Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH các yếu tố tác ĐỘNG đến tư DUY và NHIỆM vụ bảo vệ tổ QUỐC TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.98 KB, 25 trang )

1

MỞ ĐẦU

"Dựng nước đi đôi với giữ nước" đã trở thành truyền thống, bài học kinh
nghiệm quý báu, là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, quy luật đó biểu hiện tập trung trong 2 nhiệm vụ chiến lược có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu mà nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp xây dựng đất
nước luôn gắn liền với những thành tựu đạt được trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta, là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đặc
biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta không ngừng phát triển và
hoàn chỉnh tư duy chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết thực tiễn cách mạng
nước ta và thế giới về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, tình hình thế giới,
khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó vừa tạo ra nhiều thuận lợi mới, đồng thời cũng gây
ra nhiều khó khăn, thách thức nghiêm trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy tư duy về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới của Đảng được thể hiện sâu sắc, toàn diện với nhiều nội dung mới.
Việc nghiên cứu và nắm vững những yếu tố tác động đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới có ý nghĩa quan trọng trong
phát triển tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, trở thành nhiệm vụ tiên quyết, thường
xuyên, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.


2


1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
1.1. Một số khái niệm
Tổ quốc là một phạm trù lịch sử dùng để chỉ một vùng lãnh thổ mà trên đó
nhân dân sống và lao động trong một môi trường chính trị, xã hội và văn hoá. Theo
những “dấu hiệu” mà V.I.Lênin chỉ ra có thể quan niệm Tổ quốc là một phạm trù lịch
sử, đó là mảnh đất thân thuộc và tài nguyên của nó, là môi trường xã hội, chính trị, văn
hóa mà trong đó nhân dân đang sống, lao động cùng với ngôn ngữ của họ.
Tổ quốc là một thực thể thống nhất biện chứng của hai phương diện: tự nhiên
- lịc sử và chính trị - xã hội. Về phương diện tự nhiên - lịch sử là vùng lãnh thổ đất
liền, biển, hải đảo, vùng trời…cùng dân cư và các điều kiện kinh tế, văn hoá với sự hình
thành các dân tộc, quốc gia trong tổ quốc đó. Đây là mặt bản chất dân tộc, bản chất
nhân dân của Tổ quốc; Về phương diện chính trị – xã hội: gắn với một chế độ xã hội,
với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
thống trị về kinh tế thì cũng là giai cấp thống trị về chính trị, và chính giai cấp đó chi
phối mọi mặt của tổ quốc. Đây là mặt bản chất giai cấp của tổ quốc.
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tổ quốc mà trong đó giai cấp công nhân và nhân
dân lao động do đảng cộng sản lãnh đạo đã thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trở thành chủ nhân chân chính của Tổ quốc.
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hoạt động (đấu tranh) của nhà nước và
nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm
giữ gìn và củng cố những thành quả của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ biên giới, toàn
vẹn lãnh thổ, chủ quyền và lợi ích quốc gia của các nước xã hội chủ nghĩa; chống
lại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động phá hoại của các thế lực thù địch.
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, là quy luật của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. “Nếu không cầm vũ khí để bảo vệ thành quả cách mạng thì
chúng ta không thể tồn tại được”. Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được thực hiện
bằng tổng hợp các biện pháp: quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa…


3

Trong thời bình đó là việc chuẩn bị mọi mặt cho đất nước sẵn sàng đánh trả mọi
cuộc chiến tranh xâm lược và chống phá của các thế lực thù địch. Trong thời chiến
là đấu tranh vũ trang trực tiếp với địch…Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa
vụ đạo đức và pháp lý của công dân xã hội chủ nghĩa;
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ C.Mác, Ph.Ăngghen, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh, các nước tư bản lớn nhất lúc này phát triển tương đối đồng đều. Giai cấp vô
sản chưa cầm quyền, chưa có tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo các ông, chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải có sức mạnh bạo lực để tự bảo vệ: “… bạo lực còn là bà đỡ cho
mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới” 1. Luận điểm của Mác và Ănghgen :
“Công nhân không có Tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không
có... Vì thế giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
xây dựng thành một giai cấp dân tộc” 2 nêu lên nhằm mục đích làm cho giai cập vô
sản tránh khỏi sự lừa bịp của giai cấp tư sản nhân danh dân tộc để thực hiện các
cuộc chiến tranh xâm lược.
Trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp, C.Mác, Ph.Ănghgen đã phê phán giai cấp
công nhân trong Công xã Pari 1871 ít sử dụng bạo lực cách mạng, “hớn hở mải mê
xây dựng xã hội mới, hầu như quên mất bọn ăm thịt người đang ở ngay cửa ngõ
nhà mình” đã không công đập tan mọi hành động phản kháng của giai cấp tư sản.
Đó là những tư tưởng ban đầu về bảo vệ tổ quốc.
Thời kỳ V.I. Lênin, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng vô sản có thể
nổ ra và thành công ở một số nước, thậm chí ở một nước tư bản có trình độ phát triển
chưa cao. V.I. Lê-nin đã xây dựng Học thuyết bảo vệ tổ quốc, làm cơ sở để lãnh đạo
công cuộc bảo vệ Nhà nước Xô-viết và chế độ xã hội chủ nghĩa trước sự tấn công
xâm lược của kẻ thù. Với tư tưởng “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa xã hội
1
2

C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, tâp 20, Nxb ST, H. 1980, tr.259

C.Mác, Ph.Ăngghen toàn tập, tập 4, Nxb ST, H.1980, tr.565


4
chủ nghĩa, thì chúng ta không thể tồn tại được… giai cấp bị trị phải chứng minh trên
thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự
tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình” 3 và “Một cuộc cách mạng chỉ có
giá trị khi nào nó biết tự vệ”4 V.I. Lênin cùng với Đảng Bôn Sêvich đã đưa nước Nga
thoát khỏi cảnh nội chiến, từng bước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nêu
lên: “chúng ta tán thành “bảo vệ tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà
chúng ta đang đi tới, là cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ
nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hòa xô-viết, với tính cách là
một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”5.
Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, theo V.I.Lênin, cần hết sức tranh thủ thời
gian hoà bình, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, ra sức xây dựng các tiềm lực kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tinh thần, khoa học - kỹ thuật, tiềm lực quân sự; phải
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; chủ trương tập trung sức khôi phục và phát triển nền kinh tế
theo hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng phương thức sản xuất mới làm cơ sở cho
việc xây dựng nền quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; Đảng và Nhà nước phải hết sức
chăm lo xây dựng quân đội hùng mạnh, một quân đội kiểu mới do giai cấp công
nhân lãnh đạo trên cơ sở vũ trang toàn dân; khi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa bị xâm
lược, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nổ ra, tất cả mọi lực lượng, mọi
tài nguyên đều phải được huy động vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa vừa là nghĩa vụ của mỗi công dân của nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn Việt Nam, Người chủ trương kiên quyết
bảo vệ chính quyền nhân dân và chủ quyền dân tộc, thực hiện nguyên tắc ''dĩ nhu
xử cương, dĩ bất biến ứng vạn biến'', hết sức tranh thủ thời gian hoà hoãn xây
dựng lực lượng mọi mặt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Người đưa ra hàng loạt

V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 165-166
V.I.Lênin toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr.145.
5 V.I.Lênin toàn tập, tập 36, Nxb Tiến Bộ, M. 1977, tr.102.
3
4


5
các biện pháp xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tổ chức tổng tuyển
cử bầu Quốc hội, thông qua hiến pháp; kiên quyết chống ''giặc ngoại xâm, giặc
đói, giặc dốt'', ra chỉ thị ''kháng chiến và kiến quốc'', đồng thời cùng Trung ương
quyết định chủ trương ''hoà để tiến''; quyết định ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946,
Tạm ước 14-9-1946 để có thời gian chuẩn bị kháng chiến, bảo vệ chính quyền.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở ý
chí, quyết tâm, sự gắn bó không tách rời giữa mục tiêu bảo vệ nền độc lập dân tộc
với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung
giai cấp, nội dung thời đại trong bảo vệ Tổ quốc. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, vận dụng tổng hợp các phương thức vũ trang, phi vũ trang,
đồng thời chuẩn bị đất nước sẵn sàng về mọi mặt, khi cần thiết kiên quyết tiến hành
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.3. Những yếu tố tác động đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới
* Tình hình thế giới, khu vực có những thay đổi lớn tác động sâu sắc đến sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, quá trình toàn
cầu hóa, kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tác động đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đến nhiều quốc gia, dân tộc, trong đó có bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Tình hình thế giới, khu vực nổi lên nhiều vấn đề cần quan tâm:

Thứ nhất, sự bất ổn diễn ra nhiều nơi trên thế giới:
Tình hình bất ổn diễn ra nhiều nơi trên thế giới, Trung Đông, Bắc Phi, bán
đảo Triều Tiên; tranh cấp biển đảo ở Đông Bắc Á; lộn xộn ở Thái Lan, Campuchia;
kinh tế thế giới khủng hoảng; Khu vực châu Âu (27 nước) nợ công rất nặng nề. Với
tỉ lệ thất nghiệp tại Tây Ban Nha hiện nay là 26% với gần 5,9 triệu người không có


6
việc làm, hàng trăm người biểu tình đã diễu hành qua các dãy phố tại trung tâm
Madrid để phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng của chính phủ trước khi một
nhóm người biểu tình quá khích bắt đầu đập phá, tấn công cảnh sát và đốt cháy các
thùng rác nhằm phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng.
Ở Thái Lan, Phe áo đỏ biểu tình phản đối hủy kết quả bầu cử, hàng chục
nghìn người thuộc phe áo đỏ ủng hộ chính phủ tập hợp biểu tình tại tỉnh Chon Buri,
miền Đông Nam Thái Lan, để phản đối phán quyết hủy bỏ kết quả bầu cử của Tòa
án Hiến pháp. Thủ lĩnh phe áo vàng đối lập Suthep Thaugsuban, tổng thư ký
PRDC, phản bác lại rằng: "Đây là thời điểm tốt nhất để chúng ta bước ra và tuyên
bố rằng chúng ta không muốn bầu cử, chúng ta muốn cải cách". Phe áo vàng cho
rằng các chính sách ưu đãi nông dân của đảng Pheu Thai do gia đình Shinawatra
đứng đầu là hành vi mua phiếu và đó là lý do tại sao đảng này luôn thắng trong các
cuộc bỏ phiếu gần đây. Vì vậy, PRDC yêu cầu thành lập Hội đồng Nhân dân không
qua bầu cử…
Thứ hai, Trung Quốc nổi lên thành một hiện tượng lạ, trở thành nền kinh tế
thứ 2 trên thế giới, sau Mỹ; Với tốc độ tăng trưởng quý cuối năm 2009 là 10,7% và
cả năm 8,7%, kinh tế Trung Quốc có cơ vượt Nhật Bản để xếp vị trí thứ hai thế
giới, sau Mỹ; Tổng sản phẩm quốc nội đạt 4.900 tỷ USD, tăng 8,7% so với 2008,
vượt chỉ tiêu tăng trưởng 8% đã đề ra hồi đầu năm. Kết quả này đạt được có một
phần không nhỏ của gói kích thích kinh tế 586 tỷ USD; dự kiến sau 20-30 năm nữa
sẽ vượt Mỹ và sẽ trở thành cường quốc số một thế giới. Tranh chấp ở biển Đông,
biển Hoa Đông ngày một gay gắt; là vấn đề thời sự hiện nay…

Thứ ba, Mỹ chuyển sang châu Á - Thái Bình Dương; với vai trò đầu tàu dẫn
dắt nền kinh tế toàn cầu phát triển hiện nay, khu vực châu Á-Thái Bình Dương bao
gồm cả 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới (Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản), hai quốc gia
mới nổi tiềm năng nhất (Trung Quốc và Ấn Độ), bốn “con rồng nhỏ” (Hồng Kông,
Singapo, Hàn Quốc và Đài Loan) đã trỗi dậy từ thế kỷ trước cùng hai quốc gia
“tiềm năng mới nổi” (Inđônêxia và Việt Nam)… Cùng với đó, châu Á-Thái Bình


7
Dương cũng là khu vực có cục diện biến đổi nhanh nhất, so sánh lực lượng kinh tế,
chính trị và quân sự phức tạp nhất, quan hệ giữa các quốc gia thiếu ổn định nhất,
các “điểm nóng” và “điểm khó” nhiều nhất. Do đó, việc coi trọng hay không coi
trọng, can dự hay không can dự vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ quyết
định vận mệnh của mỗi quốc gia trong thế kỷ 21. Từ trước đến nay, Mỹ chưa từng
rời khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việc điều chuyển mạnh mẽ lần này chỉ
là bước tăng cường tiếp theo của Oasinhtơn. Mỹ chuyển đến châu Á-Thái Bình
Dương trong điều kiện đang thu hẹp chiến lược toàn cầu, điều này khác biệt rất lớn
so với sự dịch chuyển từ Đông sang Tây trong bối cảnh mở rộng chiến lược toàn
cầu thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh trước đây.
Mỹ chuyển sang Châu Á – Thái Bình Dương với mục đích: Một mặt, Mỹ
muốn kìm hãm, chặn đà phát triển của Trung Quốc; bằng cách đó, Mỹ buộc Trung
Quốc phải chạy đua vũ trang và như thế Trung Quốc sẽ rơi vào vòng xoáy của Mỹ,
hệ quả của nó là kinh tế không thể tăng trưởng. Mặt khác, Mỹ muốn xác lập quyền
thống trị của mình ở châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, Mỹ ra sức cũng cố liên
minh Mỹ - Hàn Quốc; Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Úc, Mỹ - ASEAN.
Thứ tư, khối ASEAN bị các nước lớn lôi kéo, có sự phân hóa sâu sắc bắt
nguồn từ lợi ích giữa các nước có quyền lợi liên quan. Các nước lớn lôi kéo các
thành viên ASEAN ngày càng mạnh mẽ. Lần đầu tiên ASEAN không ra được nghị
quyết chung do Campuchia chủ trì bởi can thiệp của một số nước lớn.
Kết thúc các hoạt động của bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN trong

ngày13/7/2012, các quốc gia Đông Nam Á không thể đưa ra một tuyên bố chung,
do các nhà ngoại giao bất đồng trong việc liệu có đề cập vấn đề tranh chấp lãnh thổ
nhạy cảm có liên quan đến Trung Quốc hay không. Việc không thể ra một tuyên bố
chung là một điều chưa có tiền lệ trong lịch sử 45 năm của khối ASEAN. Điều này
cho thấy một sự chia rẽ sâu sắc giữa các thành viên ASEAN trong giải quyết các
tranh chấp chủ quyền trên Biển.


8
Thứ năm, xuất hiện những vấn đề mới đối với Lào và Campuchia. Đối với
Lào, vấn đề xây dựng thủy điện trên dòng sông Mekong, liên quan đến dòng sông
chung của Myanmar, Trung Quốc, nhất là vấn đề làm thủy điện. Hiện nay, với sự
đầu tư mạnh mẽ vào Lào, Trung Quốc từng bước làm cho Lào phải phụ thuộc vào
mình.Tình hình Campuchia hiện nay rất phức tạp do có sự can thiệp ngày càng sâu
của Trung Quốc.
Trong thời gian tới, Đảng ta nhận định: Tác động của các yếu tố bên ngoài sẽ
phức tạp hơn, rất khó lường, như vấn đề Trung Quốc đưa ra vùng nhận diện phòng
không ở biển Hoa Đông. Gần đây, vấn đề Ucrai na, C rưm, IS… Cho nên phải làm
tốt công tác nghiên cứu, dự báo để có đối sách ứng phó, luôn ở thế chủ động; mặc
dù tình hình hiện nay tương đối hòa dịu, song có thể xảy ra xung đột cục bộ, rất
khó lường.
Xung đột sắc tộc, tôn giáo sẽ phức tạp hơn, song nó sẽ vận động theo hướng
nào thì chưa rõ. Trong những năm tới, kinh tế thế giới sẽ phục hồi nhưng sẽ chậm
chạp và khó khăn.
An ninh mạng sẽ tăng lên và vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước
ta. Đây là một lĩnh vực quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Khủng bố, tội phạm phi quốc gia, tội phạm môi trường sẽ phức tạp hơn. Vì
vậy, các lực lượng có liên quan phải làm công tác thông tin, bảo mật.
Trung Quốc là nền kinh tế thứ hai trên Thế giới, dự trữ ngoại tệ tăng lên
không ngừng (mỗi năm tăng lên 200 - 300 tỷ USD dự trữ); ý đồ độc chiếm biển

Đông của Trung Quốc chưa hề thay đổi mà ngược lại, ngày càng gia tăng.
Kinh tế Mỹ tuy có giảm sút, song Mỹ vẫn là cường quốc số 1, ảnh hưởng lớn
đến thế giới. Trong thực tế thì Mỹ vẫn sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để
chống ta phá ta quyết liệt.
Cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ quyết liệt hơn; quan hệ giữa khu vực
ASEAN và các nước khác cũng sẽ phức tạp hơn. Có thể xuất hiện thêm các lợi ích
khác biệt giữa ta, Lào và Campuchia, lợi dụng quan hệ với các nước lớn gây sức ép


9
đối với ta. Lần đầu tiên, ASEAN không ra được nghị quyết khi Cămpuchia làm chủ
tịch luân phiên ASEAN. Mỹ dùng mọi biện pháp để lôi kéo Thái Lan, Mianma,
Singapo đứng về phía họ. Điều này tác động đến đoàn kết các nước trong ASEAN,
gây ảnh hưởng đến an ninh của Việt Nam. Các hoạt động chống phá ta về dân chủ,
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... bằng các phương tiện thông tin hiện đại ngày càng
tăng. Tất cả điều đó liên quan trực tiếp đến vấn đề bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Các đặc điểm trên đây tác động không nhỏ đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ta
hiện nay; cần phải nhận diện sâu sắc tình hình ấy để có đối sách phù hợp, vừa bảo
vệ được thành quả cách mạng, vừa phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững;
thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
* Âm mưu, thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch
Âm mưu cơ bản xuyên suốt của các thế lực đối với cách mạng nước ta không
hề thay đổi: xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm sụp đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Thế nhưng, để biến âm mưu ấy trở thành hiện thực, các thế lực thù địch đang ra sức
thực hiện việc kết hợp “Diễn biến hoà bình” với hậu thuẫn và sự tăng cường liên
kết với các lực lượng phản động, chống đối chính trị trong và ngoài nước, triển
khai, thực hiện nhiều kế hoạch, hoạt động chống phá, thúc đẩy Việt Nam cải cách
theo hướng dân chủ hoá về chính trị, tự do hoá về kinh tế, khôi phục vai trò của Mỹ
ở Việt Nam và Đông Dương; lôi kéo Việt Nam vào chiến lược kiềm chế, ngăn chặn

ảnh hưởng của Trung Quốc...
Điểm mới của chiến lược “Diễn biến hoà bình” được các thế lực thù địch
thực hiện ở Việt Nam hiện nay là: trực tiếp, hiệu quả, mềm, sâu, quyết liệt hơn vào
bên trong, bên trên nội bộ của Đảng, cơ quan chính quyền các cấp; thực hiện diễn
biến từ kinh tế sang biến động về chính trị, kết hợp diễn biến bên trong với bên
ngoài, tập trung bên trong, bên trên là chính; “Diễn biến hoà bình” được kết hợp


10
chặt chẽ bạo loạn lật đổ, “Cách mạng màu”, răn đe quân sự và sẵn sàng tiến công
quân sự khi có thời cơ.
Về dân tộc, tôn giáo: các thế lực thù địch tìm mọi cách chia rẽ khối đoàn kết
dân tộc; nuôi dưỡng những, kích động những mẫu thuẫn tộc người, bất đồng tôn
giáo; coi tôn giáo và sắc tộc là những lực lượng mũi nhọn của sự thay đổi chế độ.
Chúng xúc tiến thành lập, tổ chức các đảng phái, tổ chức lực lượng chính trị, xã hội
đối lập, các tổ chức quân sự, vũ trang phản động.
* Tình hình trong nước có những chuyển biến mới, thuận lợi, thách thức đan
xen đã tác động không nhỏ đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Công cuộc đổi mới đất nước gần 30 năm do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử: nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá; văn hóa, xã hội đạt được những
thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, có
một số mặt đạt trình độ của một số nước phát triển trung bình; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững;
hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta được nâng cao tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước; các vấn đề
biên giới, lãnh thổ trên đất liền, trên biển, hải đảo được giải quyết phù hợp. An ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm v.v...Những thành tựu nói trên đã
tạo nên tổng hợp lực to lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, góp
phần quyết định vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đã giành được, chúng ta vẫn còn nhiều
hạn chế, yếu kém, bất cập: Kinh tế phát triển chưa bền vững: chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả đầu tư, năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp; các cân đối vĩ
mô chưa vững chắc; các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm
được khắc phục; nhất là về giáo dục-đào tạo, y tế, đạo đức, lối sống trong một bộ


11
phận xã hội xuống thấp; môi trường nhiều nơi bị ô nhiễm nặng, tài nguyên đất đai
chưa được quản lý tốt; thể chế kinh tế thị trường; chất lượng nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng vẫn là những “điểm nghẽn” của nền kinh tế, cản trở sự phát triển; tiềm
ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Tất cả những hạn chế ấy không chỉ ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng và phát triển
đất nước, mà còn gây nên những khó khăn trong thực thi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tình hình tranh chấp biển Đông ngày càng phức tạp: Trung Quốc hai lần cắt
cáp tàu Bình Minh 2, gây áp lực đối với tập đoàn dầu khí của Vương quốc Anh, khi
họ hợp tác với ta thăm dò dầu khí ở biển Đông, thấy không thuận lợi, tập đoàn dầu
khí của Vương quốc Anh đã bỏ đi. Ta mời Nga vào thay thế, hợp tác thăm dò, khai
thác 9 lô trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc và một số nước
khác có lợi ích ở biển Đông tiếp tục gây khó khăn, tăng áp lực đối với nước ta, đặc
biệt là xua đuổi ngư dân ta đánh bắt cá ngoài khơi xa... Mới đây là sự kiện Trung
Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 thăm dò khai thác dầu khí trong vùng biển
Việt Nam xâm phạm chủ quyền Việt Nam …
Bốn nguy cơ mà các kỳ Đại hội Đảng nêu ra chưa giảm, chưa được khắc phục
mà ngược lại, có xu hướng tăng. Trong đó, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế nhìn
thấy rất rõ. Thái Lan GDP đạt trên 300 tỷ USD, Việt Nam kinh tế có tăng trưởng,
sự tăng GDP rất chậm đạt trên dưới 150 - 160 tỷ USD. Các nguy cơ tham nhũng,
quan liêu, diễn biến hòa bình,...vẫn rất nghiêm trọng.
Việc nắm bắt tình hình chính trị an ninh chưa chắc, còn bị động, bất ngờ. Các

vụ việc xảy ra ở Tây Nguyên, Mường Nhé ta có dự báo, song thời điểm xảy ra lại
không lường trước được.
2. Tư duy mới của Đảng ta về bảo Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới
Thuật ngữ bảo vệ Tổ quốc đã được sử dụng ngay khi Pháp gây hấn ở Nam bộ
năm 1946, Bác Hồ đã kêu gọi: Tổ quốc lâm nguy, chúng ta phải đứng cả dậy, tất cả
quốc dân Việt Nam phải đứng cả dậy bảo vệ Tổ quốc .


12
Trải qua các thời kỳ cách mạng, bám sát sự vận động của thực tiễn, trước các
diễn biến mới của tình hình, Đảng ta luôn có quan điểm đúng đắn về bảo vệ Tổ
quốc. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) đã xác định đường lối chung của cách mạng miền
Nam trong thời gian tới: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động; tiến hành dồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng
về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hóa, trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ; không ngừng đề
cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật
tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và
chủ nghĩa xã hội; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ V (năm 1982) đã xác định nhiệm
vụ của Đảng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định “Trong khi đặt
trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một phút lơi
lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Công cuộc đổi mới đất nước được vạch ta từ Đại hội VI do Đảng khởi xướng

và lãnh đạo (1986) là bước đột phá tư duy toàn diện của Đảng trên các lĩnh vưc.
Thực tiễn tiến hành đổi mới đất nước trong những năm đầu cũng đặt ra nhiều khó
khăn thách thức. Tại đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã xác định: Nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh trong những năm tới là: phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với nền an ninh toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nâng
cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và


13
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa; ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn
định chính trị xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn chặn có hiệu quả và nghiêm
trị mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội.
Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết
hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ
an ninh, hai mặt có mối quan hệ khăng khít trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
chế độ trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng an ninh với
hoạt động đối ngoại.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa các chủ trương,
chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội và công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh. Tăng cường
quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước; từ thực tiễn
20 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành rõ nét hơn tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn trên nhiều vấn
đề, Nghị quyết trung ương 8 khóa IX của Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới đã nêu rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo trong
việc thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Về mục tiêu, Hội nghị xác định mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay: “Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; bốn là, bảo
vệ lợi ích quốc gia dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
và nền văn hoá; sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát


14
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”6
Quan niệm trên là một bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng về bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, không chỉ là sự tổng kết thực tiễn quá khứ mà còn
là dự báo chính xác những vấn đề của tương lai trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trước đây, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta thường chú trọng đến bảo
vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Tư
duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay gắn mục tiêu trên với nhiệm vụ bảo
vệ Đảng, nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình mới, nhằm
bảo đảm vững chắc an ninh sinh tồn và an ninh phát triển của Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta khẳng định, không chỉ bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước
và chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, mà còn là
bảo vệ nhân dân, giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng;
chống kẻ thù xâm lược từ bên ngoài và bọn phản động bên trong cấu kết với nhau;
“diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, chống “tự diễn biến” trong nội bộ ta.
Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về quốc phòng, an ninh, đối
ngoại của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới. Chúng ta nhận thức về đối tượng
và đối tác linh hoạt, uyển chuyển và biện chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy
rõ vai trò quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng với an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa

quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện,
sâu sắc, biện chứng hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối
cảnh mới. Đó là một thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
Về các quan điểm, Hội nghị nêu lên 6 quan điểm chỉ đạo, đó là: giữ vững vai
trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; xây
6

Xem Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI, NXB CTQG, H. 2001, tr.108 - 109


15
dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc;
ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên
ngoài; chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có
thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Hội nghị xác định ba phương châm cần phải nắm vững trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc:
- Kiên định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với sự vận dụng linh hoạt sách
lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và dư luận quốc tế, cô
lập, phân hoá các phần tử chống đối.
- Đối với nội bộ, lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa
là chính, đi đôi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh các sai phạm. Đối
với các thế lực chống đối ở trong nước, cần phân hoá, cô lập và xử lý nghiêm minh.
- Thường xuyên đi sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi mầm
mống gây mất an ninh, không để bị động, bất ngờ.
Để đạt được mục tiêu của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
Nghị quyết nhấn mạnh cần phải thực hiện tốt 6 nhiệm vụ cơ bản:

Một là, giữ vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ
Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.
Ba là, nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn
với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các


16
vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong
đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế ưu tiên phát
triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và
trung tâm lớn.
Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, trong nước,
nhận thức của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng rõ hơn, toàn
diện hơn. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh thêm: "bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội…; không để bị động, bất ngờ";
chỉ ra quan điểm nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của mỗi người, của từng tổ chức, cơ
quan, đơn vị. Đại hội XI và Trung ương 8 khóa XI nhấn mạnh, tham gia hoạt động
giữ hòa bình…Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã có những nhận thức
mới về bảo vệ Tổ quốc đó là :
Về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: Mở rộng nội dung bảo vệ Tổ quốc xã

hội chủ nghĩa trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế; khắc phục những
phiến diện trong tư duy chỉ nhấn mạnh đến bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; làm rõ hơn mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ, biện chứng giữa các
nội dung trong mục tiêu.
Về quan điểm chỉ đạo, Đảng ta đã nhấn mạnh thêm cần phải xây dựng sức
mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại; chỉ rõ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh không ngừng xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn
cảnh mới.


17
Phương thức bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới: Đảng ta đã nhận thức
đúng và sử dụng tổng hợp các phương thức đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, kết
hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh ấy; làm phong phú các hình thức đấu tranh
phi vũ trang; kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ. “bảo vệ Tổ quốc
từ xa”. Từ Đại hội X đến nay, phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị
trí quan trọng. Đảng ta khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang và phi vũ
trang, kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ”7.
Đảng ta đã coi xây dựng cũng là phương thức hữu hiệu để bảo vệ; bảo vệ trong
xây dựng, xây dựng trong bảo vệ; bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng,
xây dựng cũng là một bộ phận hợp thành của bảo vệ. Đây là một nhận thức rất quan
trọng của Đảng trong bối cảnh mới, làm tăng khả năng phát huy nội lực đất nước
trong bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong xây dựng đất nước; làm sâu sắc thêm tính chất
toàn dân, toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Về lực lượng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta coi bảo
vệ Tổ quốc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của toàn bộ hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của cả nước ; đại đoàn kết
toàn dân tộc là động lực chủ yếu. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp

quốc gia về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng an ninh, đối
ngoại; trong đó sức mạnh lực lượng vũ trang là nòng cốt. Phát huy nội lực là chính,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp quân sự với kinh tế, chính
trị với ngoại giao. Sức mạnh bên trong đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự
trung thành, tận tụy và trong sạch của đội ngũ cán bộ, công chức và sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định; đã khắc phục tư tưởng trông
chờ, dựa dẫm vào sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhất là của hệ thống xã hội chủ
nghĩa đối với nước ta.
Từ những nhận thức mới về bảo về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Đảng ta luôn nhất
quan trong hành động thực tiễn; kiên trì nguyên tắc song cũng rất linh hoạt, mềm
7

Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb CTQG, H. 2006, tr. 100


18
dẻo. Do vậy những chủ trương của Đảng đã thực sự đem lại hiệu quả; nổi bật, bao
trùm là chúng ta đã giữ được độc lập, chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ,
không để mất đất, mất đảo, mất dân; bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa đạt kết quả tốt; tình hình chính trị ổn định, môi trường hòa bình là điều kiện tốt
để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; tiềm lực quốc phòng - an ninh, sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc tăng lên rõ rệt: đã từng bước hiện đại hóa Quân chủng Hải quân,
Phòng không - Không quân, Thông tin liên lạc và Tác chiến điện tử theo hướng hiện
đại. Đời sống cán bộ, chiến sĩ được quan tâm đặc biệt, từng bước được cải thiện,
nâng cao.
Hoạt động đối ngoại thu được thành tựu quan trọng, năm 2003 ta quan hệ với
160 nước, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, ta quan hệ với
181 nước. Trước đây, ta có Nga là đối tác chiến lược, năm 2013, ta có 13 đối tác
chiến lược, 10 đối tác toàn diện. Nhờ đó, ta tập ra hợp lực để giải quyết được nhiều
vấn đề. Đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc với Trung Quốc, cắm dày thêm cột

mốc trên biên giới Lào và đạt gần 80% cắm mốc với Campuchia. Đối với
Campuchia, cơ bản việc cắm mốc đã xong, tuy nhiên, một số nơi, công việc này còn
có sự tranh chấp, diễn biến phức tạp, cần tiếp tục đàm phán để đi đến thống nhất.
Trên cơ sở đánh giá, tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết trung ương 8 khóa
IX, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư
duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị
quyết Trung ương 8 khóa XI đã khái quát 5 bài học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, quán triệt và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết
định thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại;
trong đó sức mạnh của đất nước, sức mạnh của toàn dân đóng vai trò quyết định,
“dân là gốc nước; sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân”, còn yếu tố
quốc tế có vai trò quan trọng. (Bởi vì, thời nay, đem quân đi xâm lược nước khác có


19
độc lập, chủ quyền là điều rất khó; bị thế giới phản đối găy gắt; nó thuộc về vấn đề
nhân quyền).
Thứ ba, luôn nắm chắc thực tiễn thế giới, khu vực, đất nước; nắm rõ kẻ thù,
đối tượng để có đối sách, kế sách bảo vệ Tổ quốc cho phù hợp; phải mềm dẻo, linh
hoạt, uyển chuyển phương pháp đấu tranh trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định
mục tiêu. Ta kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song hết sức linh hoạt, mềm dẻo trong
sách lược. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu bất biến, còn cái khả biến
là sự ứng xử mềm dẻo, linh hoạt trong từng tình huống cụ thể.
Thứ tư, xây dựng và phát triển bền vững nền quốc phòng toàn dân gắn với xây
dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân; trong đó lực lượng nòng
cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Thứ năm, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, bổ sung, khái quát lý luận mới
về bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI chỉ rõ mục tiêu, quan điểm,
phương châm, nhiệm vụ và giải pháp bảo vệ Tổ quốc
Về mục tiêu: về cơ bản không thay đổi so với trung ương 8 khóa IX là: Bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta. Đó là mục tiêu lâu dài.
Mục tiêu trước mắt là rất quan trọng, thể hiện ở 4 điểm mang tính nguyên tắc:
Một là, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Đây là cơ sở nền
tảng quan trọng nhất của bảo vệ Tổ quốc. Nếu địch chống ta, thì có nhân dân bảo vệ
Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt


20
Nam. Quan điểm đó trước đây đã đúng, hiện nay và mai sau vẫn đúng, nên phải quan
tâm xây dựng Đảng, Nhà nướctrong sạch, vững mạnh.
Hai là, xây dựng lòng tin của nhân dân,“thế trận lòng dân”vững chắc là vấn
đề then chốt, mang ý nghĩa quyết định. Nơi nào mất lòng tin của nhân dân thì ở nơi
đó phải giải quyết ngay; cần giải quyết có hiệu quả các vụ việc khiếu kiện tập thể
kéo dài.
Ba là, đưa đất nước phát triển bình thường trở lại; chú trọng vấn đề an sinh xã
hội như giải quyết việc làm, khắc phục lợi ích nhóm, thực hiện đúng chế độ chính
sách với các đối tượng. Phấn đấu để mỗi năm giải quyết được từ 1,5 đến 2 triệu
người có việc làm. Hiện nay, nước ta có trên 30% lao động thiếu việc làm. Nghị
quyết có đưa ra khái niệm an toàn và phát triển bền vững.
Bốn là, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị thì mới có phát triển. Vì vậy,
chúng ta phải tránh xung đột, giải quyết tốt mâu thuẫn, thực hiện đúng lời dạy của

Bác về sự kiềm chế, biết “nhân nhượng” để chuẩn bị tiềm lực bảo vệ Tổ quốc.
Về quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, nhận thức và giải quyết tốt vấn đề đối tác và đối tượng. Trung ương
đặc biệt nhấn mạnh: những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền của ta là đối tác. Những
ai chống phá ta đều là đối tượng đấu tranh. Trung ương chỉ rõ: Cần có cách nhìn
biện chứng trong xử lý các tình huống. Bởi vì, trong đối tác có mặt là đối tượng;
trong đối tượng có mặt là đối tác. Trung ương nhấn mạnh tính mềm dẻo linh hoạt,
thực hiện đúng lời dạy của Bác: “cái gì có lợi cho dân thì làm, cái gì có hại cho dân
thì tránh”.
Thứ hai, nhân tố bên trong là quyết định, nhân tố bên ngoài là quan trọng; để
giữ vững hòa bình, cần cảnh giác cao, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, bảo
vệ Tổ quốc từ xa, từ trong khi đất nước chưa lâm nguy, trong thời bình. Bởi vì, có
giữ vững môi trường hòa bình thì chúng ta mới phát triển kinh tế, xây dựng đất nước
thuận lợi. Đó cũng là phương cách sẵn sàng đánh bại sự xâm lăng của địch trong mọi
tình huống.


21
Về phương châm chỉ đạo: Nguyên tắc là phải giữ vững hòa bình, khi có bất
trắc xảy ra thì cương quyết xử lý hiệu quả; song sách lược là mềm dẻo, linh hoạt,
uyển chuyển; không để lây lan, kết hợp giáo dục với nghiêm khắc xử lý đối tượng
chủ mưu.
Trung ương chỉ rõ các nhiệm vu, giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh toàn diện, khôi
phục lại niềm tin của nhân dân. Đây là nhân tố quyết định và việc làm đầu tiên, cần
ưu tiên hàng đầu. Để giải pháp này đi vào đời sống cần làm tốt nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội; gắn phát triển kinh tế - xã hội với với quốc phòng – an ninh – đối
ngoại; xây dựng văn hóa xã hội lành mạnh; quốc phòng – an ninh vững chắc; đối
ngoại hiệu quả.
Trong đó, nổi lên 6 biện pháp cụ thể cần làm (5 điểm bên trong và 1 điểm bên

ngoài).
Các biện pháp bên trong (đối nội):
Xây dựng Đảng, Nhà nước, chế độ đạt hiệu quả đúng như Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI đã xác định.
Phát triển kinh tế - xã hội, gắn phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng – an
ninh, làm cho “thực túc, binh cường”. Đồng thời, phát triển công nghệ chế tạo vũ
khí, trang bị quân sự, an ninh. Tăng sản xuất lưỡng dụng, quân sự và dân sự đều
dùng được sản phẩm. Xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc, gắn xây dựng
kinh tế với quốc phòng, an ninh,...với đối ngoại và ngược lại.
Văn hóa, thông tin truyền thông phải mạnh hơn. Xây dựng tinh thần yêu nước,
yêu chế độ cho mọi người dân, nhất là cho thế hệ trẻ. Làm tốt hơn công tác quản lý
thông tin truyền thông, đặc biệt chú trọng bảo mật.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện đúng bài học Đại hội
VI đã đúc kết: lấy dân làm gốc. Không để dân đói rét đã là khó, không để dân mất
niềm tin vào Đảng, vào chế độ còn khó hơn nhiều. Giải quyết tốt các vấn đề tôn giáo,
dân tộc theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.


22
Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, gắn
với xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, biển đảo. Xây dựng phong trào
toàn dânbảo vệ Tổ quốc. Tăng cường nghiên cứu dự báo, không để đất nước bị động,
bất ngờ; bổ sung, hoàn thiện các phương án tác chiến, an ninh quốc gia; không để
địch cài cắm vào nội bộ ta. Trong những năm tới, chúng ta đặt mục tiêu có từ 15 đến
20 triệu khách nước ngoài vào du lịch. Đó là cơ hội, song cũng là thách thức lớn. Vì
vậy, các cơ quan an ninh, bảo vệ phải được củng cố, kiện toàn cho tốt. Xây dựng
Quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại.
Về đối ngoại: cần chú ý đến cặp quan hệ Trung Quốc - Mỹ. Bởi vì, mọi động
thái trong giải quyết mối quan hệ này đều liên quan đến công cuộc đổi mới của Việt

Nam. Vì vậy, trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, phải đặt mối quan
hệ Trung - Mỹ với việc giải quyết nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Mặt khác, chú ý mối quan hệ Mỹ - Trung - Nga. Trong các đối tác chiến lược
của ta, Nga cũng có tầm quan trọng vì Nga có quan hệ lịch sử truyền thống và giúp
đỡ Việt Nam nhiều mặt, nhất là việc đào tạo cán bộ chiến lược, chiến dịch cho ta.
Tuy nhiên, vẫn có mặt nghịch, gây khó khăn, tạo ra những bất lợi mới cho ta, đặc
biệt là việc giải quyết lợi ích trên biển Đông.
Trung Quốc là nước lớn, láng giềng, đối tác chiến lược, song Trung Quốc có
nhiều mâu thuẫn với ta về lợi ích, nhất là lợi ích trên biển Đông. Vì vậy, mọi động
thái liên quan đến Trung Quốc, từ kinh tế, chính trị, quân sự đến ngoại giao, chúng ta
phải giải quyết hài hòa, phù hợp với tình hình thực tế. Nhìn lại lịch sử của 14 cuộc
chiến tranh ngoại bang xâm lược nước ta thì có 12/14 cuộc chiến tranh Việt Nam
chống các triều đại phong kiến Trung Quốc. Tuy nhiên, sau các lần chiến tranh, mặc
dù chúng ta giành thắng lợi nhưng ông cha ta vẫn giữ hòa hiếu, tôn trọng Trung
Quốc. để yên ổn làm ăn, phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta nên học tập kinh
nghiệm quý báu đó.


23
Trong chiến thắng thì thượng sách là giữ vững hòa bình, bất đắc dĩ mới phải
dùng đến chiến tranh. Quan điểm của Đảng ta là “khép lại quá khứ, nhìn về tương
lai”, coi họ là bạn, là đối tác và đẩy mạnh hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền, hai bên cùng có lợi đó là vấn đề có tính nguyên tắc.
Thứ hai, Mỹ là nước lớn, đối tác toàn diện. Bản chất của mọi mối quan hệ
chính trị là kinh tế. Kinh tế quyết định chính trị. Mỹ là cường quốc số 1 về khoa học
công nghệ. Vì vậy, quan điểm ta phải cứng rắn, giữ vững nguyên tắc nhưng cần mềm
dẻo, linh hoạt.
Thứ ba, đối với các nước ASEAN: cần phát huy vai trò của Việt Nam trong
khối ASEAN, coi trọng mối quan hệ Việt Nam - Lào Cămpuchia, vì đó là yếu tố
truyền thống, lịch sử, liên quan trực tiếp đến Việt Nam.


KẾT LUẬN
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề quy luật của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Ngày nay, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng trở nên quan
trọng và cấp bách, là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam,
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.


24
Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi
hòi phải không ngừng nắm vững bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước hay các yếu
tố tác động đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; những bất ổn ở nhiều nước, mối quan hệ
của các nước lớn, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Đây là cơ sở quan
trọng để Đảng ta đề ra các quan điểm, nội dung, yêu cầu và những phương hướng,
giải pháp cơ bản của chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không chỉ đòi hỏi mỗi cán bộ,
đảng viên, giảng viên, học viên phải nắm chắc và quán triệt đường lối, quan điểm
của Đảng vào sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng đơn vị hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị của mình mà còn phải không ngừng đấu tranh, phê phán các quan điểm
thù địch sai trái về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giương cao ngọn cờ
của Đảng trong từng nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ
cững chắc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương, Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù
địch, H.2005.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù
địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H.2007.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 4 Nxb CTQG, H.1995



25
4. Cách mạng trong quân sự và những vấn đề đặt ra đối với quốc phòng Việt
Nam, Nxb CTQG, H.2010
6. Chỉ thị số 34-CT/TW, Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường cuộc đấu tranh
chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực, tư tưởng văn hóa….
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đạo biểu toàn quốc của Đảng
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đạo biểu toàn quốc của Đảng
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đạo biểu toàn quốc của Đảng
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011
10. V.I.Lênin toàn tập, tập 36, Nxb TB, M.1976.
11. Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị Quốc gia, H.2010.
12. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nxb Chính trị Quốc gia,
H.2003.
13. Viện khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới - Một số vấn đề lý luận, Nxb QĐND, H.2003.
14. Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, Ngày 13-7-2007.
15. Viện khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Nxb QĐND, H.2007
16. Viện khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Một số vấn đề về chiến tranh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc XHCN trong điều kiện mới. Nxb QĐND, H.2002.
17. Võ Nguyên Giáp, Bài giảng về Đường lối quân sự của Đảng, Nxb Viện Khoa
học quân sự, H.1974.



×