Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ hợp tác xã NÔNG NGHIỆP KIỂU mới ở THÁI BÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.56 KB, 117 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò
đặc biệt quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được
Đảng, Nhà nước quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất
nước bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ
chế thị trường, thì HTXNN cũng được chuyển đổi cả về nội dung và hình
thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành năm 1996), nhằm thích
ứng kịp thời với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Tuy nhiên, trong thực
tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn, hiệu
quả sản xuất kinh doanh thấp.
Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996),
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế
tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt
động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI
đã thông qua Luật hợp tác xã mới (Luật HTX năm 2003), và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01-7-2004. Đó là căn cứ thực tiễn và pháp lý quan trọng để tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Do
vậy, việc nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực
tiễn.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có điều
kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn.
Do vậy, phải quan tâm phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp.
Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX (ban hành 1996), HTX kiểu mới
nói chung và HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình có bước phát triển
mới, đã đáp ứng được một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản



2

xuất - kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh hiện
nay còn yếu kém nhiều mặt, một số lớn HTX chuyển đổi còn mang tính hình
thức, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại
cho các thành viên chưa nhiều, HTXNN kiểu mới phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng và vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó.
Những hạn chế, yếu kém của HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cả về khách quan, chủ quan; cả
về kinh tế, chính trị, xã hội; đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết. Đồng
thời, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới HTXNN cả về nội dung và phương thức hoạt
động theo Luật HTX năm 2003 cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của tỉnh.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài "Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
ở Thái Bình hiện nay" làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế
chính trị, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTXNN là một trong
những vấn đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, vấn đề HTXNN là chủ đề
được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc
độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Trong đó, có những công trình tiêu biểu
được công bố như:
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: "Đổi mới tổ chức và quản lý
hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999.
Các tác giả đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ
chức, quản lý HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đây đến khi chuyển sang
kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở

một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, phác họa một số phương hướng


3

và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình
HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: "Kinh tế hợp
tác, hợp tác xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển", Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát
triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt Nam với
những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp với
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ: "Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Các tác giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế
hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp
tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề
xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về
"Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh - Thực
trạng và giải pháp". Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh
tế hợp tác ở Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về
"Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp". Tác giả
trình bày vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể; đánh
giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn
từ thực tiễn" của Nguyễn Văn Tuất, Tạp chí Khoa học về chính trị, số 3, 2002.

- "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta" của PGS.TS Vũ Văn Phúc,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 1, 2002.
Một số bài viết của tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa,
Hoàng Việt...


4

Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu trên nhiều khía cạnh của
kinh tế HTXNN. Trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ
yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình HTX kiểu cũ, luận giải sự cần
thiết, thực trạng chuyển đổi mô hình HTX theo Luật HTX (1996); các công
trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển của kinh
tế tập thể nói chung theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng IX. Cho đến nay,
chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái
Bình. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên
cứu của các công trình trên, vận dụng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5
(khóa IX) và cập nhật những điểm mới của Luật HTX năm 2003 vào nghiên
cứu, đánh giá hoạt động của các HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX 1996) ở
Thái Bình, để từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục xây dựng,
phát triển HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Khảo sát, đánh giá hoạt động của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ
năm 1997 (khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. Từ đó đề xuất một
số phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái
Bình trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát lại những vấn đề cơ bản về HTXNN kiểu mới: nội dung,
phương thức hoạt động và tính cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới

(theo Luật HTX năm 2003) ở Thái Bình hiện nay;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của HTXNN kiểu mới ở
Thái Bình từ 1997 đến nay;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển, hoàn thiện HTXNN
kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới.


5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996 và năm
2003).
- Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm
1997 (khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh
tế chính trị như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch
sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng
hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút ra kết luận.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về HTXNN kiểu
mới; trên cơ sở đó, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN kiểu mới
ở Thái Bình, xác định nguyên nhân những yếu kém tồn tại; từ đó, đề xuất các
giải pháp phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở đánh giá HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, luận văn rút ra

những vấn đề phù hợp và chưa phù hợp của mô hình HTXNN kiểu mới hiện
nay; từ đó, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện chúng.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định
chính sách, chỉ đạo thực tiễn, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công


6

tác giảng dạy ở trường chính trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


7

Chương 1
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI

1.1. HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI

1.1.1. Khái niệm Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
* Hợp tác:
Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên
sức mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị
hoạt động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc
thực hiện kém hiệu quả so với hợp tác [7, tr. 11].
Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh
tế của con người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói

chung, của lao động sản xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người.
Do vậy, sự phát triển của hợp tác gắn liền và bị quy định bởi tiến trình nâng
cao trình độ xã hội hóa sản xuất và hoạt động kinh tế. Trong lao động sản
xuất, hợp tác có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát triển của các
hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển
kinh tế.
Hợp tác lao động được thực hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày
càng phát triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội
và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Do
đó, nhu cầu về hợp tác lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng
chặt chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn trong phạm vi từng đơn vị, từng
ngành, từng địa phương, trong một nước, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế.
Hợp tác có nhiều hình thức với đặc điểm, tính chất, trình độ khác


8

nhau: hợp tác ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác
lao động như Mác đã phân tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản trong công nghiệp; hợp tác giữa các đơn vị, các ngành v.v...
* Kinh tế hợp tác:
Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp của hợp tác, phản ánh một phạm vi
hợp tác - hợp tác trong lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện,
phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh
của từng thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn
những vấn đề của sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự
chủ, thì kinh tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế

tự chủ có điều kiện phát triển. Như vậy, quan hệ kinh tế hợp tác phải được
xây dựng trên nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và tính tự chủ,
độc lập của các thành viên tham gia.
Hợp tác trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan. Từ thời xa xưa, các
hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua
khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì quá trình hợp
tác mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp
nhau v.v... nhằm đáp ứng nhu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải
quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện,
hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như: phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu
bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Đặc điểm cơ bản của hợp tác kiểu này là hợp
tác theo thời vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến


9

giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác ở trình độ thấp.
Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá
trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng, như dịch vụ về
giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong
điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình
sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả
kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó, nảy sinh nhu cầu hợp tác ở trình
độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày
công, giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành hợp tác xã.
Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ
chính trị - xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, nông dân đều có nhu cầu hợp
tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực
lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp

tác ngày càng sâu rộng. Do đó, tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các
hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn, từ kinh tế hợp tác giản đơn như
các tổ, hội nghề nghiệp; các tổ, nhóm hợp tác, đến các tổ kinh tế hợp tác và
hợp tác phát triển ở trình độ cao là hợp tác xã.
* Hợp tác xã:
Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn
loại hình kinh tế hợp tác giản đơn. Ở nhiều nước trên thế giới, HTX đã có lịch
sử hình thành và phát triển hơn 100 năm. Trong luật HTX của nhiều nước cũng
như một số tổ chức quốc tế đều có các định nghĩa về HTX. Liên minh HTX
quốc tế (International Covperatise Alliance - ICA) được thành lập tháng 8 năm
1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa HTX như sau: "Hợp tác
xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng
các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa qua một
xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ". Năm 1995, định nghĩa này được


10

hoàn thiện: "Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách
nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những
người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo
đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc
người khác" [1].
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của
những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện
liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài
sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải
quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác, phục vụ
cho lợi ích vật chất và tinh thần chung v.v...

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác
nhau về đặc điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động v.v. của các mô
hình HTX ở các nước trên thế giới, song các loại hình HTX đều có một số đặc
điểm chung sau đây:
- HTX là một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp
vốn, góp sức hình thành. Hoạt động của HTX chủ yếu nhằm mục đích phục
vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ
lẫn nhau (cũng là giúp đỡ chính mình). Ngoài ra, hoạt động của HTX còn
mang tính cộng đồng xã hội - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng. Do vậy, lợi
nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX.
- Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và
quản lý dân chủ. Ở các nước tư bản, kinh tế hợp tác mặc dù chỉ là dòng "Kinh
tế phụ", nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với nông dân. HTX giúp đỡ các
trang trại, hộ nông dân tồn tại trước những tác động của kinh tế thị trường và
ảnh hưởng của các tổ chức độc quyền lớn. Do vậy, ngoài mục tiêu kinh tế,
HTX còn là loại hình kinh tế mang tính chất xã hội - nhân đạo.


11

* Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới:
Ở nước ta, trong quá trình cải tạo kinh tế XHCN và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm, phát triển. Thời kỳ 1958 - 1980, kinh tế HTX phát triển mạnh trong
phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp to lớn trong xây dựng nông thôn,
phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Song, trong một thời gian
dài, do nhận thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, chúng ta
đã đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, hợp tác hóa với cải tạo XHCN; xây
dựng các HTX không hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mà thực hiện

bằng các biện pháp hành chính, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi thường
các bước quá độ trung gian trong cải tạo XHCN. Ở thời kỳ này, vẫn có các
hình thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như tổ đổi công, tổ đoàn kết sản
xuất, HTX bậc thấp, nhưng cũng chỉ là tạm thời, xu hướng chung là chuyển
nhanh lên trình độ tập thể hóa bậc cao. Do vậy, chúng ta đã vi phạm nghiêm
trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Các HTX càng tập thể hóa ở trình độ cao, càng hoạt
động kém hiệu quả; đã đẩy kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, trì trệ.
Khi đất nước đổi mới, mở cửa, chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền
kinh tế, hàng loạt các HTX bị đổ vỡ, giải thể, đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả
về nội dung và phương thức hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh
tế mới.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
và các biện pháp chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ, sản xuất nông nghiệp nước
ta đã có bước phát triển mạnh mẽ; kinh tế tập thể trong nông nghiệp cũng xuất
hiện nhiều hình thức hợp tác, liên kết mới, song chưa được định hình về tổ
chức. Ở một số địa phương, các HTX đã tìm tòi, thử nghiệm mô hình HTX
kiểu mới cho phù hợp với thực tế kinh tế.


12

Tổng kết thực tiễn đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần.
Tháng 3-1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX để tạo
cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước theo định hướng XHCN. Những HTX được thành lập và hoạt động theo
Luật này được gọi là HTX kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTX trước đổi
mới).

Theo luật này, HTX được định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao
động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể
và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [7, tr. 5].
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm
1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát
triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và
thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4,
Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX năm
2003). Luật này định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia
đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật
này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác
xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất,
kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát


13

triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư
cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài
chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn
khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật [8, tr. 7].
Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX năm

1996 và Luật HTX năm 2003 được gọi chung là HTXNN kiểu mới (để phân
biệt với mô hình HTXNN trước đổi mới). HTXNN kiểu mới là tổ chức kinh
tế do những người nông dân tự nguyện thành lập lên nhằm mục đích trợ giúp
các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch
vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa hoạt động. HTXNN kiểu
mới ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ nông dân.
Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, HTXNN kiểu mới có thể tổ
chức theo các hình thức sau:
- HTXNN làm dịch vụ: về mặt hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong
nông nghiệp được tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm:
dịch vụ các yếu tố đầu vào (các HTX cung ứng vật tư), dịch vụ các khâu cho
sản xuất nông nghiệp (các HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…), dịch
vụ quá trình tiếp theo của sản xuất nông nghiệp (các HTX bảo quản và tiêu
thụ sản phẩm). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của từng ngành, từng mức độ,
yêu cầu của hợp tác và phân công lao động để lựa chọn các hình thức HTX
cho thích hợp. Bởi vì, ngay mô hình HTX dịch vụ cũng được phân thành
nhiều hình thức: HTX dịch vụ chuyên khâu và HTX dịch vụ tổng hợp.
- HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ: các HTXNN loại này thường dưới
dạng các HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX dịch vụ
chuyên ngành gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Trong đó, trực tiếp sản
xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm.


14

Ví dụ: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa…
- HTX sản xuất nông nghiệp thuần túy: HTX loại này giống như các
HTXNN ở nước ta trước khi đổi mới. Tức là, những người sản xuất liên kết
với nhau ở khâu sinh học của sản xuất nông nghiệp với mục đích tạo ra quy
mô sản xuất thích hợp, nhằm chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo ra

những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng như chăn nuôi cá ở các hồ,
đầm lớn…
Căn cứ vào những hình thức HTXNN nêu trên, cần lựa chọn mô hình
HTX phù hợp với đặc điểm của từng ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông
dân và đặc thù từng địa phương - mô hình đó hoạt động sẽ có hiệu quả.
Từ khái niệm và các hình thức HTXNN kiểu mới, có thể thấy được
các đặc điểm đặc thù của chúng như sau:
- HTXNN là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông
thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các nước
đang phát triển, do đó, có ưu thế về số lượng lao động. Lực lượng lao động ở
HTXNN nếu được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật và
công nghệ, sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh
tế - xã hội nông thôn.
- HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người còn nhiều hạn chế
về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật so với các loại hình doanh
nghiệp khác. Điều này được biểu hiện ở các nước đang phát triển. Đây là hạn
chế lớn nhất về kinh doanh của loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó, vai trò
của Nhà nước đối với HTXNN là tất yếu về các mặt: quản lý nhà nước, giúp
đỡ, hỗ trợ và quản lý HTX, HTXNN cũng không thể không liên kết, kinh
doanh với các tổ chức kinh tế, xã hội khác trong quá trình phát triển.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi nên trong


15

quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các
quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm này
thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tích
lũy ít. Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và HTXNN năng động, sáng tạo thì sẽ
có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng hóa đặc sản có

chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như thực hiện chuyên môn hóa, đa
dạng hóa sản phẩm.
1.1.2. Mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
1.1.2.1. Đặc trưng và ưu thế của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp
kiểu mới
Qua nội dung Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về: tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật HTX năm 2003, đã
thể hiện những đặc điểm cơ bản của mô hình HTXNN kiểu mới và ưu thế của
nó, đó là:
Thứ nhất, HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân góp sức, góp vốn lập ra, hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động
của mình và được bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Bản chất của
HTX là tổ chức kinh tế tập thể mang tính xã hội cao bao gồm cả thể nhân,
pháp nhân (các tổ chức kinh tế - xã hội), cán bộ công chức, cả người ít vốn
lẫn người nhiều vốn, nhưng phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ về gia
nhập và ra khỏi, về tổ chức quản lý HTX theo luật định. Mặt khác, HTX là tổ
chức kinh tế tự nguyện, có quyền tự chủ, bình đẳng với các loại hình kinh
doanh khác trong quá trình hoạt động. Chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài
chính của mình đối với các tổ chức kinh tế khác theo thỏa thuận, hợp đồng đã
kí kết. Điều này đã khắc phục được tư tưởng HTX nặng về tổ chức xã hội và
là công cụ của chính quyền cơ sở như mô hình HTX trước đổi mới.


16

Thứ hai, HTX tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ
điều kiện theo quy định của luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền
gia nhập HTX. xã viên có quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX.

Nguyện vọng của họ được tôn trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là
nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động viên được sự nhiệt tình của các đối
tượng tham gia.
- Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham
gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX; những vấn để lớn trong sản xuất, kinh
doanh của HTX đều phải được đại hội xã viên thảo luận dân chủ và thông
qua; các xã viên đều có quyền ngang nhau trong biểu quyết theo hình thức
mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu như nhau, không phụ thuộc vào
mức vốn góp; đồng thời, HTX phải thực hiện tốt việc công khai cho xã viên
biết theo định kỳ về phương thức, kế hoạch sản xuất - kinh doanh, công khai
tài chính, phân phối, thu nhập của HTX. Đây là nguyên tắc then chốt, liên
quan đến sự tồn tại và phương hướng phát triển lành mạnh của HTX.
- Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX là tổ
chức kinh tế, hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi
ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời, coi trọng lợi ích xã hội của các
thành viên. Trong thành lập và hoạt động, HTX có quyền được lựa chọn
ngành nghề sản xuất - kinh doanh phù hợp mà pháp luật không cấm, theo ý
chí, nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường; liên doanh liên kết
với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong phân phối lợi ích và giải
quyết những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi, phải tuân thủ
nguyên tắc cùng có lợi, hài hòa giữa xã viên và xã viên, giữa xã viên và HTX,
HTX với lợi ích cộng đồng. Nguyên tắc này đã xác định rõ điều kiện tồn tại


17

và phát triển của HTX chính là ở vai trò, trách nhiệm làm chủ của các xã viên
đối với HTX; chủ động phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực sẵn có của
xã viên; HTX năng động tìm kiếm cơ hội kinh doanh và cạnh tranh để tồn tại
và phát triển.

- Hợp tác và phát triển cộng đồng: Là nguyên tắc và tiêu chí mang
tính đặc trưng của HTX kiểu mới, gắn kết lợi ích kinh tế của các thành viên
HTX với lợi ích xã hội và phát triển cộng đồng. HTX là tổ chức kinh tế tập
thể, mọi hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm hợp
tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua khó khăn; tăng thu nhập, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của các thành viên tham gia. Trên cơ sở đó, không ngừng
nâng cao vai trò, tính chất xã hội của HTX để giải quyết các vấn đề xã hội, góp
phần tích cực thực hiện chủ trương giải quyết công ăn, việc làm, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng kết cầu hạ tầng xã hội, tăng cường tình làng, nghĩa xóm,
đoàn kết cộng đồng, đó là nhân tố quan trọng để HTX phát triển bền vững.
Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX.
- Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX kiểu cũ, một đặc điểm quan
trọng nhất quyết định các quan hệ khác là chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản
xuất. Người nông dân khi vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản
xuất chủ yếu; xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, sở hữu cá nhân không được thừa
nhận. Chính điều này đã làm nảy sinh tình trạng vô chủ và sự thiếu trách
nhiệm của nhiều xã viên đối với tài sản của HTX. Trong HTX kiểu mới, sở
hữu của HTX là sở hữu đan xen, đa dạng và linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và
đặc điểm của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, "dựa trên sở hữu
của các thành viên và sở hữu tập thể" [3, tr. 34].
Sở hữu của tập thể xã viên (sở hữu của HTX) là nguồn vốn tích lũy tái
đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX và các
quỹ không chia. Những vốn, quỹ, tài sản thuộc sở hữu tập thể được khuyến


18

khích tăng thêm cùng với sự phát triển của HTX nhằm tạo điều kiện củng cố,
phát triển HTX. Sở hữu thuộc cá nhân xã viên được tôn trọng, xã viên có toàn
quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản xuất kinh doanh. Nếu HTX có nhu cầu sử dụng các tư liệu sản xuất đó, thì phải thuê

của xã viên. Vốn góp của xã viên khi vào HTX được sử dụng cho hoạt động
chung của HTX và sẽ trả lại cho xã viên khi ra khỏi HTX. Như vậy, HTX
không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, tôn trọng sở hữu của
các thành viên. HTX kiểu mới làm cho xã viên thực sự là chủ nhân của HTX
thông qua quy định về góp vốn, góp sức xây dựng HTX; quyền lợi, trách nhiệm
của xã viên gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX.
- Về quan hệ quản lý: Trong cơ chế quản lý của HTX kiểu cũ, quan hệ
giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc, xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất,
trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính
chất hợp tác đích thực trong HTX không còn, người lao động phụ thuộc, bị
động, thiếu chủ động sáng tạo. Đặc trưng của HTX kiểu mới là hoạt động sản
xuất - kinh doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất - kinh
doanh của xã viên, mà chỉ diễn ra ở từng công đoạn, khâu công việc nhằm bổ
trợ, phát huy thế mạnh của từng xã viên. Do đó, HTX kiểu mới phát huy được
quyền làm chủ của họ. Xã viên trực tiếp tham gia quản lý, giám sát hoạt động
của HTX theo nguyên tắc quản lý dân chủ, xã viên quyết định các công việc
quan trọng của HTX một cách bình đẳng, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều.
Bộ máy quản lý HTX được tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả, tách rõ chức năng quản lý
với chức năng điều hành. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu trình độ phát triển của
HTX mà có thể thành lập bộ máy vừa quản lý, vừa điều hành hoặc thành lập
riêng bộ máy quản lý với bộ máy điều hành. Ban quản trị HTX là bộ máy
quản lý HTX do đại hội xã viên bầu trực tiếp. Trường hợp HTX không tổ
chức riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy
quản lý và bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX, đồng thời là trưởng ban


19

quản trị và phải là xã viên HTX, do đại hội xã viên bầu. Trường hợp HTX tổ
chức riêng bộ máy quản lý và điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý là

trưởng ban quản trị và người đứng đầu bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX;
ở trường hợp này, chủ nhiệm HTX có thể là người được thuê ngoài HTX,
không phải là xã viên.
- Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối
mang nặng tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích xã viên tích cực,
hăng say lao động; xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế
gia đình. HTX kiểu mới "thực hiện phân phối theo nguyên tắc công bằng,
cùng có lợi", người lao động ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất
lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo mức độ tham gia dịch vụ và lợi
tức cổ phần theo vốn góp. Lợi nhuận HTX càng cao, lợi tức cổ phần càng lớn,
thu nhập của xã viên càng nhiều. Đây là động lực khuyến khích xã viên hăng
say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, HTX còn tạo ra các
quỹ không chia; một mặt, để mở rộng sản xuất; mặt khác, tạo lên phúc lợi
công cộng cho mọi thành viên trong HTX; kết hợp chặt chẽ lợi ích cá nhân và
lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô,
lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với mô hình linh
hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm từng ngành, từng vùng, với
nhiều trình độ phát triển từ thấp đến cao.
Có những HTX chỉ hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu chung về một
hay một số dịch vụ đầu vào đầu ra, dịch vụ chuyên ngành, dịch vụ tổng hợp
đa chức năng; HTX sản xuất kết hợp dịch vụ, HTX sản xuất kinh doanh ở
mức độ hợp tác toàn diện; từ HTX phát triển thành các liên hiệp HTX.
Thứ năm, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó, tác động
tương hỗ, cùng nhau phát triển.
Nếu như trong HTX kiểu cũ, kinh tế cá thể, hộ gia đình không được


20


chấp nhận hoặc chỉ được coi là kinh tế phụ và bị hạn chế trong một giới hạn
nhất định, thì HTX kiểu mới được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế
hộ. HTX kiểu mới không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất - kinh doanh của các
thành viên, HTX chỉ làm những gì mà mỗi thành viên riêng lẻ không làm
được hoặc làm không hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Trong
nông nghiệp, hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, vừa là người chủ của
HTX, là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán sản phẩm cho HTX; do
đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề kinh tế thuận lợi cho
sự phát triển HTX; ngược lại, HTX phát triển để hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế
hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh.
Có thể khái quát đặc trưng mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới so với
HTX nông nghiệp thời kỳ trước đổi mới (bảng 1.1).
Bảng 1.1: So sánh HTXNN trước đổi mới và HTXNN kiểu mới
HTXNN trước đổi mới
HTXNN kiểu mới
Cách thức thành lập Áp đặt, "Từ trên xuống"
Tự nguyện, "Từ dưới lên"
Vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ Trước hết là tổ chức kinh tế vì sự
Tính chất của tổ chức chức xã hội ở địa phương.
phát triển của kinh tế hộ xã viên
HTX.
HTX hoạt động theo cơ chế Môi trường hoạt động đã khác
mệnh lệnh, hành chính, tập trung hẳn, quan hệ hành chính, độc
bao cấp. Các quan hệ giải quyết quyền được thay bằng quan hệ
đầu vào, đầu ra trong hoạt động kinh tế đa phương, tự nguyện.
kinh tế của HTX chủ yếu thông HTX phải tự chủ, tự chịu trách
Cơ chế hoạt động
qua các tổ chức kinh tế nhà nước nhiệm, tự bù đắp, bảo toàn và
của HTX
(công ty vật tư nông nghiệp, công phát triển vốn, phải hoạt động

ty lương thực, công ty giống…) trong môi trường cạnh tranh của
tức là được độc quyền hóa và nền kinh tế nhiều thành phần, giao
hành chính hóa.
lưu kinh tế, từng bước phát triển
trên cơ sở luật pháp của nhà nước.
Thành viên tham
Thể nhân
Thể nhân, pháp nhân.
gia
Sở hữu tập thể trên cơ sở tập thể Sở hữu chung trên cơ sở góp vốn,
hóa tư liệu sản xuất.
đan xen giữa sở hữu tập thể và sở
Sở hữu
hữu cá thể của xã viên
Tổ chức bộ máy Chức năng quản lý và điều hành Chức năng quản lý và điều hành
quản lý HTX
trong HTX được lồng ghép. Bộ được tách biệt, rõ ràng. Bộ máy


21

máy quản lý của HTX bao gồm:
Ban quản trị, Ban kiểm soát,
Trưởng ban quản trị kiêm chủ
nhiệm HTX. Công tác cán bộ
HTX được đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng ủy và chính
quyền địa phương, các chức danh
chủ chốt của HTX do Đảng ủy
chỉ định và người trong nội bộ

HTX nắm giữ.

quản lý của HTX bao gồm Ban
quản trị, Ban kiểm soát, Ban chủ
nhiệm. Chủ nhiệm HTX có thể
do Trưởng ban quản trị kiêm
nhiệm hoặc là người do HTX
thuê. HTX được quyền tự chủ
trong công tác cán bộ của mình,
các chức danh chủ chốt không
nhất thiết phải do đảng viên hay
người trong nội bộ HTX nắm
giữ.
Theo vốn, lao động và mức độ sử
Phân phối
Bình quân, bao cấp
dụng dịch vụ của HTX.
Trực tiếp tổ chức sản xuất, lao Nội dung hoạt động đa dạng có
động tập trung, thủ tiêu sự độc thể làm dịch vụ, hoặc vừa làm dịch
Nội dung hoạt động lập của kinh tế hộ.
vụ vừa sản xuất kinh doanh đa
ngành nghề, song đều hướng vào
hỗ trợ kinh tế hộ tự chủ phát triển.
Không bị giới hạn bởi địa giới
Phạm vi hoạt động Theo địa giới hành chính
hành chính.
Thực hiện các
Các nguyên tắc HTX bị vi phạm Các nguyên tắc HTX được tôn trọng.
nguyên tắc HTX


Nhà nước

Nhà[51].
nước
Nguồn:

Biểu đồ 1.1: Mối quan hệ giữa HTXNN với xã viên và các tổ chức
HTXNN trước đổi
mới

HTXNN kiểu mới

Các
tổ
chức
kinh
tế
nhà
nước

Các

quan
nhà
nước

HTXNN

Xã viên


Các

quan
nhà
nước

Các
tổ
chức
kinh tế
phi
nhà
nước

HTXNN

Hộ nông dân tự chủ

Các
tổ
chức
kinh tế
nhà
nước


22

Nguồn: [51].
1.1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của HTXNN kiểu

mới.
Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế nông hộ tự chủ theo hướng sản
xuất hàng hóa.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, HTX thành lập dựa trên
chế độ sở hữu tập thể về tư liêu sản xuất, xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, xóa
bỏ sản xuất theo hộ; xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao
động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích
thực trong HTX không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, ỷ lại thiếu
chủ động sáng tạo; dẫn đến HTX làm ăn ngày càng sa sút, kém hiệu quả, đời
sống nông dân gặp nhiều khó khăn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong nông nghiệp thực hiện "Chính sách
khoán" (theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 05- 04-1988, về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp), hộ nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự
chủ, sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn được giải phóng. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển, kinh tế nông hộ lại nảy sinh nhu cầu hợp tác để
nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sức cạnh tranh trên thị trường. Vì


23

trong nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt có nhiều hoạt động chỉ có thể
đạt được hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở có sự liên kết chung như: công tác
thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh…
Đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH), nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mở cửa hội nhập,
kinh tế hộ tự chủ đứng trước yêu cầu cơ khí hóa, từng bước ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ (KHCN) mới vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất
lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; tổ chức bảo quản, chế biến và tiêu
thụ nông sản… dẫn đến nhu cầu hợp tác kinh tế và phát triển HTXNN kiểu mới
ngày càng mạnh mẽ.

Như vậy, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và
tác động qua lại. HTX kiểu mới hình thành và phát triển trên cơ sở hộ nông dân
là đơn vị kinh tế tự chủ, phục vụ lợi ích cho các hộ. Hộ nông dân vừa là đơn vị
kinh tế tự chủ, lại vừa là người chủ trong HTX; là người tiêu dùng các dịch vụ đầu
vào và bán các sản phẩm nông nghiệp cho HTX. Do đó, kinh tế hộ càng phát
triển, càng tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển HTXNN kiểu mới.
Đồng thời, HTXNN kiểu mới là môi trường quan trọng để bổ sung, hỗ trợ cho
kinh tế hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh.
Thứ hai, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về khuyến khích phát triển HTXNN kiểu mới.
Sự chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đã làm cho phần
lớn các HTX tổ chức theo mô hình cũ lâm vào tình trạng khó khăn, lúng túng,
mất phương hướng hoạt động. Kinh tế HTX suy giảm cả về số lượng và vai
trò trong nền kinh tế, đòi hỏi phải có sự đổi mới cả về nội dung và phương
thức hoạt động cho phù hợp với môi trường sản xuất - kinh doanh mới.
Trong suốt quá trình tìm tòi thử nghiệm, đặc biệt từ sau Đại hội đại biểu


24

toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986), đã diễn ra quá trình đổi mới từng phần
đến đổi mới toàn bộ, căn bản mô hình HTX cùng với cơ chế quản lý theo mô
hình cũ. Trong từng bước thay đổi, Đảng ta luôn chú ý tổng kết, đánh giá và kịp
thời đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp, tạo bước ngoặt quyết định cho sự
phát triển nông nghiệp và sự hình thành mô hình HTX kiểu mới. Sự ra đời và đi
vào thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương (ban hành ngày 13- 011981), đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới mô hình HTX "tập thể hóa" trước
đây. Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 05- 04-1988), về
đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII (năm 1993), kinh tế hộ nông dân được xác định là

đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn định lâu dài với năm quyền
(chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê). Điều này thực sự đã
tạo lên bước đột phá cho quá trình phát triển nông nghiệp nước ta. Đồng thời, nó
cũng đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình HTX kiểu
mới trên phạm vi toàn quốc (giai đoạn 1986 - 1996). Đây là bước chuẩn bị quan
trọng cho sự ra đời Luật HTX được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 20-3-1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 1-1997. Từ sau đó, đã có 9
Nghị định dưới luật được ban hành hướng dẫn việc thi hành Luật HTX.
Cùng với các văn bản nói trên là hàng loạt các Nghị quyết Hội nghị
lần thứ hai, thứ tư, thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương khóa VI; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu (lần 1) của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII. Hiến pháp, luật dân sự, luật đất đai, chỉ thị số 68/BBT ngày
24-5-1996 về phát triển kinh tế HTX trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh
tế v.v... Thực tế cho thấy, mặc dù các văn bản nói trên chưa thật sự đầy đủ,
đặc biệt trong khâu hướng dẫn thi hành; song đây là lần đầu tiên kinh tế HTX
ở nước ta có được khuôn khổ pháp lý rất cơ bản, tạo điều kiện cho sự vận
động, phát triển của hình thức kinh tế này trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996),


25

Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã đưa ra Nghị quyết về: tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát
triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và
thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4,
Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX 2003) và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Luật HTX mới đã hoàn thiện căn bản khuôn
khổ pháp lý để HTX hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường, nên đã thúc

đẩy kinh tế HTX phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Như vậy, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước là nhân tố tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển
và hiệu quả kinh tế - xã hội của kinh tế hợp tác và HTX nói chung, trong đó
có HTXNN. Đồng thời, đây cũng là nhân tố tạo lên bước ngoặt quan trọng
cho quá trình chuyển đổi, xây dựng HTX kiểu mới trong điều kiện phát triển
nông nghiệp hàng hóa, tiến lên sản xuất lớn, hiện đại với sự tác động của cơ
chế thị trường, hội nhập và "mở cửa" trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý HTX nhiệt tình, có trách
nhiệm, có trình độ.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệt tình, có trách nhiệm, có trình
độ, có tinh thần vì lợi ích của nhân dân lao động, hăng hái đi tiên phong trong
phong trào hợp tác, là những người sáng lập và lãnh đạo HTX là nhân tố hết
sức quan trọng đối với sự phát triển của HTX. Thực tiễn đã chỉ rõ, ở đâu cán
bộ tốt, có trình độ, tâm huyết, nhiệt tình và biết phát huy dân chủ, ở đó HTX
ăn lên, làm ra, xã viên phấn khởi, gắn bó với HTX. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay, trình độ học vấn và quản lý của cán bộ HTXNN còn thấp, số chưa qua
đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Theo báo cáo của Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành
Trung ương tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, trình
độ ban quản lý HTX nông nghiệp (số liệu điều tra tháng 6/2001): Chủ nhiệm


×