng hoá có chất lượng. Những
24


sản phẩm truyền thống và ngành nghề truyền thống có thương hiệu của vùng được khai
thác, được chuyên môn hoá sản xuất theo vùng có lợi thế nhất. Những tiến bộ khoa học
kỹ thuật công nghệ mới được áp dụng, tạo cho sản xuất một bước nhảy vọt cả về số
lượng và chất lượng. Từ sản phẩm của một vùng, từ chưa có thị trường ổn định và thương
hiệu để cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi phải gắn sản xuất với chế biến, hình thành các
hiệp hội, tạo ra thương hiệu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần
thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Phát triển nông nghiệp hàng hoá cũng xuất phát từ yêu cầu của CNH - HĐH; đảm
bảo vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân; nguyên, vật liệu cho công
nghiệp chế biến; tăng nhanh khối lượng nông sản xuất khẩu; giải quyết công ăn việc làm
để tăng thu nhập cho nông dân, từ đó mở rộng thị trường cho sản phẩm và dịch vụ công
nghiệp; bổ sung lực lượng lao động cho các ngành công nghiệp và nông nghiệp phát triển
sẽ góp phần tích luỹ vốn cho CNH - HĐH.
Nền kinh tế nước ta còn nghèo, khả năng đầu tư của Nhà nước có hạn, do đó
chúng ta cần phải phát huy mọi tiềm năng (vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý …) của
các thành phần kinh tế để phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH. Thực tế cho thấy, vốn tiềm
tàng trong nhân dân khá lớn, vốn của kiều bào ở nước ngoài có thể kêu gọi đầu tư để xây
dựng đất nước không phải là nhỏ, điều quan trọng là Nhà nước phải có hướng dẫn đầu tư
vào đâu, chính sách giải quyết mối quan hệ lợi ích cho phù hợp.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá trên một nền kinh tế mở, nhiều thành phần, xây
dựng được thương hiệu, có thị trường ổn định, có đội ngũ nhân lực tiếp thu được tiến bộ
kỹ thuật mới sẽ là sức hút vốn và công nghệ từ nước ngoài (thị trường tiêu thụ và kiều
hối). Chiến lược CNH hướng về sản xuất các sản phẩm chế biến thay thế sản phẩm nhập
khẩu nâng cao chất lượng sản phẩm trong nước thông qua chế biến và hạ giá thành để
xuất khẩu.
Để thực hiện chiến lược CNH nêu trên, tất nhiên phải mở rộng sản xuất và giao
lưu hàng hoá, phát huy ưu thế từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở sản xuất…; mở
rộng nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí chế tạo điện tử, dầu
khí nhằm vừa thoả mãn nhu cầu trong nước vừa tập trung nguồn hàng xuất khẩu lớn,
hướng về xuất khẩu cần nghiên cứu xu thế rõ các đối tác để có chiến lược, sách lược

25



×