Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH ĐỊNH HƯỚNG xây DỰNG và PHÁT TRIỂN văn hóa TRONG sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.64 KB, 20 trang )

1
MỞ ĐẦU
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội và mỗi quốc gia dân tộc đều gắn liền với
một nền văn hóa. Khi các điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi thì văn hóa cũng
có sự thay đổi theo. Trong mối quan hệ này văn hóa có sự tác động trở lại một
cách tích cực, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và sự
tiến bộ của xã hội. Nếu quốc gia nào biết phát huy những giá trị văn hóa bền
vững của dân tộc và những giá trị văn hóa tiên tiến của thế giới trong phát
trình phát triển kinh tế - xã hội thì đó là phương cách hữu hiệu để rút ngắn
con đường phát triển của đất nước và hòa nhịp với xu hướng của thời đại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cùng với việc không
ngừng bổ sung, phát triển tư duy lý luận về chính trị, kinh tế, xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về vị trí,
vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và sự phát triển của đất
nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng, vai trò to lớn của văn hóa, con người
trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước gần 30
năm qua, quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiều
quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển văn hóa, xây dựng
“con người xã hội chủ nghĩa”. Những thành quả to lớn của công cuộc xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người đã góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1. Tính tất yếu của xây dựng và phát triển văn hóa trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ tính chất toàn diện và triệt để của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa nghĩa Mác – Lênin, đây là cuộc cách
mạng xã hội diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, tư tưởng văn hóa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi tận



2
gốc rễ từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất: từ cơ sở hạ tầng đến kiến
trúc thượng tầng xã hội; từ đời sống chung của toàn xã hội đến cuộc sống
riêng tư của mỗi cá nhân... nhằm thay đổi cả phương thức sản xuất và hình
thái kinh tế - xã hội cũ bằng phương thức sản xuất và hình thái kinh tế xã hội
mới - ưu việt hơn, tiến bộ hơn. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
giai cấp công nhân và đội tiền phong là đảng cộng sản phải không ngường
nhận thức, cải biến về tư tưởng văn hóa nhằm tạo ra sự ngày càng phù hợp
với phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Tuyên Ngôn của
Đảng Cộng sản”, C.Mác, Ph.Ăngghen đã viết: “Lịch sử tư tưởng chứng minh
gì, nếu không phải là chứng minh rằng sự sản xuất tinh thần cũng biến đổi
theo sự sản xuất vật chất”1
Xuất phát từ vai trò của vấn đề tư tưởng, văn hóa đối với sự hình thành,
phát triển, giữ vững hệ tư tưởng nền tảng chi phối sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa xã hội, đó là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. C.Mác,
Ph.Ăngghen từng khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của một thời đại
bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”. Đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng văn hóa còn là một mặt trận trong cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp công nhân. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lĩnh vực
văn hóa thực sự là một lĩnh vực diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và là
một nội dung quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải
tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng
nhân dân thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức lạc hậu của xã hội cũ, xóa bỏ
những thói hư, tật xấu, cái thấp hèn, tình trạng áp bức, bất bình đẳng để đưa
quần chúng nhân dân trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa tinh thần. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất
yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, khắc phục tình
trạng thiếu hụt văn hóa, tạo điều kiện để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng

1 C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tr.625


3
cao trình độ và nhu cầu văn hóa của nhân dân. Song không phải ngay một lúc
nhân dân lao động có thể vươn lên trình đọ làm chủ hoàn chỉnh mà mà đó là
một quá trình nhận thức, cải biến và xây dựng nền một văn hóa mới.
Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa còn nhằm xây dựng hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân, một lối sống cao đẹp, tạo điều kiện cho các
nhân tố xã hội mới phát triển, đây là vấn đề cơ bản, cốt yếu để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Bởi lẽ, nếu không xây dựng được hệ tư tưởng đó trong toàn xã
hội thì không thể nâng cao văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân. Nhất
là đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế phát
triển thấp thậm chí nghèo nàn, lạc hậu như nước ta không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa thì những ảnh hưởng tàn dư của xã hội cũ càng phức
tạp, nặng nề hơn. Trong điều kiện cách mạng nước ta hiện nay, nhận thức,
phát triển tư duy lý luận về văn hóa của Đảng là nội dung quan trọng góp
phần giữ vững ổn định chính trị, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản theo chủ
nghĩa Mác - Lênin là thỏa mãn nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân lao động. Nhận thức và giải quyết tốt vấn đề văn hóa góp phần nâng
cao trình độ văn hóa, trình độ giác ngộ cách mạng, ý thức đạo đức xã hội chủ
nghĩa, tạo điều kiện để phát triển toàn diện con người. Đó là sức mạnh cần
thiết để giai cấp công nhân và đông đảo các tang lớp nhân dân lao động chiến
thắng nghèo nàn và lạc hậu. Sự phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, là nhân tố quan trọng để cải tạo xã hội cũ xây dựng
xã hội mới. Đó còn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ,
đáp ứng yếu cầu đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từ thực tiễn nhận thức về văn hóa và vai trò của văn hóa đối với tiến
trình cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi ra đời lãnh đạo cách mạng, theo tiến
trình của lịch sử, Đảng ta đã quan tâm đến văn hóa, phát triển văn hóa và


4
không ngừng đổi mới tư duy lý luận về văn hóa. Trên thực tế, qua từng thời
kỳ, từng giai đoạn lịch sử tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta đã có sự phát
triển nhiều mặt; Đó là cơ sở, yếu tố quyết định làm cho nhận thức về văn hóa
của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân
dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản
phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ
thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều
phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát
huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa
hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây
dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được
bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số
được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và
sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà
nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn
thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền
tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về
văn hóa có nhiều khởi sắc.
Để có được kết quả đó là do Đảng ta đã từng bước nhận thức và và
ngày càng hoàn thiện tư duy lý luận về văn hóa, làm cho văn hóa thực sự trở
thành động lực quan trọng của cách mạng. Cuối tháng 2-1943, Đảng ta đã ban
hành “Đề cương văn hóa Việt Nam” nhằm gây dựng một phong trào văn hóa
tiến bộ, chống lại văn hóa phát xít phi nhân văn, phản động. Sau khi cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Tổ quốc thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Tiến hành đồng
thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa
học - kỹ thuật, cách mạng về tư tưởng và văn hóa”…


5
Từ những bất cập, hạn chế trên lĩnh vực văn hóa và yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi Đảng ta phải
luôn tích cực, chủ động đổi mới tư duy về văn hóa. So với những thành tựu
trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu
trong lĩnh vực văn hóa chưa thực sự tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu
quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có
chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn,
đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa
với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường
văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong
mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Hoạt động lý luận,
phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được
ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học,
gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ
quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơ
chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động,
quản lý các nguồn lự c cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế
văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu,
có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch,
đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng

bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động
tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều
cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo
chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn
chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản


6
lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm
chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn
hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề
mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng
mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực
văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Xuất phát từ tình hình thực tế xã hội của đất nước vào thập niên 80 của
thế kỷ trước; xuất phát từ những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế xã hội của Đảng, xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của lý luận
Mác - Lênin, đứng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới cũng
như tác động của “cải cách, mở cửa” hay “cải tổ” đang diễn ra ở một số nước
xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi chúng ta “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy”,
đổi mới tư duy lý luận về văn hóa không ngoài quy luật đó. Trong sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi tư duy lý
luận về văn hóa của Đảng luôn phải sắc bén, kịp thời đáp ứng được hơi thở,
nhu cầu của thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những bước phát triển
mới trong tư duy lý luận về văn hóa, về xây dựng và phát triển nền văn hoá;
quan niệm về phát triển, về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển và vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Những thách thức đối với lĩnh vực văn hóa trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và kinh
tế tri thức phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa diễn ra từng ngày, từng giờ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong những thập kỷ gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất, phân công lao động quốc tế, thương mại thế giới và đặc biệt là cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự ra đời các công ty xuyên quốc


7
gia, các thể chế kinh tế toàn cầu đã nảy sinh và thúc đẩy quá trình toàn cầu
hóa. Toàn cầu hóa đã trở thành xu thế khách, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia. Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về toàn cầu hóa, song có
hiểu theo nghĩa chung nhất toàn cầu hóa là quá trình xã hội hóa lực lượng
sản xuất trên phạm vi quốc tế, các quan hệ kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, dân tộc lan tỏa ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hóa, dịch vụ, vốn,
tiền tệ, thông tin, lao động… vận động thông thoáng; sự phân công lao động
mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực quốc tế
đan xen, tùy thuộc lẫn nhau, hình thành các cộng đồng kinh tế, chính trị mà ở
đó ý nghĩa biên giới quốc gia ngày càng giảm dần
Toàn cầu hóa tác động sâu rộng đến kinh tế - văn hóa - xã hội:
Các lực lượng tham gia toàn cầu hóa bao gồm: hàng trăm quốc gia, dân
tộc, với nhiều trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội khác nhau, chế độ
chính trị không giống nhau: Các nước tư bản phát triển, các nước đang phát
triển, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các nước đang phát triển tham gia toàn cầu hóa để có cơ hội phát triển
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Các nước xã hội chủ nghĩa và định hướng xã
hội chủ nghĩa chủ động hội nhập để tranh thủ những mặt có lợi trên thị trường
thế giới, phục vụ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các

nước phát triển.Các nước tư bản chủ nghĩa lợi dụng toàn cầu hóa để tiếp tục
phát triển đồng hóa và áp đặt văn hóa - xã hội với phần còn lại của thế giới.
Do vậy, xu thế toàn cầu hóa đang tác động sâu sắc đến tất cả các nước theo
hai chiều tích cực, tiêu cực và luôn tồn tại 2 chiều hướng hợp tác và đấu tranh.
Đối với lĩnh vực văn hoá: sự giao lưu quốc tế rộng rãi trên cơ sở của
phát triển kinh tế toàn cầu cũng có những tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn
hóa. Cùng với việc phục hồi, phát huy các giá trị văn hoá; nền văn hoá Việt
Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của nền văn hoá thế giới và ngày
càng trở nên đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, cùng với những tác động tích


8
cực, toàn cầu hoá cũng gây ra những hệ quả tiêu cực đối với nền văn hoá Việt
Nam như: một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ;
một số người thay đổi nhanh chóng lối sống, tha hoá đạo đức,…
Thách thức của toàn cầu hoá đối với văn hoá đó là toàn cầu hoá theo
kiểu áp đặt giá trị nước lớn đối với hệ giá trị của nền văn hoá nước nhỏ, đó là
sự xâm lăng về văn hoá làm méo mó, biến dạng tính toàn vẹn của nền văn hoá
truyền thống hình thành nên một nền văn hoá hỗn tạp, gây ảnh hưởng lớn đến
đời sống tinh thần của nhân dân làm cho đời sống tinh thần mất ổn định, các
giá trị văn hoá truyền thống bị tổn thương, ảnh hưởng tới nền văn hoá và sự
phát triển của các quốc gia dân tộc. Nguy hại hơn với xu thế toàn cầu hoá hiện
nay có thể gây ra nguy cơ bị huỷ diệt các nền văn hoá nhỏ, nếu như các nền
văn hoá này không có sự bảo vệ, chống sự xâm nhập về văn hoá mang tính
tiêu cực từ bên ngoài.
Toàn cầu hóa đã tạo ra những điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực của
đời sống xã hội phát triển như: sự tràn lan của chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa
kinh tế, chủ nghĩa kỹ trị, sự du nhập lối sống xa lạ với giá trị truyền thống văn
hoá dân tộc, thậm trí cả lối sống đồi truỵ, nạn ma tuý, mại dâm và lây nhiễm
căn bệnh thế kỷ. Những hiện tượng đó không chỉ ảnh hưởng tới đời sống vật

chất, thể chất của con người, mà còn ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục, nhân
phẩm của con người, ảnh hưởng tới tính cách phong thái đặc sắc của mỗi nền
văn hoá. Quá trình mở cửa, giao lưu văn hoá, hợp tác làm ăn đã tác động làm
thăy đổi những giá trị truyền thống, nảy sinh tư tưởng sùng ngoại, quay lưng
với quá khứ dân tộc vv. Vì vậy bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống văn hoá
tốt đẹp đang đứng trước nguy cơ bị hoà tan, sói mòn. Chính vì vậy, những
nguy cơ, thách thức do toàn cầu hoá đem lại như một biến tướng của chủ
nghĩa độc tài, chủ nghĩa phân biệt văn hoá xã hội, nó đe doạ sự ổn định về
kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội, nó tấn công vào chủ quyền quốc gia dẫn
đến nguy cơ mất đường biên giới giữa các quốc gia, làm hoà tan, sói mòn,


9
thăy đổi những giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá truyền thống của các dân
tộc.
Tính hai mặt của quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra trước các quốc gia
những thử thách mới đó là: Hoặc là hội nhập để thích nghi tồn tại, hoặc là
đóng cửa không hội nhập để bảo vệ nền văn hoá dân tộc, để rồi bị bỏ dơi, bị
tụt hậu.
Thực tiễn hiện nay trước xu thế toàn cầu hoá đã thu hút hàng loạt nước
phát triển làn sóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hai hướng:
Thứ nhất: Nhiều nước ở châu Phi, Mỹ- la tinh thực hiện công nghiệp
hoá , hiện đại hoá theo kiểu “phương tây hoá”, tức thiên về lý thuyết phát
triển ngoại sinh. Và tất nhiên, cùng với sự phụ thuộc ngày càng lớn về vốn,
thiết bị, kỹ thuật, nguyên vật liệu…là sự xâm lược thô bạo của các giá trị và
lối sống phương Tây làm cho hệ giá trị tinh thần truyền thống bị biến dạng.
Đó chính là sự “dứt đoạn” của văn hoá dân tộc khiến cho các nước này rơi
vào tình trạng rối loạn và thụt lùi.
Thứ hai: nhiều nước châu á đã tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong sự kết hợp( ở mức độ khác nhau) giữa các yếu tố ngoại sinh (vốn, kỹ

thhuật, kinh nghiệm quản lý…) với yếu tố nội sinh (kế thừa, phát huy các giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc…) đã đạt được những thành thựu đáng
kể. Như ở Nhật Bản quá trình hội nhập đã được nhà kinh tế học Mi-xi-ô Miri-si-ma khái quát thành công thức: “ Kỹ thuật phương tây+ đạo lý Nhật
bản”. Còn ở Xin-ga-po quá trình hội nhập được thực hiện chủ yếu trên 5 cơ
sở chuẩn mực chung về giá trị văn hoá- đạo đức: thứ nhất, quốc gia trên hết,
xã hội trước hết. Thứ hai, gia đình là nguồn gốc, xã hội là cơ bản. Thứ ba,
quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, cùng thuyền cứu nhau. Thứ tư, cầu đồng tồn dị,
cùng nhau bàn bạc để có nhận thức chung. Thứ năm, chủng tộc hoà hợp tôn
giáo “khoan dung”. Hàn quốc, mặc dù phải giải quyết những khó khăn về
kinh tế, song không thể phủ nhận thành công của họ với nền kinh tế đứng thứ
11 trên thế giới. Nguyên nhân chính của thành công này, theo nhiều nhà


10
nghiên cứu Hàn quốc, là do sự tác động tích cực của vă hoá Khổng giáo, và
người Hàn quốc biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân
tộc. Từ những bài học trên ta thấy rằng mỗi quốc gia dân tộc không thể tự
đóng cửa, tự mãn về nền văn hoá của mình mà không chịu đón nhận nền văn
hoá của nhân loại. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão thì xu hướng toàn cầu hoá
là xu hướng tất yếu khách quan để tồn tại và phát triển, mặc dù trong đó chứa
đựng những ý đồ bá chủ, thống lãnh thế giới của một số nước Phương tây đặc
biệt là Mỹ, cũng như ảnh hưởng sấu trên mọi phương diện. Song không vì thế
mà các quốc gia, dân tộc lại tự tách mình ra khỏi trào lưu chung của thời đại
là hội nhập để phát triển. Tuy nhiên tham gia quá trình hội nhập như thế nào,
phải tìm ra những biện pháp gì để khắc phục ngăn ngừa những mặt tiêu cực,
những nguy cơ và thở thách của toàn cầu hoá tác động sấu tới nền kinh tế, văn
hoá xã hội, tinh thần cũng như không cho nó trở thành phương tiện thực hiện
ý đồ bá chủ của Mỹ và chủ nghĩa tư bản phương tây, đó là vấn đề phưc tạp đặt
ra cho tất cả các nước khi tham gia hội nhập toàn cầu hoá hiện nay.

Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam cũng đang chịu sự tác
động ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá. Đây cũng là cơ hội cho các quá
trình Việt Nam hội nhập, đẩy nhanh quá trình phát triển để theo kịp với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ những thách thức về kinh tế và xã hội nảy sinh ra những thách thức
không nhỏ về văn hoá. Trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay, sự lo ngại về
khả năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo ngại chung của các nước
đang phát triển. Một số học giả cho rằng những luồng văn hoá này đang bị
mất cân bằng, do những luồng văn hoá từ những nước giầu di chuyển sang
nước ngèo. Người ta cũng nói nhiều đến thứ “hàng hoá không trọng lượng”
với hàm lượng tri thức và văn hoá trong đó, chứ không phải hàm lượng vật
chất… Nhờ mạng lưới thông tin đại chúng trên toàn cầu, công ngệ truyền
thông qua vệ tinh, những phương tiện thông tin đại chúng khác có sức lan toả


11
lớn những “hàng hoá không trọng lượng” này ( bao gồm cả những mặt tốt và
mặt xấu) dễ ràng thâm nhập, tác động vào nền văn hoá dân tộc dần dần làm
mất đi những bản sắc văn hoá dân tộc vốn đã tồn tại hàng ngàn năm.
Rõ ràng sự lo sợ đánh mất bản sắc văn hoá, mất những giá trị truyền
thống là có cơ sở. ở nước ta hiện nay Đảng và nhà nước rất quan tâm tới việc
giữ gìn bản sắc văn hoá dận tộc. Bởi lẽ Việt Nam là một nước có nền văn hoá
lâu đời, trải qua hàng ngàn năm, nhưng những bản sắc truyền thống văn hoá
tốt đẹp vẫn trường tồn cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc. Trong suốt
quá trình lịch sử nền văn hoá Việt Nam không những không bị mất đi những
giá trị bản sắc tốt đẹp vốn có của mình mà nó còn tiếp thu, bổ xung và ngày
càng được hoàn thiện hơn bởi các nền văn hoá nước ngoài như văn hoá Trung
Hoa, văn hoá Nga, văn hoá Pháp và cả văn hoá Mỹ... Mặc dù vậy trong xu thế
toàn cầu tham gia hội nhập hiện nay, không ai và không có gì để đảm bào
rằng, con người Việt Nam sẽ không làm mất bản sắc văn hoá, lối sống của

mình.
Những thách thức mà Việt Nam đang gặp trong quá trình hội nhập, là
rất lớn nhưng không có nghĩa là chúng ta đóng cửa để từ bỏ con đường hội
nhập với thế giới. Mặt khác, cũng như các quốc gia khác Việt nam không thể
hội nhập với bất cứ giá nào, không thể vì phát triển kinh tế thuần tuý, mà vứt
bỏ đi các thang giá trị xã hội, những bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp
từng tồn tại cùng với dân tộc trải qua hàng ngàn năm văn hiến.
3. Định hướng xây dựng nền văn hóa của Việt Nam trongthời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
Đặc điểm của hệ giá trị văn hóa dân tộc và con người bao giờ cũng
phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ quát
toàn nhân loại với cái đặc thù, riêng biệt, cái thống nhất và cái đa dạng. Tuy
nhiên, sự phản ánh những mối quan hệ này trong từng thời kỳ lịch sử và ở
mỗi quốc gia, dân tộc có những biểu hiện khác nhau. Những biểu hiện khác


12
nhau này do hoàn cảnh lịch sử quy định và đặc biệt chịu sự tác động của hệ tư
tưởng chính trị định hướng.
Nguyên tắc cơ bản để xây dựng định hướng giá trị văn hóa và con
người là phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể. Đồng thời, hệ giá trị văn hóa và con người phải được xây dựng
trên nguyên tắc kiến thức và phát triển, nguyên tắc kết hợp giữa cái nội sinh
và cái ngoại sinh, giữa mong muốn chủ quan có tính lý tưởng và điều kiện
thực hiện, giữa ý chí của cán bộ lãnh đạo và sự đồng thuận của toàn xã hội.
Định hướng giá trị văn hóa và con người phải xuất phát từ mong đợi của
người dân về điều kiện, khả năng thực hiện của chính họ. Do đó, nó phải
mang tính dân chủ, minh bạch, phổ quát, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ hành động, dễ
kiểm tra và đánh giá.
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương

5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết số 33 NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 9, khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định định
hướng giá trị của nền văn hóa Việt Nam là: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Bốn giá trị mà Đảng ta đã nhấn mạnh trong quá trình xây dựng và phát triển
nền văn hóa là “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Đây là bốn giá trị
có ý nghĩa khái quát, vừa phản ánh được mối quan hệ biện chứng giữa cái dân
tộc và cái quốc tế, cái riêng và cái chung, cái phổ biến và cái đặc thù, vừa kế
thừa và phát huy được giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu được
tinh hoa văn hóa của thời đại trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Về giá trị định hướng của con người Việt Nam hiện nay, Nghị quyết
Trung ương 9 đã xác định: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con


13
người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa,
trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với
các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo.
Đảng ta xác định xây dựng nền văn hoá Việt Nam theo hướng “tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là định hướng đồng thời cũng là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược quyết định đến sự phát triển của văn hoá Việt Nam trong
quá trình hội nhập. Nó đặt văn hoá Việt Nam đối thoại với văn hoá phương
tây, và các nền văn minh khác trên thế giới chứ không phải trong trạng thái
đối lập. Làm cho văn hoá nước ta phát triển trên cơ sở tiếp thu những giá trị
văn hoá hiện đại, vừa giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của đất nước.

Định hướng tiên tiến của văn hoá dân tộc đó là: Việt Nam sẵn sàng
tiếp nhận, tiếp thu những cái hăy cái tiến bộ trong văn hoá phương Tây và các
nền văn hoá khác phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất
nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền dân
chủ và sự phát triển tự do của con người Việt Nam. Nhờ đối thoại và tiếp thu,
văn hoá Việt Nam sẽ khắc phục được những hạn chế của phương án tách rời
giữa công nghệ tiến hiện đại của phương tây với những giá trị tinh thần vốn
có của dân tộc để phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Định hướng phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong việc xây dựng
nền văn hoá mới, tiên tiến: Cho phép chúng ta khắc phục được xu hướng tây
hoá toàn bộ, biến văn hoá dân tộc thành cái bóng mờ nhạt của văn hoá
phương tây, từ đó phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, phát huy
khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Định hướng phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là điều kiện để
xây dựng nền văn hoá tiên tiến. Và ngược lại việc xây dựng nền văn hoá tiến


14
làm phong phú thêm tính đa dạng của văn hoá dân tộc, làm cho văn hoá dân
tộc phát triển theo kịp với xu hướng hội nhập trong thời đại hiện nay.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định:
“Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc
biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc… tiếp thu tinh
hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm văn hoá Việt Nam”2.
Đây là sự đảm bảo về mặt văn hoá để Việt Nam nắm lấy cơ hội của toàn cầu
hoá, mở cửa tiếp nhận những giá trị tốt đep của văn hoá phương Tây và các
nền văn hoá khác trên thế giới, vừa làm giầu vừa bảo vệ và phát huy được các
giá trị truyền thống, lối sống Việt Nam. Đồng thời giới thiệu được với bên
ngoài những giá trị và sự độc đáo của văn hóa Việt Nam góp phần xây dựng

nền văn hoá toàn cầu thống nhất và đa dạng.
Bản sắc văn hoá Việt Nam đang đứng trước nguy cơ, những tác động
tiêu cực của xu thế toàn cầu hoá và cơ chế thị trường. Sau hơn 20 năm mở cửa
đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường, đất nước mở cửa-hội nhập, trên tất cả
các mặt : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đều có những bước phát triển
mạnh mẽ, nhưng cũng cần thấy rằng ở khía cạnh nào đó, trong đời sống xã
hội có những biểu hiện đáng lo ngại. Đó là việc xuất hiện và phát triển một
cách tự phát hai khuynh hướng trái ngược nhău: ở thành thị, đang có một bộ
phận dân cư lãng quên dần truyền thống, xem nhẹ văn hoá dân tộc, sống chỉ
vì tiền và cùng với tình trạng đó là sự sói mòn về đạo đức, sự gia tăng các tệ
nạn xã hội . ở nông thôn có xu hướng khôi phục lại tất cả các lễ hội, thậm trí
cá biệt có trường hợp khôi phục cả những hủ tục, truyền thống lạc hậu lỗi thời
như đình đám, ma chay, mê tín dị đoan, rượu chè cờ bạc… Trên lĩnh vực văn
hoá đã gây nhiều mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội: đó là sự suống cấp
nghiêm trọng của đạo đức, lối sống của một bộ phận quần chúng nhân dân với
biểu hiện thực dụng chạy theo đồng tiền, chạy theo thị hiếu tầm thường, tệ
sùng bái ngoại coi thường giá tri văn hoá truyền thống dân tộc, không tính
2 Văn kiện Đại hội nĐảng toàn quốc lần thứ VIII, NxbCTQG, H1996, tr111.


15
đến quan hệ giữa con người với con người, giữa các thành viên trong gia
đình, xóm làng, ngõ phố… Các tệ nạn xã hội và các hủ tục mê tín dị đoan
phát triển, văn hoá phẩm độc hại kích động bạo lực, tình dục tràn lan từ đó
xuất hiện những khuynh hướng phủ nhận quá khứ, thương mại hoá hoạt động
văn hoá.
Từ thực trạng trên cảnh báo chúng ta thấy rằng: không nghi ngờ gì nữa,
việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, đạo đức, bản sắc
dân tộc trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay vừa là vấn đề cấp bách, vừa có ý
nghĩa chiến lược lâu dài đòi hỏi phải có sự quan tân giải quyết của toàn Đảng,

toàn dân và toàn quân ta, để đưa giá trị văn hoá thẩm thấu sâu vào mọi lĩnh
vực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để bảo vệ
và phát huy giá trị văn hoá “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” chúng ta phải
quán triệt tốt các nguyên tắc sau:
Một là: giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống là một đòi
hỏi bản thân cuộc sống, của sự tồn vong của quốc gia dân tộc trong tiến trình
hội nhập. Do vậy phải tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hoá, nhưng
một mặt phải giữ gìn và bảo vệ những giá trị văn hoá, lối sống Việt Nam.
Chống những biểu hiện tả khuynh dơi vào thái cực bảo thủ , không chịu thăy
đổi cho phù hợp với điều kiện lịch sử đã thăy đổi. Hoặc tư tưởng hữu khuynh,
vứt bỏ hết những giá trị văn hoá truyền thống đân tộc để xây dựng một nền
văn hoá lai căng hỗn tạp chạy theu xu thế hội nhập thuần tuý. Chấn hưng văn
hoá dân tộc, phải đảm bảo sự ổn định đời sống tinh thần của xã hội, hội nhập
nhưng không hoà tan đó cũng là sự chuẩn bị cho sức mạnh văn hoá dân tộc
bước vào hội nhập.
Hai là: Phát huy nội lực của nền văn hoá bản sắc dân tộc, trong việc
mở rộng giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới. Chủ động tiếp thu
những giá trị tinh hoa văn hoá nhân loại làm phong phú thêm đời sống văn
hoá tinh thần cho nhân dân. Đồng thời cũng phải kiên quyết ngăn chặn những


16
luồng văn hoá sấu độc, phản động, đồi truỵ thâm nhập vào nước ta làm cho
đạo đức xã hội suống cấp, lối sống xuy đồi, băng hoại các giá trị truyền thống
dân tộc.
Ba là: Trong giao lưu, hội nhập văn hoá, phải tích cực chống âm mưu
đồng hoá, xoá nhoà bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc. vì toàn cầu hoá vừa
là cơ hội vừa là thách thức, vượt qua thách thức về văn hoá thì chúng ta
không đánh mất mình mà còn làm phong phú thêm cho đời sống riêng của

cộng đồng dân tộc.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo trên
trong giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc và xây dựng nền văn hoá
mới khắc phục những hạn chế yếu kém đang sẳy ra trong lĩnh vực văn hoá
tinh thần ở nước ta, gây tác động tiêu cực và ảnh hưởng không nhỏ đối với
việc phát triển kinh tế xã hội và các lĩnh vực khác cũng như sự trường tồn của
dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá. Với những thách thức lớn trên, chúng ta
cần thực hiện một số giải pháp có tính định hướng đó là:
-Tuyên truyền giáo dục tư tưởng, văn hoá, đạo đức lối sống cho toàn xã
hội đặc biệt là thế hệ trẻ. Thực tế vấn đề này trong thời gian qua chưa được đề
cao, hiệu quả còn thấp, nên sự nhận thức , hiểu biết của các đối tượng nhất là
thế hệ trẻ còn khoảng trống. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng
ta còn thiên về tăng trưởng kinh tế, chưa tập trung đầu tư cho lĩnh vực văn
hoá, đạo đức xã hội cho nên sự phát triển của xã hội có phần mất cân đối,
chưa đảm bảo cho sự phát triển bền vững và tiến bộ. Để giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hoá truyền thống giầu bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay
trước hết phải coi trọng và quan tâm một cách thực sự công tác tuyên truyền
giáo dục, bao gồm giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội một cách
đồng bộ. Nội dung giáo dục tuyên truyền toàn diện, phong phú cả về tri thức,
cả phẩm chất đạo đức, chính trị tư tưởng , nhân cách, nhận thức được giá trị
nhân ái, truyền thống văn hoá dân tộc vv. để từ đó không ngừng nâng cao tính


17
tự giác trong tu dưỡng rèn luyện và học tập của mỗi bản thân và cả cộng đồng
về lĩnh vực văn hoá dân tộc đầy bản sắc và giầu truyền thống.
- Tạo môi trường thuận lợi để giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hoá, đạo đức truyền thống, bản sắc dân tộc. Những giá trị văn hoá, đạo đức
truyền thống, bản sắc dân tộc là của cộng đồng dân tộc, nhưng chủ thể gắn
liền với nó là các cá nhân, các nhóm, các tập thể lớn hăy nhỏ trong cộng đồng

dân tộc. Nếu những giá trị đó biểu hiện ra một cách không đồng đều giữa
những cá nhân, các nhóm hay tập thể khác nhau, trong điều kiện môi trường
khác nhau, thì sự phát triển của các thang giá trị văn hoá ở mỗi con người là
khác nhau. Vì vậy quan tâm xây dựng môi trường xã hội của cá nhân, tập thể
và cộng đồng lành mạnh, sẽ giữ gìn tốt được các giá trị văn hoá, đạo đức
truyền thống, bản sắc dân tộc phục vụ cho việc phát triển con người mới xã
hội chủ nghĩa và đời sống tinh thần hiện nay.
- Kết hợp văn hoá truyền thống với giá trị tinh hoa văn hoá nhân loại.
giữ gìn và phát huy những giá tri truyền thống văn hoá dân tộc chính là làm
phong phú thêm nội dung của nó trong thời đại mới, đem sức mạnh văn hoá
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong hệ giá
trị đời sống tinh thần truyền thống Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước vào một
trong những bậc thang giá trị cao nhất. Nếu như trước kia, chủ nghĩa yêu
nước thể hiện ở tinh thần đoàn kết, ý trí quyết tâm chiến thắng kẻ thù để giành
độc lập tự do cho dân tộc; thì ngày nay nó thể hiện ở tinh thần đoàn kết, ý chí
phấn đấu kiên cường để chiến thắng ngèo nàn, lạc hậu, làm cho “dân giầu
nước mạnh”. để thực hiện điều này đòi hỏi con người không chỉ có ý thức
kiên cường, lòng dũng cảm, mà còn phải có tri thức khoa học, tính năng động
sáng tạo, đạo đức nhân văn, ý thức pháp luật, tinh thần kỷ luật và phong cách
công nghiệp. Chính vì vậy việc kết hợp tinh hoa văn hoá nhân loại với các giá
trị truyền thống, hình thành nên hệ giá trị mới là yêu cầu khách quan trong
quá trình hội nhập hiện nay.


18
Như vậy vấn đề phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hoá
không chỉ ở nước ta mà tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm. Ngay kể
cả ở những nước phát triển nhất, người ta cũng rất chú ỷ đến việc giữ gìn văn
hoá truyền thống dân tộc mình. Khi sự giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị trên
thế giới phát triển mạnh mẽ, khi kỹ thuật thông tin đại chúng mở rộng khắp

hành tinh, thì việc giữ lại bản sắc dân tộc trong văn hoá và lối sống càng trở
nên khó khăn phức tạp. Chủ chương của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến
nay đều nhất quán và đúng đắn: tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới và
phát huy bản sắc dân tộc tốt đẹp để xây dựng nền văn hoá và lối sống dân tộc
hiện đại . Đó là hai quá trình được tiến hành song song, tiếp thu những tinh
hoa thế giới có nghĩa là chỉ ra nhập những yếu tố tiến bộ, tích cực phù hợp với
lối sống của con người Việt Nam, loại trừ những yếu tố tiêu cực hoặc không
phù hợp với bản sắc dân tộc Việt Nam. Để đưa công cuộc đổi mới bước sang
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặc biệt là trước
những thử thách do toàn cầu hoá đem lại chúng ta không thể không tăng
cường gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “nhân dân ta đã có sẵn những giá trị
truyền thống tốt đẹp, những giá trị văn hoá giầu bản sắc… chúng ta cần phải
phát huy những giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc ấy. Và đồng
thời biết gạn bỏ những cái lỗi thời lạc hậu, gan đục khơi trong phát huy
những giá trị văn hoá tinh hoa của dân tộc và nhân loại để xây dựng một xã
hội tốt đẹp”.
Quân đội ta với vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy truyền
thống, bản sắc các giá trị văn hoá dân tộc. Quân đội là một trường học lớn để
rèn luyện những con người mới xã hội chủ nghĩa, với phẩm chất “Bộ đội cụ
Hồ”, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đó làsự kết
tinh nhuần nhuyễn giữa bản sắc văn hoá truyền thống Việt Nam với những
tinh hoa của thời đại, cho đến ngày nay nó càng được bổ xung và phát triển.


19
Ngày nay quân đội tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh
tế, văn hoá xã hội xoá đói giảm ngèo, phòng chống các tệ nạn xã hội. Đó cũng
chính là xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần giữ

gìn các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F.Mayor cũng nhấn mạnh: “Kinh
nghiệm của hai thập kỷ qua cho thấy rằng trong mọi xã hội ngày nay, bất luận
ở trình độ phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và
phát triển là hai mặt gắn liền với nhau... Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục
tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra
những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng
sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính đòi
hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng.
Để phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta cần phải tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã
hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể quần chúng, các đơn vị, tổ chức cơ sở, các gia đình, trong từng cán
bộ đảng viên, công chức, viên chức, hội viên, các bậc cha mẹ, các thầy cô
giáo.
Văn hóa là của con người, do con người, vì con người. Do vậy, trong
mỗi bước phát triển, trong từng chính sách, Đảng phải luôn chú trọng thực
hiện tốt chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất, là sức mạnh nội sinh của
dân tộc Việt Nam. Cần coi đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền
tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Phải gắn chặt nhiệm vụ phát triển văn hóa với nhiệm vụ xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước,


20
tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh"
Việc tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc, đầy đủ, nhất là những vấn đề

phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn
hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trên cơ sở đó tổ chức thực
hiện tốt mọi chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa sẽ góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.



×