Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học cơ sở lý LUẬN đổi mới QUẢN lý LUẬT sư ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.31 KB, 113 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi bộ máy nhà nước, trong
đó có hệ thống tư pháp phải đổi mới cho phù hợp. Cải cách tư pháp là nhiệm
vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị đã có nhiều nghị quyết về hoàn thiện nhà nước và
pháp luật, trong đó có một số nghị quyết về đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII); Nghị quyết
Trung ương 3 (khóa VIII); Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII); Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) "về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị (khóa IX) về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020";
và gần đây là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Theo đó đổi mới
hệ thống tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt động là nhằm xây dựng các cơ
quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp
phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng ta về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung đó là vấn đề đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó đổi mới tổ chức
và hoạt động luật sư là vấn đề trung tâm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ:



2

Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế
bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng
thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo
điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư;
đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của
mình [25, tr. 6].
Trong 20 năm đổi mới (1986 - 2006), kể từ khi cải cách tư pháp được
khởi động, chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới tổ chức và hoạt
động luật sư. Nhờ đó, tổ chức và hoạt động luật sư trong thời gian qua không
những đã đáp ứng kịp thời một phần nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao
của cá nhân, tổ chức; góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công
cuộc cải cách tư pháp, mà còn góp phần từng bước tạo lập môi trường pháp lý
thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu, tổ chức và hoạt động
luật sư còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đội ngũ luật sư còn thiếu về số lượng. Số
lượng luật sư hiện có so với dân số cả nước vẫn còn quá thấp. Sự phát triển
luật sư còn mất cân đối giữa các vùng, miền. Chất lượng đội ngũ luật sư hiện
nay chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế. Hoạt động luật sư chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển
của luật sư là do công tác quản lý luật sư còn nhiều bất cập và hạn chế. Có thể
khẳng định rằng, việc quản lý luật sư thời gian qua chưa được quan tâm đúng
mức, thực hiện chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đầu tư nghiên cứu một
cách cơ bản về lý luận, chậm tổng kết thực tiễn. Những yếu kém và hạn chế



3

trong công tác quản lý luật sư thể hiện ở chỗ nhà nước chưa quy định rõ nội
dung quản lý nhà nước và nội dung tự quản, chưa phân định rõ thẩm quyền quản
lý. Tổ chức luật sư toàn quốc với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư trong phạm vi toàn quốc để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật
sư trong hành nghề chưa được thành lập. Do vậy, trong quản lý luật sư vẫn còn
tình trạng thiếu tập trung, thiếu thống nhất từ phía nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, làm cho công tác quản lý luật sư còn lúng túng, hiệu
quả không cao.
Trong thời gian qua, đội ngũ luật sư ở nước ta ngày càng phát triển cả
về số lượng và chất lượng. Hoạt động luật sư cũng ngày càng được mở rộng
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, tổ chức và hoạt động
luật sư hiện nay đã làm tăng thêm tính phức tạp trong công tác quản lý ở lĩnh
vực này. Nâng cao vai trò của nhà nước trong việc phát triển đội ngũ luật sư
đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị,
trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội
đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc
cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ rất bức xúc hiện nay.
Hơn nữa nghề luật sư có tính đặc thù, các luật sư hoạt động độc lập, tự
chịu trách nhiệm, ngoài việc tuân thủ pháp luật còn phải tuân theo quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư trong hành nghề. Nhà nước không thể làm
thay chức năng của tổ chức xã hội - nghề nghiệp và cũng không thể can thiệp
vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Để tổ chức và hoạt động luật sư hoạt
động có hiệu quả thì không thể thiếu vai trò quản lý của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư. Việc phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà
nước về luật sư và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
theo hướng nhà nước chỉ làm những gì thuộc về chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp phát huy vai trò tự quản đối với luật sư và

tổ chức hành nghề luật sư, tăng cường ý thức trách nhiệm của cá nhân luật sư


4

trong hành nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề
nghiệp, kỷ luật hành nghề, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong
xã hội là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
và thực trạng tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta, việc nghiên cứu thực
hiện đề tài luận văn "Cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật sư ở Việt Nam hiện
nay" là cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Thông qua việc
nghiên cứu sẽ làm rõ thêm, bổ sung thêm cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đối
với quản lý luật sư nhằm từng bước hoàn thiện quản lý luật sư trong điều kiện
cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, việc nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý luật
sư vẫn còn chưa được chú trọng đúng mức. Cho đến nay, chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về vấn đề quản lý
luật sư.
Trong lĩnh vực luật sư và hành nghề luật sư đã có một số đề tài nghiên
cứu, đó là:
- Đề tài cấp Bộ năm 2005: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt
Nam" do đồng chí Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư
pháp làm chủ nhiệm đề tài;
- Đề tài cấp Bộ năm 2005: "Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng,
nhu cầu và định hướng phát triển" do Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên
tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài;

- Đề tài nhánh 05 thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước mã số
KX 04 giai đoạn 2001 - 2005: "Cải cách tổ chức và hoạt động Bổ trợ tư pháp


5

trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do
Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ
Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài;
- Luận án Tiến sĩ năm 2003 của Phan Trung Hoài về "Hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam";
- Luận văn Thạc sĩ năm 2001 của Dương Đình Khuyến về "Vấn đề xã
hội hóa hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật".
Những công trình nghiên cứu khoa học trên đây đề cập nhiều về thực
trạng tổ chức luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam, góp phần làm rõ hơn
các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động luật sư. Trong số đó
có nhiều kiến giải, luận điểm khoa học đã được vận dụng vào thực tiễn.
Tuy nhiên, những công trình trên không tập trung nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề quản lý luật sư mà chỉ đi vào một khía cạnh nhất định của nội
dung quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động luật sư.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận đổi mới
quản lý luật sư, góp phần từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý luật sư ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề về hành nghề luật sư; nội dung của
quản lý luật sư trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Xây dựng cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật sư ở Việt Nam hiện nay
nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động luật sư, đáp ứng yêu cầu của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

* Nhiệm vụ:


6

- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý luật su.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý luật sư để làm rõ thực tiễn
quản lý luật sư ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý luật sư trong điều kiện cải
cách tư pháp ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời sử dụng những phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây: Phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ những vấn đề về lý luận, đưa ra những luận cứ khoa học quan
trọng về đổi mới quản lý luật sư ở nước ta. Trên cơ sở đó, đưa ra phương
hướng đổi mới quản lý luật sư trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo để nghiên cứu,
xây dựng cơ chế quản lý luật sư ở Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời
cũng là cơ sở để bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về
luật sư và hành nghề luật sư, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.



7


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LUẬT SƯ

1.1. KHÁI NIỆM LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ

1.1.1. Khái niệm luật sư
Ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn tồn tại hai khái niệm "luật sư" và "luật
gia". "Luật sư" và "Luật gia" được hiểu khác nhau và đôi lúc còn có sự nhầm
lẫn.
Theo cách giải thích của nhiều từ điển và qua tìm hiểu thực tiễn của
một số nước, thuật ngữ "Jurist" (luật gia) được hiểu là người có kiến thức về
pháp luật, những chuyên gia luật. Có thể hiểu đó là tất cả những người có
bằng cử nhân luật trở lên.
Ở Việt Nam, "luật gia" được hiểu rất rộng, không chỉ những người có
bằng cử nhân luật trở lên mà cả những người không có bằng cử nhân luật
nhưng có kiến thức về pháp luật và đã, đang làm công tác pháp luật trong cơ
quan, tổ chức. Hội viên Hội luật gia được hiểu là công dân Việt Nam có phẩm
chất đạo đức tốt, đã hoặc đang làm công tác pháp luật trong cơ quan, tổ chức
với thời gian từ ba năm trở lên, chấp nhận Điều lệ của Hội [33, tr. 7-8].
Thuật ngữ "Lawyer" (luật sư) là luật gia được đào tạo về kỹ năng hành
nghề, được gia nhập Đoàn luật sư, qua đó được công nhận là luật sư để hành
nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp luật hoặc một
trong hai lĩnh vực này.
Tương đương với hai thuật ngữ trong tiếng Anh "jurist" và "lawyer" là
hai thuật ngữ trong tiếng Pháp "juriste" (luật gia) và "avocat" (luật sư, trạng sư).

Có thể nói, khái niệm "luật sư" luôn là vấn đề gặp nhiều khó khăn
trong quá trình xây dựng pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư. Tham


9

khảo kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, không phải nước nào họ cũng đưa ra
khái niệm hoặc định nghĩa về luật sư. Khái niệm luật sư không phải có sự
hiểu biết thống nhất hoặc quy định giống nhau ở các nước trên thế giới. Hầu
hết ở các nước có nghề luật sư phát triển, việc đưa ra khái niệm hoặc định
nghĩa về luật sư chỉ mang tính quy ước, khái niệm luật sư thường mang tính
hình thức hơn là khái niệm về mặt nội dung.
Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 của nước ta đã chính thức hóa
thuật ngữ "luật sư". Tuy nhiên, Pháp lệnh chưa đưa ra được một khái niệm
hay định nghĩa hoàn chỉnh về luật sư. Theo quy định của Pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987, người muốn trở thành luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư.
Thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư và luật sư tập sự. Một người muốn
trở thành luật sư hoàn toàn do Hội nghị toàn thể Đoàn luật sư quyết định.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 được ban hành thay thế Pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987. Pháp lệnh này đã đưa ra được khái niệm luật sư, cụ thể theo
Điều 1 Pháp lệnh luật sư năm 2001: "Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề
theo quy định của Pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn
pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật..." [43, tr. 8].
Luật luật sư được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày
22/6/2006 quy định, trong đó Điều 2 quy định: "Luật sư là người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức..." [37, tr. 1]. Như vậy,
khái niệm luật sư ở nước ta được thể hiện theo hướng luật sư là người có đủ
điều kiện hành nghề luật sư và hành nghề luật sư.

Điều kiện hành nghề luật sư là được nhà nước cấp Chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư. Như vậy, ở nước ta luật sư là luật


10

gia, có thể là thành viên Hội luật gia, nhưng luật sư và luật gia là hai khái
niệm khác nhau, là luật gia chưa hẳn đã phải là luật sư.
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng, không thể thiếu đối với luật
sư là phải được đào tạo nghề sau khi đã tốt nghiệp đại học luật. Chức năng
của luật sư là cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, bao gồm việc
tham gia tố tụng để bào chữa hoặc biện hộ cho bị can, bị cáo, đương sự, thực
hiện tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức, làm các dịch vụ pháp lý khác và
hưởng tiền thù lao do khách hàng trả. Trách nhiệm xã hội của luật sư là góp
phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm
trong hành nghề, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà luật
sư gây ra cho khách hàng. Trách nhiệm vật chất của luật sư là trách nhiệm vô
hạn. Ngoài việc phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật, luật sư còn phải tuân
theo các quy tắc hành nghề, trong đó có các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư do tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư ban hành. Ở nước ta
không có sự phân chia thành hai loại luật sư là luật sư tranh tụng và luật sư tư
vấn.
1.1.2. Khái niệm hành nghề luật sư
Ở Việt Nam lâu nay vẫn sử dụng các cụm từ "nghề luật sư", "nghề
nghiệp luật sư" và "hành nghề luật sư". Thực ra gọi như vậy không hoàn toàn
chính xác về mặt ngôn ngữ. Bởi vì, "luật sư" là một danh từ chỉ người, chứ
không phải dùng để chỉ một nghề. Trong tiếng Anh người ta dùng "Lawyer"
(luật sư) và "practice law" (hành nghề luật). Tuy nhiên, việc sử dụng các cụm
từ "nghề luật sư" hay "nghề nghiệp luật sư" và "hành nghề luật sư" là phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam, có thể chấp nhận được, bởi vì nếu dùng cụm từ

"nghề luật" thì e rằng theo cách hiểu của ngôn ngữ Việt Nam sẽ quá rộng,
không phải chỉ là việc bào chữa, biện hộ trước tòa án và làm tư vấn pháp luật
(cung cấp dịch vụ pháp lý) của luật sư.


11

Theo thói quen sử dụng ngôn ngữ Việt Nam trong văn nói cũng như
trong văn viết thì cụm từ "nghề luật sư" có thể được chấp nhận, cũng giống như
nói "kiến trúc sư" và nghề "kiến trúc sư", "thày thuốc" và "nghề thày thuốc"
v.v... Pháp lệnh luật sư năm 2001 chính thức chấp nhận các cụm từ "nghề luật
sư", "nghề nghiệp luật sư" và "hành nghề luật sư".
Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì "hành nghề luật sư"
được hiểu là việc luật sư tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp
luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật.
Luật luật sư đã khái quát hơn, mở rộng hơn khái niệm "hành nghề luật
sư". Theo đó, hành nghề luật sư là việc luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý bao
gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng
và làm các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
"Hành nghề luật sư" theo quy định của Luật luật sư là phải hành nghề
chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn sâu về kiến thức pháp lý và kỹ năng
hành nghề. Việc hành nghề luật sư chủ yếu phải bằng trình độ và kinh nghiệm
chuyên môn mà đối tượng phục vụ là khách hàng. Luật sư cung cấp "dịch vụ
pháp lý" cho khách hàng và nhận thù lao từ khách hàng.
Theo thông lệ của các nước trên thế giới, cũng như theo quy định của
pháp luật Việt Nam thì nội dung của hành nghề luật sư bao gồm việc tham gia
tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; hoặc tham gia tố

tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong các vụ án dân sự hoặc hành chính; hoặc tham gia tố
tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; tư vấn pháp luật, soạn thảo hợp đồng,
đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; đại diện ngoài tố tụng để thực hiện


12

các công việc có liên quan đến pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức và
thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Các luật sư được hành nghề tự do, tự do lựa chọn hình thức tổ chức hành
nghề hoặc là Văn phòng luật sư, hoặc là Công ty luật, hoặc là làm việc theo hợp
đồng cho Văn phòng luật sư, Công ty luật, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân.
Các luật sư tự tổ chức việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật.
1.2. QUẢN LÝ LUẬT SƯ

1.2.1. Đặc thù của nghề luật sư và vấn đề quản lý luật sư
1.2.1.1. Đặc thù của nghề luật sư
Chức năng xã hội của luật sư là tham gia bảo vệ công lý, góp phần bảo
đảm công bằng xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua việc tham gia tố tụng,
tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Các nước
trên thế giới và các nước trong khu vực đều có quan niệm chung coi nghề luật
sư là một nghề đặc biệt so với các ngành nghề khác. Tính đặc thù của nghề
luật sư được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn và cũng không
dựa vào vốn mà chủ yếu dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề
của luật sư. Nghề luật sư gắn với pháp luật và việc thi hành pháp luật. Chính
vì vậy luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật
mà ở họ có những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ, các luật sư cần có kiến thức

pháp luật, thông thạo kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, luật sư với tư cách là một người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể pháp lý nên luật sư có nhiệm vụ bảo đảm sự công bằng,
khách quan của pháp luật. Thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật,
luật sư góp phần trực tiếp vào việc thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc


13

sống. Vì thế, các nước trên thế giới đều cho rằng nghề luật sư là một nghề
trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý.
Thứ ba, nguyên tắc của nghề luật sư là phải độc lập, liêm chính, nhân
đạo và dũng cảm. Tính khách quan trong nghề luật sư được đề cao. Nghề luật
sư là nghề không chịu sự chi phối của quyền lực. Vì vậy, nghề luật sư rất chú
ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự
do trong tổ chức hành nghề luật sư. Đây là yêu cầu cần thiết để luật sư có thể
hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
Thứ tư, nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư độc lập trong hành
nghề, tự chịu trách nhiệm về việc hành nghề của mình theo quy định của pháp
luật. Hành nghề luật sư không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn, tuân thủ pháp
luật mà còn phải chịu sự điều chỉnh khắt khe bởi quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp.
Thứ năm, tổ chức luật sư không nằm trong bộ máy nhà nước, hoạt động
của luật sư không chỉ liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của công dân mà
còn liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật và có ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ
quan tiến hành tố tụng. Do đó, có thể nói nghề luật sư mang tính "giám sát"
hoạt động của các cán bộ và các cơ quan chức năng của nhà nước.
Những điểm đặc thù trên đây của nghề luật sư là những yếu tố rất
quan trọng quy định và chi phối nội dung, cách thức quản lý luật sư.

1.2.1.2. Vấn đề quản lý luật sư
Khi nghiên cứu pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư của các nước
trên thế giới thấy rằng pháp luật của các nước thường không quy định cụ thể
về khái niệm hay định nghĩa chung về quản lý luật sư. Tựu trung, các nước
đều có quan niệm thống nhất là quản lý luật sư bao gồm hoạt động quản lý
nhà nước về luật sư và tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư,


14

mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư đối với luật sư. Quan niệm về quản lý luật sư như vậy là
phù hợp bởi xuất phát từ những đặc thù của nghề luật sư.
Quản lý luật sư ở nước ta cũng được hiểu là hoạt động quản lý nhà
nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và hoạt động tự quản của các
Đoàn luật sư. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 đã có quy định những nội
dung quản lý luật sư bao gồm nội dung quản lý nhà nước, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quản lý về luật sư, đồng thời quy định chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của Đoàn luật sư với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư trong việc quản lý luật sư. Có thể khẳng định rằng, Pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987 quan niệm còn giản đơn về quản lý luật sư, mới chỉ quy
định sơ lược về nội dung quản lý nhà nước và nội dung tự quản của Đoàn luật
sư mà chưa quy định mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 được ban hành, vấn đề quản lý luật sư là
một trong những nội dung quan trọng của Pháp lệnh. Quản lý luật sư bước
đầu được thể hiện theo quan niệm chung nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế
và phù hợp với hoàn cảnh nước ta trong điều kiện chúng ta chuyển đổi từ cơ
chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Theo đó, Pháp lệnh luật

sư năm 2001 quy định rõ hơn những nội dung quản lý luật sư, cụ thể hóa nội
dung quản lý nhà nước, phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư trong quản lý luật sư. Tuy nhiên,
cũng như Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, một lần nữa Pháp lệnh luật sư
năm 2001 cũng chưa làm rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Điều đó dẫn đến hệ quả là hoạt
động quản lý luật sư còn chung chung, có lúc, có nơi nhà nước làm thay công


15

việc của Đoàn luật sư, can thiệp sâu vào hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Ngược lại, có lúc, có nơi còn phó mặc cho Đoàn luật sư, buông lỏng quản lý
luật sư v.v. Thực tiễn 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 cho thấy,
quản lý luật sư vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế về nghề luật sư. Cho đến nay khái niệm quản lý luật sư vẫn
luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận, vì vậy cần phải được tiếp tục nghiên cứu
nhằm đổi mới và hoàn thiện nó ở Việt Nam trong điều kiện chúng ta xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Quản lý nhà nước về luật sư
Quản lý nhà nước về luật sư là một trong những nội dung quan trọng
có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý luật sư. Ở tất cả các nước trên thế
giới và trong khu vực, vấn đề quản lý nhà nước về luật sư đều được đặt ra.
Các nước có hệ thống pháp luật và tư pháp khác nhau thì vấn đề quản lý nhà
nước về luật sư cũng khác nhau, vai trò và mức độ quản lý nhà nước về luật
sư cũng khác nhau.
Các nước có nghề luật sư hàng trăm năm nay như Anh, Pháp, Đức v.v...,
vai trò và mức độ quản lý nhà nước về luật sư có những giới hạn nhất định.
Nhà nước quản lý luật sư chỉ thông qua việc ban hành khung pháp luật thống
nhất, thực hiện việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đối với luật

sư. Nhà nước không giám sát, tác động hay can thiệp vào hoạt động nghề
nghiệp của luật sư. Có thể khẳng định rằng, ở những nước có nghề luật sư
phát triển, nhà nước không quản lý luật sư bằng các biện pháp hành chính,
không can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư mà chỉ xây dựng một
hành lang pháp lý chặt chẽ để các luật sư hoạt động. Điều này không đồng
nghĩa với việc nhà nước không quản lý hoặc buông lỏng quản lý luật sư. Để
nhà nước chỉ quản lý luật sư bằng pháp luật thì đòi hỏi pháp luật về luật sư và
hành nghề luật sư được nhà nước xây dựng và ban hành phải hoàn thiện, đồng


16

thời luật sư phải có trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp cao, tổ chức luật
sư cũng được phát triển ngang tầm.
Đối với những nước nghề luật sư mới được hình thành thì việc quản lý
nhà nước về luật sư là cần thiết và có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển luật
sư và hành nghề luật sư. Nhà nước quản lý luật sư bằng việc ban hành các văn
bản pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động luật sư nhưng
đồng thời phải hỗ trợ về mọi mặt để tổ chức, hoạt động luật sư tồn tại, củng
cố và phát triển.
Có thể khái quát chung, quản lý nhà nước về luật sư là sự tác động
của các chủ thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới tổ
chức, hoạt động luật sư nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước. Đó là
sự tác động của các cơ quan nhà nước (cơ quan hành pháp hoặc cơ quan tư
pháp) khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được nhà nước giao
cho trong việc quản lý luật sư.
Nghề luật sư ở Việt Nam mới được hình thành và phát triển. Vì vậy,
quản lý của nhà nước về luật sư càng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Việc quản lý nhà nước về luật sư ở nước ta không phải ngoại lệ mà nó
phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển nghề luật sư ở nước ta, ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, việc quản lý nhà nước về luật sư cũng khác nhau.
Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 và Quy chế Đoàn luật sư ban hành
kèm theo Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý, bao gồm
cả cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội. Tuy nhiên, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và Quy chế Đoàn luật sư
không quy định rõ nội dung và thẩm quyền quản lý của từng cơ quan, tổ chức,
sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý luật sư, đặc biệt là


17

không quy định quyền năng cho các cơ quan quản lý nhà nước xử lý những vi
phạm Pháp lệnh tổ chức luật sư, Quy chế Đoàn luật sư của các Đoàn luật sư.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã khắc phục những yếu kém và nhược
điểm của Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 nói chung và vấn đề quản lý
nhà nước về luật sư nói riêng. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001
thì quản lý nhà nước về luật sư là hoạt động không thể thiếu, là sự tác động
của các cơ quan hành chính nhà nước (Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
chủ yếu bằng pháp luật nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước. Nội
dung quản lý nhà nước đã đi theo hướng phân định rõ nội dung và thẩm
quyền quản lý nhà nước, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền về quản lý
luật sư.
Trong thời điểm ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì những quy
định của Pháp lệnh luật sư 2001 về nội dung quản lý nhà nước về luật sư là
một bước tiến lớn so với Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987. Tuy nhiên, xét
về mặt thực tế khi thực hiện những nội dung quản lý nhà nước về luật sư theo
quy định của Pháp lệnh thì hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao. Vì vậy, phải tiếp
tục nghiên cứu nhằm từng bước đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý nhà

nước về luật sư trong thời gian tới theo hướng xây dựng cơ chế quản lý luật
sư vừa thống nhất, chặt chẽ, phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý, nội dung
quản lý và đồng thời phù hợp với trình độ, năng lực của đội ngũ luật sư ở
nước ta.
1.2.3. Tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
Tổ chức xã hội nói chung là hình thức tổ chức tự nguyện của nhân
dân, hoạt động theo nguyên tắc tự quản nhằm đáp ứng những lợi ích chính
đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ
quan nhà nước mà còn được tiến hành bởi các tổ chức xã hội và cá nhân công


18

dân. Là một bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to
lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một loại hình tổ chức xã hội do nhà
nước cho phép thành lập, được hình thành theo quy định của nhà nước. Muốn
trở thành thành viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp phải đáp ứng đầy đủ
những điều kiện do nhà nước quy định. Hoạt động nghề nghiệp của các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là một bộ phận của tổ chức
xã hội trong hệ thống chính trị, được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của luật sư, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ luật sư, giám sát
việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, thực
hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là hoạt
động nhân danh chính tổ chức mình để tham gia quản lý luật sư. Đồng thời,

trong một số trường hợp do pháp luật quy định, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư hoạt động quản lý luật sư nhân danh nhà nước. Nhà nước thừa
nhận và bảo hộ sự tồn tại của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư bằng
việc cho phép tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được thành lập và quy
định quyền và nghĩa vụ pháp lý của chúng. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư hoạt động tự quản theo Điều lệ do các thành viên xây dựng trên cơ sở
đồng thuận và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo
Điều lệ và theo quy định của nhà nước, trong đó nhà nước không trực tiếp can
thiệp vào công việc nội bộ của chính tổ chức này cũng như không sử dụng
quyền lực của mình để sắp xếp người lãnh đạo, hay cách chức của họ trong tổ


19

chức. Có thể nói rằng, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình
thành để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ quan nhà nước giải quyết một số công
việc về luật sư và hành nghề luật sư.
Mỗi giai đoạn của quá trình phát triển nghề luật sư, vai trò tự quản của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư sẽ khác nhau và phụ thuộc vào trình
độ, tính chuyên nghiệp của luật sư. Nếu nội dung quản lý luật sư nặng về
quản lý nhà nước, coi nhẹ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư hoặc ngược lại coi nhẹ quản lý nhà nước, nặng về tự quản đều ảnh hưởng
không tốt đến sự phát triển nghề luật sư.
Nghiên cứu pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam
trong quá trình hình thành và phát triển nghề luật sư, chúng ta thấy rằng, vấn
đề tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được quy định rất
khác nhau trong các giai đoạn lịch sử. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 đã
thể hiện việc xã hội hóa lĩnh vực luật sư một cách triệt để, quy định chức năng
tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư rất lớn. Nhà nước đã giao

cho Đoàn luật sư nhiều quyền, từ việc công nhận luật sư, giám sát hoạt động
hành nghề đến việc thi hành kỷ luật luật sư v.v... Pháp lệnh luật sư năm 2001
quy định về quản lý luật sư được thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Sau gần 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư, công tác
quản lý hành nghề luật sư đã đạt được những kết quả nhất định. Nhìn chung,
các Đoàn luật sư đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng tự quản
của mình. Ban chủ nhiệm nhiều Đoàn luật sư đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư
pháp trong việc quản lý về luật sư, trong việc kiểm tra hoạt động hành nghề
của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, kịp thời phát hiện và xử lý các biểu
hiện vi phạm pháp luật và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.


20

1.2.4. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư
Nghề luật sư có những đặc thù riêng nên trong việc quản lý luật sư
cũng có điểm khác biệt so với việc quản lý đối với các ngành nghề khác. Việc
quản lý luật sư ở các nước đều là sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và tự quản
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, nghề luật sư là một
nghề tự do nên vai trò quản lý của tổ chức nghề nghiệp đến đâu, còn nhà nước
quản lý hoạt động này như thế nào là tùy thuộc vào quy định của từng nước.
Cùng với sự hình thành và phát triển của nghề luật sư thì tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư cũng được hình thành và phát triển tương ứng.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình thành trên cơ sở tự
nguyện của các luật sư. Ở những nước mà nghề luật sư đã có từ lâu như
Anh, Pháp, Đức v.v... thì tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở những
nước đó rất phát triển và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghề
nghiệp của luật sư. Ở những nước này pháp luật quy định cho các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư có nhiều chức năng trong việc quản lý đối với

hành nghề luật sư.
Thông thường, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở các nước
được hình thành ở hai cấp là cấp trung ương và địa phương (đó là tổ chức xã
hội -nghề nghiệp ở cấp tỉnh hoặc ở các Bang, các địa hạt). Riêng ở Pháp các
Đoàn luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được thành lập bên
cạnh các Tòa án trong cùng quản hạt với Tòa thượng thẩm. Cho dù ở những
nước nghề luật sư thực sự phát triển hay không thì nhiệm vụ của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư sẽ là việc quản lý hành nghề luật sư thông qua
các việc như: bảo đảm cho luật sư hành nghề đúng pháp luật và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của luật sư; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho luật sư;
kiểm tra, giám sát việc hành nghề của luật sư trong phạm vi lãnh thổ của
mình; kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề


21

nghiệp luật sư, quy tắc hành nghề luật sư; giải quyết các vấn đề khác có liên
quan đến luật sư như cấp chứng chỉ hành nghề hàng năm cho luật sư, giải
quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật luật sư v.v...
Nghề luật sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng
pháp luật. Chức năng xã hội cao cả của luật sư là phụng sự công lý, công bằng
xã hội. Hoạt động của luật sư ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước
bằng pháp luật nói chung và có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các
cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng và mục đích cao
cả của hoạt động tư pháp. Do đó, rất cần đến sự quản lý của nhà nước. Chính
vì thế, việc quản lý luật sư không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư mà nhà nước cần có vai trò quan trọng trong việc quản lý.
Các nước đều quy định cho một cơ quan nhà nước (Tòa án tối cao
hoặc Bộ Tư pháp) công nhận luật sư và cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý
danh sách luật sư. Sở dĩ nhà nước cần phải nắm việc công nhận luật sư là vì

nghề luật sư là nghề tự do nên cần phải được nhà nước cho phép thì mới được
hành nghề. Ngoài việc cấp phép, ở mỗi nước đều có những quy định cụ thể về
việc quản lý đối với hoạt động luật sư. Đặc biệt là các nước ở Châu Á như
Trung Quốc, Hàn Quốc... thì Bộ Tư pháp quản lý các hoạt động có liên quan
đến luật sư và cả Đoàn luật sư.
Như vậy, việc quản lý luật sư không hoàn toàn giao phó cho các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất định, cũng có sự can
thiệp của quyền lực nhà nước. Đó là quyền hành pháp hay quyền tư pháp là
phụ thuộc vào phương thức tổ chức quyền lực của từng nhà nước cụ thể. Bên
cạnh sự quản lý của nhà nước thì các nước đều rất chú trọng đến vai trò tự
quản của các tổ chức nghề nghiệp luật sư. Nhưng vấn đề tự quản đối với luật
sư đến đâu là do quy định của từng nước.


22

Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) thì cần có cơ chế phát huy tính tự
chủ, tự quản của các luật sư thông qua tổ chức nghề nghiệp của họ, đồng thời
tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với đội ngũ luật sư. Để phát triển
nghề luật sư ở Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thì vai trò quản lý
của nhà nước cần được tăng cường một bước. Vấn đề này cần được thể hiện
theo hướng bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, nhưng vẫn bảo đảm
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các luật sư trong hành nghề và khuyến
khích hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Quản lý nhà nước đối với hành nghề luật sư được thể hiện bằng việc
nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về hành nghề luật sư, tổ chức đào
tạo, cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đăng ký hoạt động cho Đoàn luật sư,
các tổ chức hành nghề luật sư và kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Nhà
nước cần quan tâm đến việc đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm

chất chính trị, có đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và quy
định cụ thể, chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề và đặc biệt về hình
thức hành nghề của luật sư. Công tác quản lý nhà nước đối với nghề luật sư
cần xuất phát từ đặc thù của nghề luật sư.
Vai trò tự quản của các Đoàn luật sư cũng cần được đẩy mạnh sao cho
phù hợp với đặc thù của nghề này. Các Đoàn luật sư thực hiện chức năng
quản lý các luật sư và việc hành nghề của họ trong phạm vi những nhiệm vụ,
quyền hạn như đăng ký cho người có Chứng chỉ hành nghề luật sư được gia
nhập Đoàn luật sư, quản lý danh sách luật sư của Đoàn, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của các luật sư, giáo dục, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho các luật sư,
ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp và giám sát việc tuân thủ
đạo đức nghề nghiệp của luật sư, nhận yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
và phân công luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo
đối với luật sư của Đoàn về việc vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề


23

nghiệp, quyết định khen thưởng cho các luật sư có thành tích xuất sắc trong
hoạt động nghề nghiệp của mình, xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp và Điều lệ Đoàn luật sư, tổ chức lấy ý kiến và
tập hợp ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư trong việc xây dựng chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước v.v...
Quy định như vậy vừa phát huy được tính tự quản của tổ chức nghề
nghiệp luật sư, vừa phát huy được vai trò quản lý nhà nước và đặc biệt có sự
phối hợp giữa quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp
luật sư. Điều này được thể hiện ở chỗ để được hành nghề luật sư phải có
Chứng chỉ hành nghề do nhà nước cấp và phải được đăng ký gia nhập một
Đoàn luật sư. Đoàn luật sư chịu trách nhiệm giám sát, theo dõi hoạt động
hành nghề của các luật sư là thành viên của Đoàn mình và báo cáo định kỳ tới

cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân. Nhà nước quản lý hành
nghề luật sư thông qua việc kiểm tra, thanh tra và báo cáo của các Đoàn luật
sư. Khi phát hiện luật sư có vi phạm thì Đoàn luật sư là cơ quan đầu tiên có
trách nhiệm xem xét và xử lý. Trong trường hợp xóa tên thì phải thông báo
cho Bộ Tư pháp. Để bảo đảm quyền cho luật sư, cần quy định cho luật sư có
quyền được khiếu nại tố cáo. Cơ quan đầu tiên có trách nhiệm giải quyết là
Đoàn luật sư. Trong trường hợp không đồng ý với việc giải quyết đó thì có
thể được khiếu nại tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp hoặc Ủy ban nhân
dân.
Vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác
quản lý luật sư giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư là xác định rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước về
luật sư với quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Nhà
nước quản cái gì, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư quản cái gì cần
phải được làm rõ.


24

1.2.5. Nguyên tắc quản lý luật sư
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động có mục đích nào, quản lý luật
sư được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đó chính là những
tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ
thể quản lý thực hiện có hiệu quả các công việc của mình khi được phân công.
Các nguyên tắc quản lý luật sư được xác định là những tư tưởng chủ đạo bắt
nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được
quy định trong pháp luật. Các nguyên tắc trong quản lý luật sư được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật, thể hiện tính chất pháp lý của nó tạo ra cơ sở để
buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách thống nhất và chính xác trong hoạt
động quản lý của mình.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc tự quản của tổ chức xã

hội - nghề nghiệp luật sư là những nguyên tắc cơ bản, chủ yếu trong quản lý
luật sư ở các nước trên thế giới. Đây là những nguyên tắc chi phối mọi hoạt
động quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư.
Ở Việt Nam, nguyên tắc quản lý luật sư nằm trong hệ thống các
nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung. Những nguyên tắc cơ bản trong quản
lý luật sư ở Việt Nam là:
* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh,
thống nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước
và mọi công dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện mối tương quan giữa
hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công
chức nhà nước và hành vi xử sự của công dân đối với những quy phạm pháp


25

luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng chủ đạo, cơ bản
thể hiện bản chất và đặc điểm của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này
mang tính khách quan trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ
trang, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân.
Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước sử dụng pháp luật với tính chất là một phương tiện quan trọng để
đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên phương
tiện này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng một cách
nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội dung là
sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế,
lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân trở thành
một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Điều 12
Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" [28, tr. 17].
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc chung trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, trong tổ
chức và hoạt động luật sư ở nước ta, việc tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cần thiết và khách quan.
Nghề luật sư là một nghề đặc thù trong xã hội, do đó nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa cần được áp dụng đầy đủ trong tổ chức và hoạt động luật
sư nói chung và trong hoạt động quản lý sư nói riêng. Đảm bảo thực hiện
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý luật sư có
nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối với từng hoạt động khác nhau
như:


×