DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
An sinh xã hội
Bảo hiểm y tế
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng Nhân dân
Khoa học công nghệ
Kế hoạch hóa gia đình
Lao động - Thương binh và Xã hội
Mặt trận Tổ quốc
Mục tiêu Quốc gia
Ngân sách nhà nước
Tổng cục thống kê
Ủy ban Nhân dân
Xóa đói giảm nghèo
Chữ viết tắt
ASXH
BHYT
CNH, HĐH
HĐND
KHCN
KHHGĐ
LĐ-TB&XH
MTTQ
MTQG
NSNN
TCTK
UBND
XĐGN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO
1.1.
Giảm nghèo và sự cần thiết giảm nghèo
1.2.
Quan niệm, nội dung và những nhân tố ảnh hướng đến giảm
nghèo ở thành phố Hà Nội
10
10
25
Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
2.2.
THỜI GIAN QUA
36
Tổng quan về tình hình nghèo ở thành phố Hà Nội thời gian qua
36
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
trong công tác giảm nghèo ở thành phố Hà Nội
46
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN GIẢM
NGHÈO Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
3.1.
Quan điểm cơ bản thực hiện giảm nghèo ở thành phố Hà
Nội thời gian tới
3.2.
65
65
Giải pháp chủ yếu thực hiện giảm nghèo ở thành phố Hà
Nội thời gian tới
73
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
95
96
99
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu. Nó
không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn
tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Cuộc sống nghèo và nghèo
khổ của một bộ phận dân cư đang là một thách thức đối với sự phát triển của
toàn thế giới kể cả với các nước công nghiệp phát triển, thực hiện giảm nghèo
nâng mức sống của dân cư là một trong những mục tiêu phát triển của xã hội.
Vì vậy, đây là vấn đề các chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế
quan tâm để tìm ra giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ cuộc sống nghèo khổ
trên phạm vi toàn cầu. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại
Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3 năm 1995 đã xác định: “XĐGN là một
trong ba vấn đề trọng tâm được các nước cam kết thực hiện, coi đây là đòi hỏi
bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của cả nhân loại”. Bước
vào thế kỉ XXI, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn của nhân
loại. XĐGN được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng
đầu trong các mục tiêu phát triển của thế giới hiện đại.
Đối với Việt Nam, sau gần 30 năm đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu. Đời sống nhân dân được cải thiện và từng bước được nâng cao,
theo báo cáo của Bộ LĐ -TB&XH thì hiện nay cơ bản chúng ta đã xóa xong hộ
đói. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận dân cư vẫn đang sống cuộc sống nghèo và
nghèo khổ, vì vậy, vấn đề giảm nghèo ngày càng trở nên quan trọng và là nhiệm
vụ trọng tâm của toàn Đảng toàn dân ta trong thời kỳ mới. Chính phủ Việt Nam
luôn coi vấn đề giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị của đất nước, trong những năm
qua, bám sát và thực hiện đúng mục tiêu, yêu cầu trong các Nghị quyết của
3
Đảng đề ra, việc thực hiện công tác giảm nghèo đã có sự chuẩn bị chu đáo,
phần nào đã tạo được yếu tố chủ động tích cực và có nhiều chuyển biến, đời
sống nhân dân được nâng cao, các chính sách ASXH được thực hiện một cách
có hiệu quả. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau,
công tác giảm nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội còn nhiều vấn đề bất cập cả
về chủ trương, chính sách cũng như công tác tổ chức thực hiện. Đặc biệt là sau
khi mở rộng địa giới hành chính, kinh tế, chính trị, xã hội đã có sự thay đổi lớn
cả về quy mô và cơ cấu. Để kinh tế - xã hội ổn định phát triển đi lên và từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân Thủ đô là một thách
thức khá lớn vì hiện nay tỉ lệ hộ nghèo, người nghèo còn khá cao. Giảm nghèo,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Thủ đô
trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra là tiếp tục làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về công
tác giảm nghèo, từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp thực hiện giảm
nghèo trên địa bàn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Giảm nghèo ở thành
phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên nghành kinh tế chính
trị
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghèo đói không phải là một vấn đề gì mới mẻ với mọi quốc gia.
Nghèo đói gây cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội, và kìm hãm nguồn
lực của quốc gia khi sức sản xuất không có đủ điều kiện để phát triển, và các
quỹ phúc lợi của xã hội phải chia sẻ để hỗ trợ cho những khu vực có mức thu
nhập thuộc loại nghèo. Giảm nghèo trở thành vấn đề xuyên suốt trong các
chương trình hành động của Chính phủ, các Bộ, Ngành và chính quyền các
cấp. Giảm nghèo luôn là sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và của
toàn xã hội. Cho nên, vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm nghiên
cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau.
4
Cho đến nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận
văn tốt nghiệp đã đề cập đến vấn đề giảm nghèo, trong đó có các công trình như:
* Nhóm công trình nghiên cứu được viết dưới dạng sách chuyên
khảo và tham khảo có:
Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của nhà nước góp phần xoá
đói giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã làm rõ những nội cơ bản về
thực trạng đói nghèo ở Việt Nam. Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển
kinh tế với quá trình xóa đói giảm nghèo. Tác động của những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo trong quá
trình thực hiện CNH, HĐH ở nước ta.
Vũ Thị Ngọc Phùng (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và
vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các công trình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm chủ biên có:
- Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993);
- Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993);
- Xoá đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996);
- Xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997).
Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1999), Kinh tế thị trường và sự phân
hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả luận giải mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế thị trường và tác động của nó đến sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội,
đánh giá thực trạng mặt trái của cơ chế thị trường. Đưa ra những giải pháp cơ
bản nhằm khắc phục mặt trái của sự tác động trong cơ chế thị trường đến
phân hóa giàu nghèo ở các vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta.
* Nhóm công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn, luận án có:
Vũ Thị Hiểu (1996), Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần
xóa đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam, Luận án PTSKH Kinh tế, Đại học
5
kinh tế quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã phân tích tình hình sử dụng lao động và
thực trạng đói nghèo ở Việt Nam, khẳng định sự cần thiết phải nâng cao hiệu
quả sử dụng lao động để góp phần xóa đói giảm nghèo từ đó đề xuất các giải
pháp giải quyết để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
Đỗ Thế Hạnh (1998), Thực trạng và những giải pháp kinh tế chủ yếu
nhằm xoá đói giảm nghèo ở vùng định canh định cư tỉnh Thanh Hoá, Luận
văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Hằng (1999) Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lí
luận và thực tiễn của vấn đề xóa đói giảm nghèo, khảo sát đánh giá thực trạng
vấn đề nghèo đói ở nông thôn nước ta. Tác giả đã phân tích và làm rõ những
nguyên nhân nghèo đói, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan từ đó đề ra
một số giải pháp.
Nguyễn Thị Mai Hồng (2000), Phân hóa giàu nghèo trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, thực trang, xu hướng và giải
pháp, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác
giả đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa phân hóa giàu nghèo và kinh tế thị
trường. Thực trạng phân hóa giàu nghèo khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường, dự báo những xu hướng biến động trong qúa trình phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới, trên cơ sở đó đưa ra một số
quan điểm và giải pháp nhằm giảm thiểu sự phân hóa giàu nghèo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bùi Thị Lý (2000), Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác
giả đã luận giải những vấn đề lí luận và thực tiễn của vấn đề xóa đói giảm
nghèo. Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ và đưa ra phương
hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những thành tựu trong công
tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú Thọ.
6
Trần Đình Đàn của (2001), Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu
nhằm xóa đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã luận giải cơ sở lí luận và thực
tiễn về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh, trên cơ sở đó xây dựng
chiến lược và giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo cho
dân cư nông thôn ở Hà Tĩnh.
Trần Thị Hằng (2001), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh. Tác giả đã nghiên cứu lí luận về nghèo và giảm nghèo dưới góc độ
kinh tế chính trị, so sánh sự nghèo của Việt Nam trước và sau khi đổi mới.
Luận giải cơ sở của việc giải quyết vần đề giảm nghèo hiện nay trong nền
kinh tế thị trường và đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết vần đề xóa đói
giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Ngô Tiến Ngọc (2008) Xoá đói giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá,
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Bùi Thị Hoàn (2012), Vấn đề phân hóa giàu – nghèo trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện khoa học xã
hội. Tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lí luận cơ bản về sự phân hóa giàu
nghèo, đánh giá thực trạng, nguyên nhân, xu hướng vận động và những vấn
đề đặt ra từ sự phân hóa giàu, nghèo trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Trên cớ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hạn chế sự phân hóa
giàu, nghèo trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Nguyễn Thị Nhung (2013), Giải pháp xóa đói giảm nghèo nhằm phát
triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế ,
Trường đại học Kinh tế quốc dân. Luận án đã tập trung phân tích thực tiễn xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam, điều tra, khảo sát để đánh giá tình hình nghèo đói
ở các tỉnh Tây Bắc về: đặc điểm nghèo đói, khó khăn hạn chế, nguyên nhân
hạn chế trong việc nâng cao vai trò của xóa đói giảm nghèo đối với phát triển
7
kinh tế xã hội. Từ đó, đưa ra quan điểm, phương hướng và một số giải pháp cơ
bản để thực hiện xóa đói giảm nghèo nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
* Nhóm tài liệu nghiên cứu dưới dạng các bài viết, bài báo khoa học có:
Vũ Tuấn Anh (1997), "Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông
thôn", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (227).
Thanh Hùng (2006), "Xoá đói giảm nghèo ở vùng Bắc Trung Bộ", Tạp
chí Cộng sản, (5).
GS, TS Hoàng Chí Bảo (2014), “An sinh xã hội với ổn định và phát
triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề đói
nghèo dưới các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn cũng như các
phương hướng, giải pháp. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa
học nào dưới góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về giảm nghèo ở thành phố
Hà Nội hiện nay. Đề tài mà tác giả lựa chọn nghiên cứu không trùng lặp với
những công trình khoa học đã nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề về công tác giảm nghèo, phân tích thực trạng giảm
nghèo ở thành phố Hà Nội hiện nay, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm
thực hiện giảm nghèo ở thành phố Hà Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những vấn đề về công tác giảm nghèo
- Đánh giá thực trạng giảm nghèo ở thành phố Hà Nội thời gian qua
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu thực hiện giảm nghèo ở
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giảm nghèo
* Phạm vi nghiên cứu
8
Luận văn nghiên cứu vấn đề giảm nghèo ở thành phố Hà Nội, khảo sát
số liệu từ năm 2008 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa vào đường lối, quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Hà
Nội về giảm nghèo.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin
(trừu tượng hoá khoa học) và các phương pháp liên ngành khác như: kết hợp lôgíc
và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính quyền
thành phố Hà Nội trong việc hoạch định chính sách và chỉ đạo công tác giảm
nghèo trên địa bàn thành phố. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề giảm nghèo.
7. Kết cấu của luận văn
Bao gồm: phần mở đầu, nội dung: 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO
1.1. Giảm nghèo và sự cần thiết giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về nghèo, giảm nghèo và tiêu chí xác định chuẩn nghèo
* Quan niệm nghèo
Nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, tồn tại khách quan trong lịch
sử phát triển của mỗi quốc gia. Trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến nghèo có nguyên nhân chủ yếu và trước hết là do trình
độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, sản phẩm thặng dư trong xã hội không
nhiều, thêm vào đó là tình trạng áp bức giai cấp nặng nề trong các xã hội có
giai cấp nên quyền phân phối sản phẩm lao động làm ra thuộc về một ít người về giai cấp thống trị. Dưới chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất lớn đại công
nghiệp, đã tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn các xã hội trước và với
một lực lượng sản xuất phát triển, đã mở ra khả năng to lớn để con người có
thể đáp ứng được các nhu cầu phát triển của mình. Tuy nhiên, trong xã hội
này nghèo vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tình
trạng nghèo dưới chủ nghĩa tư bản đã làm cho đối kháng giai cấp ngày càng
gay gắt và sự phân cực xã hội sâu sắc.
Chính vì vậy, vấn đề nghèo đã được nhiều nhà khoa học, nhiều học giả,
nhiều trường phái trong lịch sử cũng như hiện tại quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên, mỗi thời đại khác nhau người ta có nhiều cách lí giải khác nhau về vấn
đề nghèo, nguyên nhân và cách giải quyết vấn đề này.
Các nhà triết học duy tâm giải thích hiện tượng nghèo là do chúa trời,
thần linh, thượng đế sinh ra, từ đó họ khuyên con người nên an phận, thủ
thường chấp nhận với cuộc sống hiện tại.
Các học giả tư sản mà tiêu biểu là Thomas Robert Malthus (1766-1844)
thì cho rằng: nghèo là do tình trạng dân số tăng theo cấp số nhân, của cải tăng
theo cấp số cộng nên lượng lương thực, thực phẩm và các tự liệu sinh hoạt
cần thiết khác cho cuộc sống con người sẽ tụt xuống dưới mức cần thiết. Vì
vậy, một bộ phận dân cư sống trong điều kiện nghèo cũng là lẽ đương nhiên.
10
Đây là quan điểm sai lầm vì Thomas Robert Malthus đã không tính đến sự
phát triển của tiến bộ khoa học và đặc điểm phát triển của nhân khẩu học.
Phê phán các quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm
của giai cấp tư sản C.Mác và Ăngghen đã mô tả cặn kẽ, xác thực tình trạng
nghèo khổ của những người vô sản phải bán sức lao động trong các nhà máy,
hầm mỏ của các chủ tư bản để kiếm sống, nông dân bị tước đoạt ruộng đất
phải bỏ chạy ra thành phố gia nhập đội quân thất nghiệp. Các ông đã vạch rõ
sự tích lũy tư bản là nguyên nhân của sự giàu có cho giai cấp tư sản và đẩy sự
nghèo khổ về giai cấp vô sản. Sự nghèo khổ của gia cấp vô sản thể hiện ở sự
bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối
biểu hiện ở tỉ lệ thu nhập của gia cấp vô sản ngày càng giảm, còn tỉ lệ thu
nhập của giai cấp tư sản ngày càng tăng. Bần cùng hóa tuyệt đối được biểu
hiện ở mức sống của họ bị giảm sút so với nhu cầu sống của họ. Như vậy,
nguyên nhân của nghèo đói trong xã hội tư bản theo C. Mác và Ăngghen là do
sự phân phối bất bình đẳng của cải làm ra trong xã hội mà nguồn gốc sâu xa
là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây với quan niệm cho rằng
nghèo khổ là hậu quả của sự bóc lột trong tăng trưởng kinh tế. Để giải quyết
nghèo đói, chỉ cần xác lập quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, quyền làm
chủ xã hội của nhân dân lao động thì nghèo đói sẽ tự động biến mất, xã hội sẽ
ngay lập tức đạt tới sự phồn thịnh, mọi người ai cũng giàu có. Song thực tế lại
không phải như vậy, mặc dù trong chủ nghĩa xã hội, không còn đối kháng giai
cấp, nhưng những sự khác biệt của người lao động vẫn luôn tồn tại. Sự khác
biệt về phẩm chất, năng lực, trí tuệ, thể lực, cơ hội của những người lao động
đã dẫn đến sự khác nhau về kết quả lao động có ích mà họ cống hiến cho xã
hội, và do đó khác nhau về thu nhập do kết quả lao động đó mang lại.
Hiện nay, trên thế giới, các học giả thường chủ yếu đề cập đến nghèo
và nghèo khổ mà ít đế cập đến khái niệm đói. Ở mỗi quốc gia đều sử dụng
một khái niệm để xác định mức độ nghèo và đưa ra các chỉ số nghèo để xác
định giới hạn nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các quốc gia được xác định
bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu
11
nhập mà một hộ gia đình có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản phục
vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.
Theo quan điểm của Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP):
Người nghèo là những người có thu nhập dưới đường ranh giới nghèo, được xác
định bằng số tiền cho nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở... Trước mắt là lương thực,
thực phẩm để duy trì sự sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng 2.100 - 2.300
Calo/người/ngày [47].
Đây là định nghĩa chung nhất về nghèo, tuy nhiên, những tiêu chí về
nghèo chưa được đề cập cụ thể vì ở đây còn phải tính đến yếu tố lịch sử, đến
trình độ phát triển kinh tế, phong tục tập quán của mỗi địa phương. Song có
thể nói, định nghĩa đã đề cập được đến nội dung cơ bản của vấn đề nghèo là
nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu,
cái tối thiểu để duy trì sự tồn tại về mặt sinh học của con người.
Khi xác định quan điểm về nghèo thông thường các học giả hiện nay phân
thành hai khái niệm, nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối
Nghèo tương đối, là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng
hay một nhóm dân cư này là thấp so với mức sống của cộng đồng hay nhóm
dân cư khác.
Tại hội nghị bàn về giảm nghèo trong khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc- Thái Lan tháng 9/1993 đã đưa ra
định nghĩa nghèo tuyệt đối như sau:
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các địa phương
[2, tr.70]. Đây là định nghĩa về nghèo tuyệt đối được hầu hết các nước thừa nhận.
Theo đó sự thiếu thốn “của cải” trong mối quan hệ với nhu cầu thiết yếu
của con người được xem xét là nghèo tuyệt đối. Còn khi xem xét thực trạng mức
sống và vị trí (về kinh tế và xã hội) các nhóm hoặc các cá nhân khác ở phương
diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ (quan hệ so sánh bằng phương pháp
phân tích so sánh) ta sẽ hình dung được nghèo tương đối. Từ cách hiểu chung
này cần thấy sự khác biệt về mức độ nghèo có tính chất địa phương và khu vực
12
(trong vùng trong một quốc gia, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa các
quốc gia trong khu vực này với quốc gia thuộc khu vực khác…).
Tuy nhiên, quan niệm về nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối như trên
chỉ mới nhìn thấy nghèo như là hệ quả tất yếu của nhân tố kinh tế, tức là sự
thấp kém của lực lượng sản xuất mà chưa thấy nghèo còn là hệ quả của chế
độ kinh tế - xã hội (bao gồm cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất).
Chính vì vậy, trong tất cả các giải pháp giảm nghèo của các nước hiện nay
còn thiếu tính triệt để chủ yếu thiên về viện trợ, cứu tế và thực hiện các công
tác từ thiện, không thể giúp người nghèo vươn lên thoát nghèo.
Đối với Việt Nam, khi xem xét và giải quyết vấn đề nghèo phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng. Đó là xem
xét và giải quyết đói nghèo phải từ bản chất chế độ kinh tế - xã hội, đồng thời
phải có quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể. Phải có cách nhìn một cách tổng
thể trong tính thống nhất cả kinh tế và xã hội.
Trên cơ sở tham khảo các khái niệm về nghèo trên thế giới và căn cứ
vào thực tiễn Việt Nam, nghèo ở Việt Nam cũng bao gồm nghèo tương đối và
nghèo tuyệt đối
Nghèo tương đối, là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung
bình của cộng đồng tại thời điểm xét.
Nghèo tuyệt đối là một bộ phận dân cư có thu nhập không đủ thỏa mãn
các nhu cầu tối thiểu (ăn, mặc, ở, các nhu cầu văn hóa, y tế, giáo dục) để duy
trì cuộc sống.
Nhu cầu tối thiểu bao hàm tất cả những chi phí để tái sản xuất sức lao
động như năng lượng cần thiết cho cơ thể, giáo dục, vui chơi giải trí và các
hoạt động văn hóa khác. Nhu cầu tối thiểu, mức cụ thể của nhu cầu tối thiểu
phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng, theo từng thời kỳ.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, cách tiếp cận nghèo về thu
nhập đã để xác định chuẩn nghèo đã bộc lộ những hạn chế. Thực tế, có những
nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng được bằng tiền, có những người tuy
không nghèo về thu nhập nhưng lại không tiếp cận được một số nhu cầu cơ
13
bản về y tế, giáo dục, thông tin... theo đó, nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa
vào thu nhập sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng.
Vì vậy, đã có nhiều chuyên gia đề xuất đưa ra chuẩn nghèo đa chiều
để đo lường được mức độ thiếu hụt các nhu cầu về: Giáo dục, y tế, điều kiện
sống… của từng hộ gia đình, từng địa phương. Từ những kết quả đó, các địa
phương sẽ có những phương án phân bổ ngân sách cho công tác giảm nghèo
hiệu quả hơn. Nghèo đa chiều cần xem xét dựa trên 5 chiều gồm: Y tế, giáo
dục, điều kiện sống, tiếp cận thông tin, bảo hiểm và trợ giúp xã hội. Kết quả
đo lường nghèo đa chiều này sẽ cho thấy sự thiếu hụt các chiều của từng
cộng đồng, khu vực để các nhà hoạch định chính sách có thể thiết lập thứ tự
ưu tiên trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, thông tin và các hoạt
động trợ giúp xã hội.
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây.
Tiêu chí có nghĩa là: Tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại
một sự vật, một khái niệm [35, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính.
Chuẩn có nghĩa là: cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng
theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo
lường, cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen
trong xã hội [35, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang tính định lượng. Từ đó ta có
thể hiểu chuẩn nghèo nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế
quy định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là
nghèo, còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn
là công cụ để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn
nghèo và tỉ lệ hộ nghèo có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao
thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại
Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của các tổ chức thế giới:
Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu
nghèo của các quốc gia căn cứ vào bình quân thu nhập đầu người theo hai
cách tính: Phương pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD;
14
phương pháp PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức mua tương
đương tính theo USD.
Theo phương pháp ATLAS, ở cấp quốc gia, căn cứ mức thu nhập bình
quân đầu người năm 1990, WB phân loại giàu nghèo trên thế giới thành 6
mức như sau:
+ Nước cực giàu: trên 25.000 USD/người/năm
+ Nước giàu: từ trên 20.000 USD đến 25.000 USD/người/năm
+ Nước khá giàu: từ trên 10.000 USD đến 20.000 USD/người/năm
+ Nước trung bình: từ trên 2.500 USD đến 10.000 USD/người/năm
+ Nước nghèo: từ trên 500 USD đến 2.500 USD /người/năm
+ Nước cực nghèo: dưới 500 USD/người/năm
Với mục tiêu hàng đầu là đấu tranh chống nạn nghèo khổ ở các nước
đang phát triển, WB đã đưa ra chuẩn nghèo đói tính theo số Calo tối thiểu cần
thiết cho một người để sống là 2100 Calo/người/ngày, những hộ gia đình
không đảm bảo được mức này là những hộ nghèo khổ. Tiêu chuẩn này được
tính chung cho các nước trên thế giới, do đó nghèo khổ theo tiêu chuẩn này
chính là nghèo tuyệt đối. Theo mức đánh giá chung của thế giới, để đảm bảo
mức 2100 Calo/người/ngày thì cần ít nhất là 1USD/người/ngày. Theo tiêu
chuẩn này, thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đói nghèo, các khu vực có người
nghèo nhất thế giới hiện nay là Châu Phi và Châu Á.
WB còn đưa ra khuyến nghị thang đói nghèo như sau:
Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới:
+ Đối với nước nghèo là 0,5 USD/người/ngày
+ Đối với nước đang phát triển là 1 USD/người/ngày
+ Đối với các nước thuộc khu vực Mỹ La tinh và Caribe là 2
USD/người/ngày
+ Các nước Đông Âu là 4 USD/người/ngày
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/người/ngày.
15
Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện đặc thù của từng nước, các quốc
gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình. Thông thường, chuẩn quốc gia thấp
hơn thang nghèo đói mà WB đưa ra. Ví dụ, Mỹ đưa ra là thu nhập dưới
16.000 USD đối một gia đình chuẩn (gia đình 4 người) trong một năm, tương
đương với 11,1USD/người/ngày, Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là 960
Nhân dân tệ/người/năm tương đương với 0,33 USD/người/ngày.
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình xoá đói giảm
nghèo ở Việt Nam, WB cũng đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Thứ nhất, số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2100 Calo/người/ngày, gọi là chuẩn
nghèo về lương thực thực phẩm.
Thứ hai, số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi tiêu cho nhu cầu phi lương thực thiết yếu khác, gọi là chuẩn
nghèo chung. Theo quan niệm của WB, ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lương thực,
thực phẩm để đảm bảo đủ lượng 2.100 Calo/người/ngày (tương đương 70%
chi tiêu) còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi lương thực, thực phẩm
(tương đương 30% chi tiêu).
Ở Việt Nam, ngoài gợi ý về cách xác định chuẩn đói nghèo theo mức
hưởng thụ calo do bữa ăn mang lại hàng ngày qui đổi ra thu nhập của WB đã
nêu trên, các nhà nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã
nêu ra các mức xác định chuẩn mực đói nghèo khác nhau, điển hình là cách
xác định của TCTK và của BLĐ-TB&XH.
Theo quan niệm của TCTK, tiêu chuẩn nghèo được xác định thông qua tiêu
thụ lương thực, thực phẩm, chưa tính đến việc tiêu thụ hàng hóa phi lương thực,
thực phẩm. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn này
thuộc vào diện hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo được tính riêng cho 2 khu vực: thành
thị và nông thôn. Trên cơ sở định mức chuẩn dinh dưỡng 2100 Calo/người/ngày,
TCTK đã xác định chuẩn nghèo của Việt Nam qua các năm như sau:
16
Năm 1997-1998, TCTK không tiến hành điều tra đa mục tiêu như các
năm trước, mà phối hợp với Ngân hàng thế giới (WB) tiến hành điều tra mức
sống hộ gia đình Việt Nam, trong đó tình trạng nghèo được nghiên cứu theo
phương pháp đo lường mức sống của WB. Theo TCTK, tiêu chuẩn nghèo của
TCTK và WB tương đương nhau, tỷ lệ nghèo do hai cơ quan này đưa ra cũng
rất gần nhau và đều dựa trên số liệu về thu nhập hoặc chi tiêu được điều tra
một cách khách quan.
Bộ LĐ-TB&XH đồng tình với quan điểm về đói nghèo của hội nghị
chống đói nghèo khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại
Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993. Chuẩn nghèo được dùng để đánh giá mức
độ đói nghèo ở Việt Nam là tính theo thu nhập nhân khẩu một tháng hoặc một
năm và được đo bằng giá trị hoặc hiện vật qui đổi. Vì chuẩn nghèo là một
khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không gian, ở
Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo 3 vùng sinh thái khác nhau, đó là:
vùng thành thị, vùng nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về
thời gian, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo chủ yếu dựa vào các số
liệu về thu nhập của hộ gia đình tùy theo thời kỳ phát triển của đất nước.
Theo phương pháp trên và căn cứ vào mức sống thực tế của các địa
phương, Bộ LĐ-TB&XH đã 5 lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập
bình quân đầu người cho các giai đoạn cụ thể khác nhau: giai đoạn 19931995, giai đoạn 1996- 2000, giai đoạn 2001- 2005, giai đoạn 2006 - 2010 và
gia đoạn 2011 - 2015.
Năm 2001, theo quyết định số 1143/2000/QĐ - LĐ-TB&XH ngày
01/11/2000 của Bộ LĐ-TB&XH, hộ đói nghèo ở nước ta giai đoạn 2001 2005 được điều chỉnh theo mức chuẩn mới với mức thu nhập bình quân 1 đầu
người trong hộ cho từng vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo : 80.000 đồng/người/tháng
+ Vùng nông thôn đồng bằng
: 100.000 đồng/người/tháng
17
+ Vùng thành thị
: 150.000 đồng/người/tháng
Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg, ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau:
+ Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo;
+ Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng /người/tháng (3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tại Quyết định số 09/2011/QĐ-TTG ngày 30 tháng 01 năm 2011 của
Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho
gia đoạn 2011 - 2015.
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Nhìn chung, chuẩn nghèo của nước ta giai đoạn sau cao hơn giai đoạn
trước. Các chính sách về xóa đói giảm nghèo đã phát huy tác dụng, tỷ lệ hộ
nghèo giảm nhanh qua các năm, bình quân 2%/năm, các huyện miền núi khó
khăn thì khoảng 4%/năm. Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã
nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường, đời sống người dân
không ngừng được cải thiện.
Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thành phố Hà Nội
UBND thành phố Hà Nội đã ban hành chuẩn nghèo, cận nghèo áp dụng
cho giai đoạn 2011 - 2015, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 20/1/2011. Theo đó,
hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân 750.000 đồng/người/tháng trở
xuống đối với khu vực thành thị, từ 550.000 đồng/người/tháng trở xuống đối
với khu vực nông thôn.
18
Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 751.000
đồng/người/tháng đến 1.000.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị
và thu nhập từ 551.000 đồng/người/tháng đến 750.000 đồng/người/tháng đối
với khu vực nông thôn [44].
Sở LĐ-TB&XH Hà Nội được giao nhiệm vụ chủ trì việc chỉ đạo tổ chức
lập danh sách hộ nghèo, cận nghèo chính thức trên địa bàn Thành phố. Đồng
thời, xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện mục tiêu giảm nghèo
thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015 sau khi UBND thành phố phê duyệt.
Theo tiêu chuẩn mới nêu trên, Hà Nội sẽ có khoảng 148.000 hộ nghèo,
chiếm 9,6% (trước đây là 117.000 hộ nghèo); khoảng 61.000 hộ cận nghèo,
chiếm 3,98%.
Thời gian qua, thành phố đã tiến hành điều tra, rà soát toàn bộ các gia
đình đang sinh sống tại 577 xã, phường, thị trấn của Hà Nội để xây dựng
chuẩn nghèo, cận nghèo giai đoạn 2011 - 2015 và xác định nguyên nhân
nghèo, nguyện vọng của hộ để thống nhất chính sách, giải pháp hỗ trợ.
* Quan niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo là một phạm trù cũng mang tính lịch sử, do đó chỉ có thể
từng bước giảm nghèo, chứ chưa thể xoá sạch được nghèo. Chỉ khi nào xã hội
loài người đạt tới trình độ xã hội cộng sản như chủ nghĩa Mác - Lênin dự đoán
thì hiện tượng nghèo sẽ không còn nữa và giảm nghèo cũng không cần.
Do cách đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác nhau nên cũng có nhiều
quan niệm về giảm nghèo khác nhau:
Nếu hiểu nghèo là do đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc hậu
song vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo chính là quá trình chuyển đổi sang
phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong xã hội một cách bất
công đối với người lao động, do chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì giảm
nghèo chính là quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này.
19
Nếu hiểu đói nghèo là hậu quả của tình trạng chủ nghĩa thực dân đế
quốc kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì xóa đói giảm
nghèo là quá trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để
trên cơ sở đó phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát
triển kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số, tất nhiên không
phải bằng cách của Malthus đã làm.
Còn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo xã
hội ổn định và phát triển.
Ở nước ta hiện nay nghèo không phải là bóc lột của giai cấp tư sản và
địa chủ đối với lao động như trước đây mà do nền kinh tế nước ta đang trong
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu kém phát triển sang
nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều
trình độ sản xuất khác nhau. Có trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn trong khi
đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo, thay thế các
trình độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự khác nhau trong các tầng lớp dân cư.
Như vậy, giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình
chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang
trình độ sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ
người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách
nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn tốt hơn giúp họ từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo.
Từ những phân tích trên theo tác giả giảm nghèo là một quá trình
chuyển một bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn, từng bước thoát
khỏi tình trạng đói nghèo.
1.1.2. Nguyên nhân nghèo và sự cần thiết giảm nghèo
* Nguyên nhân của nghèo
20
Nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu và tồn tại khách quan trong quá trình
phát triển của mọi quốc gia, ngay cả các nước có nền kinh tế phát triển cao và
càng phổ biến ở các nước đang phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra
nguyên nhân nghèo dưới chủ nghĩa tư bản có nguyên nhân là quá trình bóc lột
giá trị thặng dư. Sự bóc lột tàn bạo đó đã dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai
cực đối lập: tích luỹ sự giàu có đến tột độ về phía giai cấp tư sản và tích luỹ sự
nghèo khổ về phía giai cấp công nhân. Ở các nước đang phát triển và chậm phát
triển có nguyên nhân sâu xa là trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản
xuất, sự khác biệt về năng lực lao động của mỗi thành viên trong xã hội.
Hiện nay, dưới tác động của cách mạng khoa học kĩ thuật, xu thế toàn
cầu hóa. Ngoài nguyên nhân chủ yếu mà chủ nghĩa Mác - lênin đã chỉ ra còn
nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo, không chỉ là nguyên nhân thuần
tuý về mặt kinh tế hoặc do thiên tai dịch hoạ mà có sự đan xen, thâm nhập
vào nhau của cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, cái cơ bản và cái tức thời, cả
nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân nghèo,
nhưng các ý kiến đều thống nhất ở chỗ xác định đói, nghèo là sự tác động tổng hợp
của nhiều nguyên nhân. tựu trung lại có các nhóm nguyên nhân sau:
Nhóm nguyên nhân chung.
Đây là nhóm nguyên nhân gây nên nghèo trên diện rộng, bao gồm các
nguyên nhân thuộc về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và môi trường tự
nhiên, kinh tế, xã hội.
Nghèo ở nước ta trước hết là do trình độ phát triển thấp kém của lực
lượng sản xuất. Mặc dù đã thoát khỏi những nước kém phát triển nhưng nước ta
vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, chất lượng
sản phẩm chưa tốt, giá thành cao; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm
ở nông thôn còn ở mức cao, đang là một trong những vấn đề nổi cộm của xã hội.
Biểu hiện rõ nhất là thu nhập bình quân GDP trên đầu người còn thấp. Tỉ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu GDP còn cao, trong nền kinh tế còn tồn tại một bộ
21
phận không nhỏ sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc, du canh, du cư ở đồng bào dân
tộc ít người. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, cơ cấu lại không hợp lý, lao
động chưa qua đào tạo còn chiếm phần lớn lực lượng lao động.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ. Theo đó, cũng có nghĩa là chúng ta thừa
nhận ở một chừng mực nào đó còn tồn tại trong xã hội sự bất bình đẳng về tài
sản, về điều kiện sản xuất của các thành viên trong xã hội do lịch sử để lại.
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, đối tượng sở hữu là rất đa dạng, phong
phú: sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu vốn, sở hữu lao động, sở hữu trí tuệ... vì
vậy, quan hệ phân phối cũng đa dạng nên thu nhập của các thành viên trong
xã hội cũng khác nhau. Sự chênh lệch về thu nhập, dẫn đến sự phân hoá giàu,
nghèo còn tồn tại giữa các tầng lớp dân cư là một điều khó tránh trong nền
kinh tế thị trường.
Nghèo ở nước ta còn do môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế - xã
hội không thuận lợi.
Môi trường tự nhiên không thuận lợi bao gồm: Đất đai ít màu mỡ, cằn cỗi,
độ dốc lớn, bị ảnh hưởng của bom mìn, của chất Dioxin. Đây là những nguyên
nhân làm cho năng suất cây trồng, vật nuôi thấp, thu nhập của người lao động
không đủ ăn, không có điều kiện tái sản xuất mở rộng.
Vị trí địa lý không thuận lợi, xa các trung tâm kinh tế, văn hoá, giao
thông cách trở, đi lại khó khăn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
đói, nghèo. Bởi vì, dân cư sống ở những vùng này dễ rơi vào thế bị cô lập với
bên ngoài, khó tiếp cận với thị trường, khoa học kỹ thuật, tín dụng... Do đó,
phát triển giao thông, đặc biệt là ở miền núi có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc giảm nghèo hiện nay.
Khí hậu thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, bão lũ, lốc xoáy, lở đất, mưa
đá... cũng là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đói, nghèo tình
thế trên diện rộng.
22
Môi trường kinh tế không thuận lợi bao gồm: Thiếu thốn về kết cấu hạ
tầng kĩ thuật như giao thông không thuận lợi, điện, nước… những yếu tố bảo
đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội không thuận lợi đã và đang kìm hãm
sản xuất, gây ra tình trạng đói nghèo cho cả một vùng, khu vực.
Nghèo ở nước ta hiện nay còn do sự tác động của mặt trái kinh tế thị
trường; hậu quả nặng nề của chiến tranh, của cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp trước đây để lại.
Nhóm nguyên nhân trực tiếp
Đây là nhóm nguyên nhân trực tiếp dẫn tới nghèo của cá nhân, hộ và
cộng đồng, nhóm này gồm các nguyên nhân do chính người nghèo, hoặc
chính quyền các cấp gây nên.
Nguyên nhân của chính người nghèo. Đây là những nguyên nhân thuộc
bản thân người lao động, phổ biến là: Thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn, đông
con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xã hội, lười lao động,
ốm đau, rủi ro.
Nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ
về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính
sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến
nông, lâm, ngư, chính sách trong giáo dục đào tạo, y tế, giải quyết đất đai,
định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn hạn chế.
Kết quả điều tra về xã hội học cho thấy:
- Thiếu vốn: 70 - 90% tổng số hộ được điều tra.
- Đông con: 50 - 60% tổng số hộ được điều tra.
- Rủi ro, ốm đau: 10 - 15% tổng số hộ được điều tra.
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 40 - 50% tổng số hộ được điều tra.
- Neo đơn, thiếu lao động: 6 - 15% tổng số hộ được điều tra.
- Lười lao động, ăn chơi hoang phí: 5 - 6% tổng số hộ được điều tra.
- Mắc tệ nạn xã hội: 2 - 3% tổng số hộ được điều tra.
23
Mỗi đối tượng nghèo có nguyên nhân riêng, có thể có một hoặc
nhiều nguyên nhân, việc phân loại chúng chỉ là tương đối, thông thường
các nguyên nhân đan xen, tác động lẫn nhau. Do đó, để giảm nghèo có hiệu
quả phải tìm hiểu xác định đúng nguyên nhân, đặc biệt là nguyên nhân cơ
bản đối với từng đối tượng cụ thể từ đó mà có giải pháp phù hợp.
* Sự cần thiết giảm nghèo
Giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là vấn đề
kinh tế - xã hội quan trọng, do đó giảm nghèo góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” mà Đảng
ta đã xác định.
Giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, giảm
nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để giảm nghèo về văn hoá, xã hội.
Giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc tốt sức khoẻ
nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập
vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh,
giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định
tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ
trương của đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn
xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ
và yêu cầu giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia
tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với hậu quả
là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và xã hội
làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế - xã hội. Không giải quyết
thành công các chương trình giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công
bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và
phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. Không tập trung nỗ lực, khả
24
năng và điều kiện để giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác
và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước nhằm đưa nước ta đạt tới trình độ phát triển tương đương với quốc tế và
khu vực, thoát khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
Giảm nghèo mở rộng cơ hội lựa chọn cho cá nhân, nhất là nhóm người
nghèo, nâng cao năng lực cá nhân để thực hiện có hiệu quả sự lựa chọn của mình
trong tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng cách
và sự chênh lệch quá đáng về mức sống giữa nông thôn và thành thị, các
nhóm dân cư. Giảm nghèo tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý hơn,
từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cả trong khâu phân phối tư liệu
sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cho mỗi người, nhất là nhóm
người nghèo. Hỗ trợ tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, nhất
là dịch vụ xã hội cơ bản.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố ảnh hướng đến giảm
nghèo ở thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về giảm nghèo ở thành phố Hà Nội
Trên cơ sở quan niệm về giảm nghèo nói chung, giảm nghèo ở thành
phố Hà Nội là tổng thể các hoạt động của Thành ủy, HĐND, UBND, các Sở,
Ban, Ngành và Nhân dân thành phố Hà Nội nhằm chuyển một phần dân cư
nghèo trên địa bàn Thành phố lên một mức sống cao hơn, từng bước thoát
khỏi tình trạng nghèo.
Như vậy, giảm nghèo ở thành phố Hà Nội là trách nhiệm của cấp ủy
Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và nhân dân trên địa bàn Thành
phố. Để thực hiện giảm nghèo có hiệu quả cần thực hiện tổng thể và đồng bộ
các hoạt động như:
Tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và
nâng cao năng lực, nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức, người dân
25