Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế XUẤT KHẨU HÀNG THỦY sản VIỆT NAM vào THỊ TRƯỜNG mỹ THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.48 KB, 135 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một
hoạt động quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định
đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, việc
đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói
riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của mỗi quốc gia, nhất là với những
nước đang phát triển như Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: "Nhà nước khuyến khích xuất khẩu, nhất là các mặt
hàng chủ lực có lợi thế so sánh..." và "Nhà nước có chính sách khuyến khích
mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ..." [17, tr. 199].
Thủy sản là mặt hàng chủ lực có lợi thế của Việt Nam, trong hơn thập
kỷ qua đã thu được nhiều thành công rực rỡ. Từ mức 550,5 triệu USD xuất
khẩu vào năm 1995 thì đến năm 2004 đã đạt 2,4 tỷ USD. Mỗi năm bình quân
tăng trên 130 triệu USD, với tỷ lệ bình quân là 14,5% mỗi năm. Hiện nay thị
trường xuất khẩu thủy sản (XKTS) đã được mở rộng trên 80 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Hàng thủy sản Việt Nam đã có chỗ đứng khá vững chắc
trên những thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản... và chiếm 10% tổng
kim ngạch xuất khẩu (KNXK) của cả nước. Thủy sản đang thực sự trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu phát triển từ sau khi Mỹ
bỏ chính sách cấm vận đối với nước ta (1994). Đặc biệt từ khi Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Mỹ (BTA) được ký kết và có hiệu lực vào ngày
10/12/2001, là một bước đột phá và cơ hội lớn cho hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam, cũng như những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh và mở rộng quan
hệ thương mại giữa hai quốc gia. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị



2

trường Mỹ không chỉ là vấn đề cấp thiết về lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách
trước mắt có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Các doanh
nghiệp XKTS Việt Nam đã xác định thị trường Mỹ là một thị trường rất quan
trọng, có khả năng tiêu thụ chủ yếu các sản phẩm thủy sản có chất lượng và
giá trị cao. Đây là một thị trường lớn và đầy tiềm năng triển vọng, nhưng còn
rất mới đối với các doanh nghiệp của Việt Nam.
Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam tiếp tục phát
triển vững mạnh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả chọn đề tài:
"Xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ: Thực trạng và giải
pháp" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết xung
quanh vấn đề này. Cụ thể như:
- GS.TS Chu Văn Cấp: Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước
ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003.
- GS.TS Võ Thanh Thu: Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 2001.
- TS. Bùi Ngọc Sơn: Một số biện pháp để thâm nhập thành công vào
thị trường Mỹ, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 4, 2003.
- GS.TS Hoàng Đức Thân: Chính sách thương mại trong điều kiện hội
nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Đề tài: Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Mã số:
97-78-060 của Trung tâm Tư vấn và Đào tạo kinh tế thương mại.
- Nguyễn Văn Hoàn: Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ những điều cần biết,
Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam, số 2/2003.



3

- Dự án STAR Việt Nam và Viện Quản lý Kinh tế Trung ương: Đánh
giá tác động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa
Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về mặt
lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về xuất
khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ dưới góc độ kinh tế chính
trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường
Mỹ. Từ đó thấy được những thành công và hạn chế, đề xuất những giải pháp
chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường
Mỹ thời gian tới có hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ đặc điểm thị trường Mỹ và những nhân tố ảnh hưởng đến
xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
vào thị trường Mỹ.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu
hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. Là đề tài thuộc chuyên ngành



4

Kinh tế chính trị, do đó luận văn chú ý tới các vấn đề chung có tính chất định
hướng ở tầm vĩ mô.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào
thị trường Mỹ thời điểm từ 1994 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tế, cùng với
phương pháp hệ thống, điều tra, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để làm
sáng tỏ vấn đề. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc những
thông tin trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả trước.
6. Những đóng góp của luận văn
Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất
khẩu hàng thủy sản, các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng thủy sản.
Đề xuất được những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN


1.1. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN

1.1.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu thủy sản
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm xuất khẩu thủy sản
* Khái niệm xuất khẩu thủy sản
Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, người ta lại có định nghĩa khác nhau
về xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau:
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng
tiền làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là mua bán
trao đổi hàng hóa. Khi sản xuất hàng hóa phát triển và trao đổi giữa các quốc
gia mở rộng đã mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia thì hoạt động này
mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của một quốc gia. Mục đích của hoạt
động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao
động quốc tế.
Thủy sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa hẹp,
sản xuất ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa thủy sản để đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ. Các sản phẩm hàng hóa đa dạng do ngành thủy sản sản xuất ra bao gồm
như: cá các loại, tôm các loại, nhuyễn thể các loại và các thủy hải sản đặc
biệt khác [19, tr. 198]. Ngành thủy sản gồm hai bộ phận sản xuất chủ yếu là:
ngành nuôi trồng và ngành công nghiệp thủy sản. Ngoài ra, để phục vụ cho
sản xuất kinh doanh còn có các hoạt động sản xuất phụ trợ và phục vụ khác.
Cơ cấu ngành thủy sản có thể được minh họa như sau:


6
Ngành thủy sản

Ngành nuôi trồng
thủy sản


- Nuôi thủy sản Các ngành phụ trợ và phục vụ
nước ngọt
- Đóng sửa tàu thuyền
- Nuôi thủy sản - Sản xuất dụng cụ đánh bắt
nước lợ
- Dịch vụ vận chuyển, cảng, kho
- Nuôi trồng hải
lạnh
sản
- Sản xuất nước đá, thức ăn
- Sản xuất giống
cho nuôi trồng

Ngành công nghiệp
thủy sản

Ngành khai thác
- Đánh bắt hải
sản
- Khai thác các
sản phẩm nuôi
trồng

Hình 1.1: Mô hình cơ cấu Xuất
ngành
thủy sản
khẩu

Ngành chế biến
- Đông lạnh

- Đồ hộp
- Hàng khô,
xông khói,

Nội địa

Từ cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu: Xuất khẩu thủy sản là việc
bán những sản phẩm thủy sản trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng tích lũy cho ngân sách nhà
nước. Xuất khẩu thủy sản là một ngành sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào
nguyên liệu từ khai thác và nuôi trồng thủy sản trong nước.
* Bản chất của xuất khẩu thủy sản
Thực chất của xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ là sự trao đổi lao động kết
tinh giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hóa. Trong đó, những nước
đang phát triển xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của mình sang thị trường các
nước phát triển nhằm phát huy tối ưu lợi thế tuyệt đối và tương đối của quốc
gia mình trong trao đổi và buôn bán quốc tế. Xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam vào thị trường Mỹ cũng vậy. Hàng thủy sản của Việt Nam vào thị
trường Mỹ được kết tinh bởi lao động hao phí của những ngư dân và lợi thế
về điều kiện tự nhiên, khí hậu của Việt Nam. Do đó, trong trao đổi ngang giá,


7

cả Việt Nam và Mỹ đều thu được lợi. Việt Nam đã nhận được ngoại tệ mạnh
để có thể mua máy móc, thiết bị và kỹ thuật hiện đại nhằm thúc đẩy tiến trình
CNH, HĐH, phát triển đất nước. Người tiêu dùng Mỹ được mua hàng thủy
sản giá rẻ, chất lượng cao. Chính vì vậy mà D. Ricardo cho rằng, xuất khẩu
đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia và làm tăng sản xuất, tiêu dùng
quốc tế.

* Các hình thức xuất khẩu thủy sản
Có nhiều hình thức xuất khẩu thủy sản, nhưng có hai hình thức xuất
khẩu chủ yếu là:
Xuất khẩu trực tiếp: Là việc các nhà sản xuất kinh doanh bán hàng
thủy sản trực tiếp cho người mua hàng không thông qua trung gian.
Xuất khẩu gián tiếp: Là xuất khẩu hàng thủy sản thông qua trung gian
thương mại.
Ngoài ra còn có các hình thức XKTS khác:
- Hoạt động tái xuất khẩu: Là hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản đã
nhập về trong nước thông qua chế biến (sơ chế và tái chế).
- Xuất khẩu hàng đổi hàng: Là một phương thức xuất khẩu mà trong
đó người XKTS đồng thời là người nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trao đổi
với nhau có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, ký hợp đồng,
thanh quyết toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá chung.
- Xuất khẩu tại chỗ: Là hoạt động cung cấp hàng thủy sản cho đối tượng
là người nước ngoài đang ở nước sở tại như các đoàn ngoại giao, khách du
lịch quốc tế… Trong trường hợp này hàng thủy sản có thể chưa vượt ra ngoài
biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất
khẩu. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm được
chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi
vốn nhanh.


8

* Đặc điểm của xuất khẩu thủy sản
Thứ nhất, thủy sản là loại hàng hóa mang nặng tính thời vụ, phụ
thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết ngư trường nên XKTS cũng mang tính thời
vụ.
Đối tượng của XKTS là cá và sinh vật sống dưới nước. Vì vậy để đảm

bảo cho nguồn nguyên liệu cung cấp đều đặn, liên tục cho XKTS đòi hỏi phải
tăng khai thác hải sản song song với việc bảo vệ nguồn lợi, tiến hành nuôi
trồng và phát triển các giống loài để phục vụ cho việc xuất khẩu lâu dài. Công
việc này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, trình độ công nghệ và nỗ lực của
con người. Cũng do đối tượng là các sinh vật sống dưới nước, trữ lượng khó
xác định một cách chính xác, đồng thời các sinh vật có thể di chuyển tự do;
bên cạnh đó là các điều kiện khí hậu, thời tiết, dòng chảy, địa hình, thủy văn...
tạo nên tính mùa vụ phức tạp cả về không gian và thời gian nên việc XKTS
cũng mang tính thời vụ. Ngày nay, nhờ phát triển nuôi trồng thủy sản nên các
doanh nghiệp trong ngành thủy sản đã hạn chế được tính mùa vụ từ nguyên
liệu khai thác. Bên cạnh đó, sản phẩm thủy sản lại có tính chất mau hư hỏng
và ươn thối, sản phẩm thủy sản khi đưa ra thị trường đã phải trải qua quá trình
từ tươi sống, đông lạnh, rã đông và đem bán như thủy sản tươi tại quầy. Việc
cấp đông đặc biệt quan trọng để ngăn ngừa sự ươn hỏng vì tốc độ ươn hỏng ở
thủy sản cao hơn hai lần so với các loại Protein khác như thịt gà, thịt bò hay thịt
lợn. Chính điều này làm cho giá trị thủy sản giảm rất nhanh, thậm chí trong
vài giờ nếu nhiệt độ tăng lên trên 0oC. Để khắc phục điều này đòi hỏi các cơ
sở chế biến thủy sản xuất khẩu (TSXK) phải có hệ thống kho lạnh trữ lạnh
nguyên liệu lâu dài đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu của thị trường nước
ngoài.
Thứ hai, XKTS là ngành đòi hỏi có tính hỗn hợp, tính liên ngành cao.
XKTS bao gồm nhiều hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối
khác nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo một chuỗi mắt xích từ


9

khâu: khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất
thấp kém, các hoạt động sản xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ ràng,
thậm chí còn lồng ghép vào nhau. Với điều kiện như vậy, khối lượng sản

phẩm sản xuất ra còn ít, chất lượng thấp và chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị
trường nhỏ hẹp. Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội làm cho các hoạt động trên được
chuyên môn hóa ngày càng cao và có tính độc lập tương đối. Tuy nhiên, do
đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm TSXK, tính liên kết vốn có
của các hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thủy sản lại đòi
hỏi phải gắn bó các ngành chuyên môn hóa hẹp nói trên trong một tổng thể
thống nhất, ở trình độ cao hơn mang tính liên ngành. Như vậy, để tạo ra một
sản phẩm TSXK có chất lượng cao đòi hỏi phải có tính liên ngành, tính hỗn
hợp cao của các hoạt động sản xuất vật chất tương đối khác gồm nuôi trồng,
khai thác, chế biến TSXK là đặc điểm của ngành XKTS.
Ngoài những đặc điểm chung như trình bày trên, XKTS Việt Nam còn
có những đặc điểm riêng:
Một là, thủy vực và nguồn lợi thủy sản Việt Nam đa dạng và khá phong
phú. Nếu không kể tiềm năng mặt nước và nguồn lợi thủy sản nội địa, ta còn có
tiềm năng về biển cho phát triển thủy sản. Biển Đông của Việt Nam có diện tích
3.447 ngàn km2, độ sâu trung bình 1.140 m và bờ biển dài trên 3.260 km, khá
dồi dào về nguồn lợi sinh vật biển...[19, tr. 21]. Với tiềm năng mặt nước lớn và
nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam hoàn toàn có thể phát huy lợi thế của
mình trong việc XKTS, nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường
nước ngoài và đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế và xuất khẩu
cao.
Hai là, XKTS Việt Nam đang ở trình độ thấp, có mặt còn lạc hậu,
đang trong quá trình đổi mới để phát triển và hội nhập quốc tế. Việc phát
triển nuôi trồng thủy sản vẫn thiếu ổn định do còn nhiều hạn chế về giống và


10

thủy lợi, chưa thực hiện tốt chương trình quản lý chất lượng theo hệ thống phân

tích mối nguy hiểm và các điểm kiểm soát tới hạn (HACCP) và quản lý dư
lượng một số chất độc hại (kiểm soát dư lượng và tiêu chuẩn vùng nuôi), đến
ngày 5/01/2004, Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản
(NAFIGAVED) mới chính thức được ra mắt và đi vào hoạt động. Về khai
thác nguồn lợi thủy sản biển đến nay vẫn chậm đổi mới công nghệ, công cụ
và phương thức khai thác lạc hậu so với một số nước trong khu vực; chưa có
sự gắn kết chặt chẽ khai thác với bảo quản chế biến. Trình độ chế biến xuất
khẩu còn lạc hậu chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên năng lực cạnh tranh của
hàng TSXK Việt Nam rất yếu. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
XKTS Việt Nam đang có nhiều thách thức nhưng cũng đang có nhiều
cơ hội, điều đó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều nỗ lực, có phương pháp và
bước đi thích hợp vượt qua những khó khăn, thách thức để hội nhập và phát
triển.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với phát triển kinh tế - xã
hội
Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nền kinh
tế nước ta. Những năm gần đây, thủy sản luôn là mặt hàng xuất khẩu chiếm vị
trí cao trong số các mặt hàng xuất khẩu, sau dầu thô và dệt may. Có thể nói,
ngành thủy sản với xuất khẩu là động lực chủ yếu đã góp phần không nhỏ
trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và phát triển các
lĩnh vực khác trong ngành thủy sản như khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch
vụ hậu cần. Có thể cụ thể hóa một số vai trò của XKTS như sau:
Một là, XKTS tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ CNH,
HĐH đất nước.
Để tiến hành quá trình CNH, HĐH cần phải có số vốn rất lớn để nhập
khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Các nguồn vốn để nhập


11


khẩu có thể hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện
trợ, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, hoạt động thu từ hoạt động du lịch... Trong
đó nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là xuất khẩu. Đối với những nước
có tiềm năng về thủy vực và nguồn lợi thủy sản thì việc phát triển ngành thủy
sản sẽ tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị và tăng thu ngoại tệ cho đất
nước thực hiện quá trình CNH, HĐH. Trong những năm gần đây, XKTS đã
đóng góp không nhỏ trong tổng sản phẩm quốc nội. Vai trò đó thể hiện rất cụ
thể ở giá trị xuất khẩu của ngành ngày càng tăng (xem phụ lục 1).
Hai là, XKTS góp phần phát huy lợi thế so sánh của đất nước và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy kinh tế thủy sản phát triển.
Nước ta có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ưu đãi, thuận lợi cho quá
trình khai thác, nuôi trồng thủy sản. Tiềm năng, nguồn lợi tài nguyên sinh vật
biển và vùng nước nội địa Việt Nam rất phong phú, có nhiều loài có giá trị kinh
tế cao phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, lực lượng lao
động Việt Nam dồi dào, cần cù và thông minh, khéo léo. XKTS đã phát huy
được lợi thế so sánh đó, tăng thu nhập ngoại tệ, góp phần giảm bớt sự thâm
hụt trong cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.
Trong hơn hai thập kỷ qua, XKTS đã đóng vai trò "đòn bẩy" mở đường
thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành kinh tế thủy sản từ khâu khai thác, nuôi
trồng, chế biến cho đến dịch vụ hậu cần nghề cá. Có thể nói rằng, XKTS không
phát triển thì các lĩnh vực khác trong ngành thủy sản không thể phát triển. Chính
sự lớn mạnh của XKTS đã tạo đầu ra sự phát triển không ngừng của công nghiệp
khai thác và nuôi trồng thủy sản (xem phụ lục 2).
XKTS đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong khai thác và
nuôi trồng thủy sản theo hướng có giá trị xuất khẩu cao đáp ứng nhu cầu của
thị trường nhập khẩu đòi hỏi. Chính vì vậy, trong những năm qua ngành khai
thác đã chú ý phát triển những mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá


12


ngừ, mực... còn trong nuôi trồng có: tôm sú, tôm càng xanh, tôm thẻ chân
trắng, tôm hùm, cá tra, cá ba sa, cá song, cá giò, nhuyễn thể…
Thực hiện các Quyết định 393/TTg, Quyết định 159/1998/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ, việc đầu tư đóng tàu khai thác xa bờ đã được phát triển
mạnh mẽ, tỷ trọng sản phẩm chế biến xuất khẩu từ nguồn nguyên liệu khai thác
xa bờ tăng lên hàng năm. Góp phần chuyển dịch được một bộ phận ngư dân từ
làm ăn cá thể sang làm ăn có tổ chức như các tập đoàn sản xuất, tổ hợp tác sản
xuất, hợp tác xã. Năm 2003 đã thành lập mới được 527 hợp tác xã, tổ khai thác
hải sản xa bờ với hơn 19.000 lao động trực tiếp trên biển.
Ba là, XKTS đóng góp vào việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất.
XKTS đã thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực sản
xuất của toàn ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH đặc biệt là khu vực chế
biến thủy sản. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản đã đi đầu trong số các
ngành kinh tế trong công cuộc đổi mới và hội nhập khu vực và quốc tế với
một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối cao. Sự ra đời hàng loạt nhà
máy chế biến thế hệ mới bên cạnh các nhà máy được nâng cấp với quy mô
lớn, công nghệ hiện đại đã góp phần đưa công nghiệp chế biến thủy sản Việt
Nam lên thứ hạng cao trên thế giới. Bên cạnh đó đã có hoạt động nghiên cứu,
chế tạo các thiết bị và đã thành công ở các cơ sở Searefico, Năm Dũng, Hà
Yên... như: thiết bị cấp đông IQF, gia nhiệt, mạ băng, thiết bị đóng gói... đã
đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghiệp. Thêm vào đó, dù các tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) là những yêu cầu rất cao đối với sản xuất
nhưng nhiều nhà máy đã kịp thời nâng cấp, đổi mới, tiếp cận được trình độ
của các nước tiên tiến đặc biệt là việc áp dụng HACCP.
Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản thì phương pháp nuôi công nghiệp đã
được hình thành ở nhiều địa phương trên khắp cả nước. Có nhiều khu nuôi



13

công nghiệp tập trung có diện tích trên 500 ha với những thiết bị hiện đại
được trang bị cho nghề nuôi, sử dụng thức ăn công nghiệp. Hoạt động nuôi
trồng được kiểm soát chặt chẽ, tuân thủ theo các quy định quốc tế như Quy
phạm thực hành tốt (GAP − Good Aquaculture Practise). Trong lĩnh vực khai
thác, ngư dân đã sử dụng các phương tiện đánh bắt hiện đại như phương tiện
thông tin liên lạc, thiết bị tầm ngư, máy định vị… Đặc biệt, đội tàu khai thác
hải sản xa bờ đã được trang bị các thiết bị hiện đại để có thể khai thác hiệu
quả và dài ngày trên biển. Đến nay đã hình thành đội tàu khai thác hải sản xa
bờ trên 6.000 chiếc, trong số đó dân tự đầu tư đóng trên 4.000 chiếc.
Cùng với sự hiện đại hóa của ngành thủy sản, đội ngũ những người
lao động nghề cá cũng trưởng thành nhanh chóng, đặc biệt là đội ngũ doanh
nhân, cán bộ quản lý các doanh nghiệp.
Bốn là, XKTS có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Sự phát triển của XKTS kéo theo sự phát triển kinh tế thủy sản đã
tạo ra việc làm cho hàng triệu lao động từ sản xuất nguyên liệu đến dịch vụ
cho sản xuất thủy sản, chế biến thủy sản. Hiện nay, theo thống kê của Bộ
Thủy sản cho thấy, tổng số lao động trong ngành thủy sản hiện nay có khoảng
gần 4 triệu người [12, tr. 7]. Nhìn chung, đời sống của người ngư dân ổn định
và ngày càng được cải thiện. Công tác xóa đói giảm nghèo và bộ mặt nông
thôn ven biển ngày càng đổi mới.
Năm là, XKTS là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Phát triển của ngành thủy sản nói chung, của XKTS nói riêng đã mở
ra một thời kỳ phát triển mới cho quan hệ thương mại quốc tế. Nếu năm 1996,
quan hệ thương mại quốc tế của ngành thủy sản mới chỉ dừng ở con số 30 nước
thì đến năm 2001, hàng thủy sản Việt Nam đã có bán tại 60 nước và vùng lãnh



14

thổ, năm 2004 con số này đã là 80 nước và vùng lãnh thổ. Quan hệ thương mại
thủy sản được mở rộng tại Mỹ và các nước EU là một đóng góp đáng kể của
ngành thủy sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế của nền kinh tế
nước ta.
Quan hệ thương mại thủy sản được mở rộng đã dẫn đến các quan hệ
với nhiều ký kết song phương và đa phương với các nước Đan Mạch, Nhật Bản.
Nga, Mỹ, Hàn Quốc với các tổ chức quốc tế như FAO, UNDP, ADB, WB... Các
ký kết này đã phát huy hiệu quả to lớn trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của
ngành thủy sản nói riêng của cả nước nói chung. Cũng trên cơ sở này, tạo điều
kiện cho Việt Nam hiểu đầy đủ hơn về pháp luật và thông lệ quốc tế giúp cho
nền kinh tế Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
1.1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu thủy sản
Hoạt động XKTS cũng như hoạt động xuất khẩu những hàng hóa khác
phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, từ việc nghiên cứu thị trường,
lập và triển khai thực hiện phương án kinh doanh đề ra, thực hiện hợp đồng
ký kết đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức thận trọng, linh hoạt.
1.1.2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thủy sản
Có thể khẳng định rằng, trong điều kiện mà thương trường thủy sản
quốc tế có những biến động hàng ngày và sự biến động đó ảnh hưởng không
nhỏ tới hoạt động XKTS thì công tác nghiên cứu thị trường XKTS phải được
xem như một khâu quan trọng nhất và được thực hiện ngay từ đầu. Nếu như
hoạt động này được tiến hành tốt thì sẽ giúp cho các nhà kinh doanh nhận ra
được quy luật vận động của từng loại mặt hàng thủy sản thông qua sự biến đổi
nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường.
Thông thường việc nghiên cứu thị trường XKTS cần tập trung làm rõ
những vấn đề căn bản sau:



Thị trường XKTS nào có triển vọng đối với hàng thủy sản Việt Nam.


15



Khả năng tiêu thụ những sản phẩm TSXK của thị trường đó.



Thị trường đó đang cần những mặt hàng TSXK nào.



Tình hình cung cấp thủy sản cho thị trường đó của các nước xuất khẩu.



Hệ thống luật pháp và các quy định bắt buộc khi đưa hàng TSXK

vào thị trường đó.


Hệ thống phân phối tiêu thụ TSXK trên thị trường đó như thế nào.

Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp
chính là: nghiên cứu tại văn phòng và nghiên cứu tại hiện trường. Kết quả của
việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu sẽ là cơ sở giúp các doanh nghiệp xây

dựng phương án xuất khẩu và lựa chọn phương thức giao dịch hiệu quả.
1.1.2.2. Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận
thị trường XKTS, các doanh nghiệp lập phương án kinh doanh cho mình,
phương án này là kế hoạch hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đạt tới
những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh
doanh bao gồm:
- Lựa chọn nguồn hàng TSXK: Muốn tạo được nguồn hàng thủy sản ổn
định, các doanh nghiệp XKTS phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua
việc tiếp cận thị trường. Việc nghiên cứu nguồn hàng TSXK nhằm xác định
chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc
điểm riêng của từng loại mặt hàng thủy sản. Ngoài ra, việc nghiên cứu nguồn
hàng TSXK còn nhằm xác định mặt hàng thủy sản dự định xuất khẩu có phù
hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thị trường xuất khẩu về ATVSTP
hoặc theo các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp
XKTS hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu của thị trường nước họ.


16

- Lựa chọn phương thức kinh doanh: Phổ biến và sử dụng nhiều nhất
vẫn là phương thức kinh doanh trực tiếp không qua trung gian. Tuy nhiên, cần
căn cứ vào đặc điểm thị trường và khả năng của doanh nghiệp để lựa chọn
phương thức kinh doanh cho phù hợp.
- Lựa chọn khách hàng: Việc chọn đối tác đúng sẽ tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tránh được những rủi ro, phiền toái trong hoạt động kinh doanh.
Do vậy, bạn hàng cần phải quen biết, có uy tín trong kinh doanh, có thực lực
tài chính và giữ chữ tín trong quan hệ làm ăn.
1.1.2.3. Tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu thủy sản

Trong đàm phán để ký kết hợp đồng XKTS, các bên tham gia phải
tiến hành một loạt các công việc liên quan như: tổ chức đàm phán, soạn thảo
hợp đồng kinh tế, chuẩn bị thực hiện hợp đồng; hai bên cần tiến hành đàm phán
bằng cách gặp gỡ trực tiếp, hoặc thông qua điện thoại, Internet... Kết quả của đàm
phán, các bên đi đến ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng XKTS phải đảm bảo
tuân thủ luật pháp quốc gia của hai nước và luật pháp quốc tế. Những điều khoản
trong hợp đồng XKTS phải rõ ràng chặt chẽ như: Tên hàng (Commodity),
Điều kiện phẩm chất (Quality), Điều kiện về số lượng (Quatity), Điều khoản
giao hàng (Shipment/Delivery), Điều khoản giá cả (Price), Điều khoản thanh
toán (settement payment), Điều khoản bao bì, ký mã hiệu (Packaging, marking),
Điều khoản bảo hành (warranty), Bảo hiểm (Insurance), phạt bồi thường thiệt
hại (Penalty)... Đồng thời trong hợp đồng XKTS phải xác định rõ quyền lợi,
nghĩa vụ giữa các bên.
1.1.2.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu thủy sản
Việc thực hiện hợp đồng XKTS là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả kinh tế của hợp đồng kinh doanh XKTS, đồng thời nó cũng ảnh
hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các
nước. Bất cứ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất
khẩu đều có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp


17

đồng, suy giảm chất lượng hàng hóa… dẫn đến những tranh chấp khiếu nại
rất khó giải quyết, gây tổn thất về mặt kinh tế. Do đó, tổ chức thực hiện hợp
đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo nhằm nâng cao lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
1.2. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ
TRƯỜNG MỸ


1.2.1. Một số đặc điểm về thị trường Mỹ
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tiếng Anh là: United states of America - US)
thường gọi là Hoa Kỳ hay Mỹ có diện tích 9.269.000 km 2 với số dân 290 triệu
người (năm 2003). Thu nhập bình quân đầu người là 36.300USD. Hiện nay,
Mỹ được ví như là một thị trường "không đáy", một thị trường xuất khẩu
khổng lồ của tất cả các nước trên thế giới. Để có thể thâm nhập thành công
vào một thị trường như vậy trước hết cần phải tìm hiểu môi trường kinh
doanh cũng như hệ thống pháp luật của Mỹ để từ đó có những cách thức tiếp
cận phù hợp. Dưới đây là những đặc điểm nổi bật của thị trường Mỹ:
1.2.1.1. Đặc điểm về kinh tế
Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh có lịch sử
phát triển hàng trăm năm nay:
Một là, về quy mô kinh tế. Hiện nay, dù không còn chiếm ưu thế tuyệt
đối trên lĩnh vực mậu dịch và tiền tệ quốc tế, thậm chí còn ở vào tình trạng
phải cạnh tranh gay gắt với các nền kinh tế khác, Mỹ vẫn giữ địa vị cường
quốc số một về kinh tế và quân sự. Năm 2000, GDP của Nhật bằng 32% GDP
của Mỹ, Đức bằng 19,4%, Pháp bằng 14,6% và Anh bằng 13,7%. Mỹ là nước
có thu nhập quốc dân lớn nhất. Năm 2002 GDP của Mỹ là 10.450 tỷ USD
chiếm trên 21% tổng thu nhập quốc dân toàn cầu [45, tr. 98].


18

Hai là, về tốc độ tăng trưởng. Từ thập kỷ 90 trở lại đây, Mỹ đã duy trì
được mức tăng trưởng GDP cao hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7.
Mức tăng trưởng GDP bình quân của Mỹ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi
đó tốc độ của các nước G7 là 2,6%. Song từ năm 2000 trở lại đây tốc độ tăng
GDP thực tế của nước này không ổn định và thấp hơn so với mức bình quân
của thập kỷ 90. Cụ thể mức tăng năm 2000 là 5%; năm 2001 do ảnh hưởng

của sự kiện 11/9 nên tốc độ tăng chỉ còn 0,5%; năm 2002 là 2,2% và năm
2003 là 3,1%; năm 2004 khoảng 4 - 4,5% [45, tr. 98].
Ba là, về cơ cấu kinh tế. Mỹ hiện nay có tới 80% GDP được tạo ra từ
ngành dịch vụ; công nghiệp chỉ chiếm 18% và nông nghiệp chỉ đóng góp 2%.
Các ngành công nghiệp chính của Hoa Kỳ bao gồm: dầu lửa, sắt thép, ô tô,
hàng không, viễn thông, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng... Các sản phẩm
nông nghiệp chính của Mỹ bao gồm: lúa mì, ngô, bông, thịt bò, gia cầm, lâm
sản, cá, các loại ngũ cốc khác... [42, tr. 26].
Có thể nói, hiện nay nền kinh tế Mỹ phải đương đầu với nhiều khó
khăn, thách thức nhưng xét một cách tổng thể, thì địa vị số một về kinh tế của
Mỹ đã tồn tại suốt trong nhiều thập kỷ qua và sẽ còn tiếp tục được duy trì
trong thập kỷ tới.
1.2.1.2. Đặc điểm về chính trị
Mỹ là một Nhà nước được tổ chức theo chế độ cộng hòa dân chủ tư sản
Tổng thống. Dựa theo nguyên tắc "Tam quyền phân lập", quyền lực chính trị
được thực thi theo nguyên tắc phân quyền và đối trọng qua ba cơ quan độc
lập. Hiến pháp Mỹ quy định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành
pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Tòa án tối cao.
Mỹ áp dụng chế độ đa đảng, mặc dù là chế độ đa đảng nhưng đảng cầm
quyền ở Mỹ là Đảng Dân chủ (biểu tượng là con Lừa) và Đảng Cộng hòa (biểu
tượng là con Voi). Vì vậy, đôi khi còn gọi là chế độ song đảng. Sự khác biệt chủ


19

yếu giữa hai đảng này là một đảng nắm chính quyền, còn đảng kia là đảng đối
lập. Dù đảng cầm quyền là Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa, mục tiêu của họ
đều phục vụ quyền lợi của giai cấp tư sản Mỹ và đều phấn đấu để đưa Mỹ trở
thành cường quốc số một trên thế giới về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự.
Một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Mỹ mà các doanh

nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải chú ý là hoạt động vận động hành lang
(Lobby). Ở Mỹ, Lobby được coi là hoạt động hợp pháp và họ có cả một đạo
luật về vấn đề này "Lobby Dislosure Act" năm 1995. Lobby là phương tiện
dành cho mọi tổ chức chính trị - xã hội để làm rõ quan điểm và quyền lợi
chính trị, kinh tế của mình đối với chính quyền và dư luận. Hầu hết các hiệp
hội kinh doanh và các công ty lớn của Mỹ đều có đại diện của mình ở Thủ đô
Washington DC và ở thủ phủ các bang mà họ có hoạt động kinh doanh để tiến
hành các hoạt động hành lang đối với Quốc hội và chính quyền liên bang và
bang. Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các công ty Mỹ đặc biệt quan tâm
đến các vòng đàm phán thương mại đa biên và song phương giữa Mỹ và các
nước, họ thường xuyên vận động và thậm chí gây sức ép với Quốc hội và
chính quyền liên bang để đảm bảo kết quả của các cuộc đàm phán thương mại
quốc tế có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ, vụ kiện cá tra, cá
basa Việt Nam bán phá giá tại thị trường Mỹ thì CFA (Hiệp hội chủ trại cá
nheo Hoa Kỳ) đã sử dụng Lobby để đạt được mục đích của mình.
1.2.1.3. Đặc điểm về pháp luật
Hệ thống pháp luật của Mỹ thuộc loại đồ sộ và phức tạp nhất trên thế
giới. Ngoài hệ thống luật liên bang, mỗi bang hay khu hành chính đều có hệ
thống pháp luật riêng và nhiều khi lại rất khác. Mặc dù là cường quốc số một
trên thế giới nhưng Mỹ vẫn sử dụng pháp luật như là một công cụ vũ khí sắc
bén để bảo vệ duy trì và củng cố chế độ chính trị cũng như vị thế của Mỹ trên
thế giới. Vì vậy, pháp luật thương mại của Mỹ thể hiện rất rõ nét yếu tố chính
trị trong nội dung cũng như trong tên gọi của văn bản pháp luật. Luật thương


20

mại của Mỹ rất nhiều và phức tạp. Hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ thể
hiện một cách rõ ràng nhất ở chính sách nhập khẩu của Mỹ. Nằm trong tổng
thể chính sách đối ngoại của Mỹ, chính sách nhập khẩu của Mỹ hoàn toàn phù

hợp với chiến lược khuếch trương tự do hóa kinh tế và phục vụ cho lợi ích
của quốc gia. Tuy nhiên, đứng ở góc độ của một nước có quan hệ thương mại
với Mỹ thì có thể thấy được tính chất hai mặt của chính sách nhập khẩu. Một
mặt nó mang "tính mở" về mặt tiếp cận thị trường do Mỹ muốn ép các nước
khác mở thị trường cho hàng hóa Mỹ, mặt khác nó mang "tính đóng" đối với
một số nước và một số khu vực do Mỹ lợi dụng triệt để công cụ tiếp cận thị
trường nhằm phục vụ các lợi ích phi kinh tế và các lợi ích kinh tế khác của họ.
Mọi thay đổi trong chính sách nhập khẩu của Mỹ đều thể hiện tính nhất quán
với xu hướng trên.
Chính sách nhập khẩu của Mỹ đối với các nước đang phát triển cũng
được xây dựng trên nền tảng chung đó và chia làm bốn nhóm nước mà mỗi
nhóm có những quy định khác nhau.
Nhóm 1: Gồm những nước đã là thành viên Tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Nhóm 2: Gồm những nước chưa là thành viên WTO nhưng đã có hiệp
định thương mại song biên với Mỹ. Điều lưu ý ở nhóm này là với từng hoàn
cảnh, tính vững chắc của quy chế thương mại phụ thuộc nhiều vào biến động
quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước (Việt Nam thuộc nhóm này). Chính
sách của Mỹ đối với Việt Nam vẫn nằm chung khuôn khổ chung của sân chơi
quốc tế. Theo quy định trong BTA, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế thương
mại tối huệ quốc (MFN) mà nay còn gọi là quy chế thương mại bình thường
(NTR), tương đương với các nước đã là thành viên WTO về mặt thương mại.
Chỉ có điểm khác là chế độ NTR phải xem xét lại hàng năm vào ngày 7-3,
theo kết quả xét miễn áp dụng điều khoản Jackson - Vanik.


21

Nhóm 3: Gồm những nước có quyền lợi đối nghịch với Mỹ, bị hạn chế
gần như hoàn toàn trong quan hệ thương mại với Mỹ.

Nhóm 4: Gồm những nước được hưởng những ưu đãi đặc biệt của Mỹ.
Ngoài ra, để phục vụ lợi ích và tiêu dùng của mình, Mỹ thực thi chính
sách nhập khẩu khá nghiêm ngặt xét về khía cạnh các tiêu chuẩn kỹ thuật và
ATVSTP. Rào cản kinh tế của Mỹ được đánh giá là phức tạp nhất trong các
rào cản kinh tế của các nước phát triển. Đối với hàng thủy sản phải chịu sự
kiểm tra của Cơ quan Ngư nghiệp quốc gia thuộc Cục quản lý đại dương và
môi trường và phải đạt tiêu chuẩn HACCP. Đây là một hệ thống quản lý chất
lượng mang tính phòng ngừa (Preventice) nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm
(Food quality) thông qua việc phân tích mối nguy hiểm và thực hiện các biện
pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn.
1.2.1.4. Đặc điểm về văn hóa và con người
Là một nước có diện tích đứng thứ ba trên thế giới với khoảng 290 triệu
dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác trên thế giới, Mỹ là một xã hội đa dạng,
gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Mặc dù đại bộ phận người Mỹ được coi là có
nguồn gốc từ châu Âu, song những người thiểu số như người gốc Mỹ (người
da đỏ), người Mỹ gốc Phi, người Hispanic và người châu Á cũng rất đông.
Các dân tộc này đều có những bản sắc riêng của họ về ngôn ngữ, tôn giáo, tín
ngưỡng và phong tục. Điều này tạo nên một môi trường văn hóa phong phú
và đa dạng. Song nhìn chung văn hóa Mỹ chủ yếu thừa hưởng một số kinh
nghiệm và địa danh của người bản xứ Indian, còn phần lớn các mặt như ngôn
ngữ, thể chế, văn hóa, kiến trúc, âm nhạc... đều có xuất xứ từ châu Âu nói
chung và nước Anh nói riêng [42, tr. 151].
Nét tiêu biểu nhất trong văn hóa Mỹ và lối sống Mỹ là chủ nghĩa thực
dụng. Thực dụng trở thành một đặc điểm của dân tộc Mỹ. Các học giả nước
ngoài đã nhận xét: cái gắn bó của người Mỹ với nhau là quyền lợi chứ không
phải là tư tưởng. Ngoài ra, người Mỹ rất coi trọng tự do cá nhân và tính tự


22


lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo hay tổ chức là thứ yếu so với các quyền cá
nhân. Chủ nghĩa cá nhân nay cũng dẫn đến một tính cách nổi bật của người
Mỹ là cạnh tranh.
1.2.1.5. Đặc điểm về thị trường thủy sản và thị hiếu tiêu dùng thủy
sản của Mỹ
* Đặc điểm thị trường thủy sản Mỹ
Đặc điểm 1: Mỹ là cường quốc thế giới về khai thác, nuôi trồng và
chế biến các sản phẩm thủy sản. Xu thế chung của tổng sản lượng thủy sản
của Mỹ hiện nay là giảm dần số lượng khai thác và tăng dần sản lượng nuôi
trồng nguyên nhân do Mỹ thi hành chính sách bảo vệ nguồn lợi thủy sản lâu
dài. Ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản của Mỹ có đặc điểm là mang đậm
tính thương mại. Cụ thể:
+ Khai thác thủy sản: Mỹ là một trong số ít quốc gia có nguồn lợi hải
sản giàu có và phong phú vào bậc nhất thế giới gồm cả cá đáy, cá nổi, giáp
xác, nhuyễn thể, trong đó có nhiều loại có giá trị thương mại rất cao như tôm
he, tôm hùm, cua, cá hồi, cá ngừ... Theo đánh giá của Mỹ, khả năng có thể
cho phép khai thác hàng năm 6 - 7 triệu tấn hải sản nhưng để bảo vệ và duy trì
lâu dài nguồn lợi này người ta chỉ hạn chế ở mức từ 4,5 - 5 triệu tấn/năm do
đó sản lượng khai thác hải sản của Mỹ có xu hướng giảm dần [10, tr. 1].
Vì khai thác hải sản của Mỹ mang tính thương mại rất cao nên cơ cấu
sản lượng được phân định rõ ràng và khá đầy đủ cả về khối lượng và giá trị.
Đối tượng khai thác chủ yếu có giá trị cao nhất của nghề khai thác thủy sản
Mỹ là: tôm he, tôm hùm, cua biển, cá hồi, cá ngừ. Điều cần chú ý ở đây cũng
là 5 mặt hàng có nhu cầu cao nhất ở Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ chỉ tập trung
vào mua nhiều nhất các sản phẩm từ 5 mặt hàng này. Do cung luôn đi sau cầu
nên đây cũng là 5 nhóm sản phẩm chủ yếu mà Mỹ phải nhập khẩu. Do vậy,
các nước XKTS muốn thành công ở thị trường Mỹ cần phải nghiên cứu kỹ


23


tình hình sản xuất của họ và nhu cầu thực tế của thị trường để đưa ra các dự
báo cho phù hợp.
+ Nuôi trồng thủy sản: Về sản lượng tuy không thể so sánh được với
Trung Quốc, Ấn Độ, nhưng Mỹ vẫn đứng trong danh sách các nước hàng đầu
thế giới về nuôi trồng thủy sản và hiện dẫn đầu Tây Bán Cầu. Đặc điểm nuôi
trồng thủy sản của Mỹ chỉ tập trung vào những loài quý có nhu cầu cao và có
lãi. Vì vậy, tuy sản lượng khá cao nhưng lại chỉ tập trung vào một số loài như
cá nheo chiếm 50% sản lượng nuôi trồng, cá hồi 12%, tôm nước ngọt 7%…
[10, tr. 6].
+ Chế biến thủy sản: Mỹ có gần 2.000 công ty kinh doanh và chế biến
thủy sản, 1.000 hãng chuyên nhập khẩu và 1.300 nhà máy chế biến thủy sản
trang bị hiện đại, đóng góp gần 25 tỷ USD trong tổng thu nhập quốc dân của
Mỹ. Công nghiệp chế biến thủy sản khổng lồ của Mỹ được phân bố ở khắp
các bang nhưng tập trung nhiều ở các bang bờ Đông và các thành phố lớn ở
bờ Tây. Ngoài ra, còn nhiều sản phẩm được chế biến ngay trên biển (ở các tàu
lớn kéo cá tuyết, tàu mẹ chế biến cá hồi, cá ngừ, cá trích…). Do người tiêu
dùng Mỹ chỉ ưa chuộng những sản phẩm tinh chế dù giá cao đã thúc đẩy
ngành công nghiệp chế biến phát triển mạnh và luôn ở trình độ cao [39, tr.
300].
Đặc điểm 2: Mỹ là thị trường thủy sản lớn nhất hiện nay. Cách đây
5 năm, ngoại thương thủy sản của Mỹ đã vượt con số 10 tỷ USD/ năm. Ngoại
thương thủy sản của Mỹ có những đặc điểm chính như sau:
- Cả nhập khẩu và XKTS đều đạt giá trị rất cao.
- Thâm hụt ngoại thương thủy sản ngày một tăng, cung giảm hơn cầu.
+ XKTS: Mỹ không chỉ là nước nhập khẩu thủy sản thứ nhì thế giới
mà còn là nước XKTS hàng đầu thế giới. Năm 1992 Mỹ là nước XKTS số
một thế giới và giá trị kỷ lục 4,5 tỷ USD. Sau khi bị Thái Lan vượt thì xuất



24

khẩu giảm sút và tới 1998 chỉ còn 2,4 tỷ USD, xuống vị trí thứ 5 sau Na Uy,
Trung Quốc, Thái Lan. Sang năm 2000 xuất khẩu tăng nhanh và đạt 3 tỷ
USD. Tuy nhiên, họ vẫn không cải thiện được vị trí do nhiều nước đã có tiến
bộ nhanh về XKTS hơn Mỹ [10, tr. 12].
Các mặt hàng XKTS chính của Mỹ là cá hồi (Salmon), cua (Crap),
trứng cá (Caviarroe), surimi; bốn loại này chiếm 60% về giá trị và 50% về
khối lượng hải sản xuất khẩu của Mỹ [39, tr. 300]. Thị trường XKTS chủ yếu
của Mỹ là châu Á chiếm 53% tổng giá trị xuất khẩu, Bắc Mỹ chiếm 26%,
châu Âu chiếm 16%.
+ Nhập khẩu thủy sản: Hiện nay, Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn thứ
hai thế giới và chiếm 16,5% tổng giá trị nhập khẩu thủy sản thế giới. Mỹ nhập
hơn 100 mặt hàng thủy sản các loại từ cao cấp nhất đến thấp cấp nhất, với đủ
mọi loại giá cả khác nhau. Các mặt hàng nhập khẩu có giá trị cao nhất là:
Tôm đông, tôm hùm, cua, cá ngừ, cá nước ngọt. Thị trường nhập khẩu thủy
sản của Mỹ hiện nay chủ yếu từ các nước Đông Nam Á, Đông Á, Canađa và
một số quốc gia Mỹ latinh (Mêhicô, Chi Lê, Ecuađo). Trong đó, Canada và
Thái Lan chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là Trung Quốc và Mêhicô. Tương lai
Mỹ là thị trường thủy sản lớn nhất hiện nay với tổng giá trị ngoại thương năm
2000 lên đến 13 tỷ USD (gần dẫn kịp Nhật Bản) [10, tr. 11].
Qua phân tích tình hình xuất nhập khẩu thủy sản của Mỹ, chúng ta
thấy XKTS của Mỹ có xu hướng giảm dần về giá trị trong khi đó nhập khẩu
thủy sản của Mỹ có xu hướng tăng về giá trị làm cho thâm hụt về thương mại
thủy sản của Mỹ càng lớn từ 2,7 tỷ USD năm 1991 lên đến 10,07 tỷ USD năm
2000 tức là tăng lên 3,7 lần (xem phụ lục 3).
Đặc điểm 3: Hệ thống phân phối hàng thủy sản trên thị trường Mỹ. Ở
Mỹ, hàng thủy sản được phân phối qua hai kênh chủ yếu, đó là kênh bán lẻ và
kênh bán sỉ thủy sản.



25

+ Kênh bán lẻ TSXK: Chiếm đến trên 50% giá trị tiêu thụ tại Mỹ với
các hình thức sau:
- Bán hàng qua hệ thống siêu thị: Qua hệ thống siêu thị, thủy sản được
tiêu thụ tới 40% giá trị bán lẻ của thủy sản.
- Bán cho các nhà hàng, nhà ăn công cộng và phục vụ ăn nhanh:
Doanh số bán thủy sản cho hệ thống này chiếm đến 60% trị giá bán lẻ và có
xu hướng ngày một tăng, vì người Mỹ có thói quen ăn nhanh để tiết kiệm thời
gian tại các nơi công cộng như nhà hàng, căng tin, trường học, nơi làm việc.
+ Kênh bán sỉ thủy sản ở Mỹ: Đây là các công ty kinh doanh thủy sản
hàng đầu của nước Mỹ. Với hệ thống bán sỉ hàng thủy sản được cung cấp cho
trên 1.000 xí nghiệp chế biến thủy sản của nước Mỹ và hệ thống siêu thị. Đặc
điểm cung cấp hàng thủy sản qua các kênh bán sỉ của Mỹ là:
- Khả năng cung cấp hàng thủy sản phải lớn và ổn định.
- Mặt hàng thủy sản phải đa dạng để cung cấp cho các đối tượng thuộc
vùng, khu vực khác của nước Mỹ.
- Nhà cung cấp phải tin cậy và trung thành [39, tr. 401-402].
Đặc điểm 4: Thị trường thủy sản Mỹ là thị trường "mở", Có hơn 130
quốc gia có quan hệ buôn bán thủy sản với Mỹ. Sự cạnh tranh ở thị trường
này rất khốc liệt. Chỉ những ai nắm bắt được đầy đủ, kịp thời và chính xác các
thông tin cần thiết về thị trường này, những ai có sản phẩm có sức cạnh tranh
cao (là các sản phẩm phù hợp thị hiếu, có chất lượng cao, bao gói phù hợp,
giá cả phù hợp) và tiếp thị giỏi mới có cơ may chiếm lĩnh được thị trường rất
rộng lớn và phong phú này.
Đặc điểm 5: Thị trường thủy sản Mỹ có một đặc điểm khác với thị
trường thủy sản của các nước khác mà các nước XKTS cần chú ý, đó là Mỹ
thường gắn ngoại thương thủy sản với các vấn đề khác ngoài kinh tế. Trước
đây, trong thời kỳ "chiến tranh lạnh" Mỹ thường gắn ngoại thương thủy sản



×